Lý luận về lượng giá trị của hàng hóa

Lượng giá trị hàng hóa đã còn là một khái niệm xa lại đối với tất cả các đối tượng, tuy nhiên để có cái nhìn toàn diện cũng như vừa cơ bản vừa đầy đủ nhất về lượng giá trị hàng hóa thì không phải ai cũng biết.

Trong bài viết hôm nay, chúng tôi sẽ cung cấp tới quý bạn đọc một số nội dung liên quan đến vấn đề: Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa.

Lượng giá trị hàng hóa là gì?

Lượng giá trị của hàng hóa là một khái niệm trong kinh tế chính trị Mac-Lenin chỉ về một đại lượng đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó, lượng lao động tiêu hao đó được tính bằng thời gian lao động, cụ thể là thời gian lao động xã hội cần thiết. Lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa.

Thứ nhất: Năng suất lao động

– Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

– Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.

– Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:

+ Trình độ khéo léo [thành thạo] trung bình của người công nhân.

+ Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.

+ Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất.

+ Trình độ tổ chức quản lý.

+ Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.

+ Các điều kiện tự nhiên.

Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.

Thứ hai: Cường độ lao động

– Cường độ lao động là đại dương chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian, nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên.

– Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng [hoặc khối lượng] hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.

– Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau là đều dẫn đến lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác nhau là tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm [hàng hóa] sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống.

Tăng năng suất lao động có thể phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật, do đó, nó gần như là một yếu tố có “sức sản xuất” vô hạn, còn tăng cường độ lao động, làm cho lượng sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi. Tăng cường độ lao động phụ thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động, do đó, nó là yếu tố của ‘sức sản xuất” có giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.

Thứ ba: Tính chất của lao động

– Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo tính chất của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.

+ Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể làm được.

+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể làm được.

– Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy về lao động đơn giản trung bình, và điều đó được quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường.

Ngoài việc chia sẻ về các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa chúng tôi còn làm rõ ý nghĩa của chúng qua nội dung dưới đây của bài viết, mời Quý vị tiếp tục theo dõi.

Ý nghĩa của các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa

– Thước đo lượng giá trị của hàng hóa: Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như một giờ lao động, một ngày lao động… Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của họ khác nhau.

– Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra. Vậy phải chăng lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều giá trị? C.Mác viết: “Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy”.

– Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với mộ trình độ kỹ thuật trung bình trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động cá biệt hết sức khác biệt nhau, thì thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cing cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào đó trên thị trường.

Như vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa đã được chúng tôi đã phân tích chi tiết trong bài viết phái trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng phân tích một số nội dung cơ bản liên quan tới lượng giá trị hàng hóa.

Thế giới đang thay đổi từng ngày, từng giờ, luôn có những bước tiến phát triển không ngừng trong các lĩnh vực về kinh tế, xã hội. Cùng với đó nhu cầu của con người để thỏa mãn cuộc sống của bản thân cũng dần tăng cao.

Để đáp ứng được nhu cầu đó, con người không ngừng phát triển cả về chất lượng cũng như số lượng của các loại hàng hóa nhằm đáp ứng được nhu cầu sử dụng cho người tiêu dùng. Thông qua trao đổi, mua bán, hàng hóa – sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định của con người.

Trong những năm gần đây Việt Nam đang tập trung hết sức để thị trường hàng hóa được ổn định và phát triển hết mức, nhưng bên cạnh đó cũng còn nhiều bất cập cần xem xét. Nắm bắt được lí luận của C.Mác về lượng giá trị của hàng hóa sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam tìm ra những giải pháp nhằm tăng chất lượng của sản phẩm cũng như tăng năng lực cạnh tranh về giá của sản phẩm, đưa thị trường hàng hóa của nước ta lên một tầm nhìn phát triển mới.

Thấy được tầm quan trọng của vấn đề trên, nhóm chúng em xin chọn đề tài “Từ góc độ lí luận về lượng giá trị hàng hóa của Mác hãy đưa ra các giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” để tìm hiểu và nghiên cứu.

Danh mục tài liệu tham khảo

  • Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia.Ha nội năm 2014.

Chương I lý luận của C.Mác về lượng giá trị hàng hóa

Hàng hóa và giá trị của hàng hóa

Hàng hóa.

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác bắt đầu bằng sự phân tích hàng hóa, vì:

Thứ nhất, hàng hóa là hình thái biểu hiện phổ biến nhất của của cải trong xã hội tư bản

Thứ hai, hàng hóa là hình thái nguyên tố của của cải, là tế bào kinh tế trong đó chứa hậu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Thứ ba, phân tích hàng hóa là phân tích giá trị – phân tích cái cơ sở của tất cả các phạm trù chính trị kinh tế học của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Giá trị của hàng hóa.

Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị hàng hàng hóa có những đặc điểm như sau:

  • Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa, vì vậy, nó là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
  • Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, gắn với nền kinh tế hàng hóa. Đó là do trong sản xuất hàng hóa, người ta phải tính đến hao phí lao động đã kết tinh trong hàng hóa để làm cơ sở cho việc trao đổi.
  • Giá trị hàng hóa là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị, nói cách khác, thông qua giá trị trao đổi mà giá trị hàng hóa được biểu hiện ra bên ngoài.
Giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam

Cơ cấu lượng giá trị của hàng hóa và Thước đo lượng giá trị của hàng hóa

Cơ cấu lượng giá trị của hàng hóa.

Đo lượng giá trị hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao động, v.v… Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời gian quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất trong điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian sản xuất của họ là không giống nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra.

C.Mác viết: “Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy.”

Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.

Cách xác định thời gian lao động xã hội cần thiết:

Thời gian lao động xã hội cần thiết là một lượng không cố định vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang thiết bị trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau và chúng cũng thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi thì lượng giá trị cảu hàng hóa cũng thay đổi.

Thước đo lượng giá trị của hàng hóa

Trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản xuất có vai trò bảo tồn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, đây là bộ phận giá trị cũ trong sản phẩm [ký hiệu là c], còn lao động trừu tượng [biểu hiện ở sự hao phí lao động trong quá trình sản xuất ra sản phẩm] có vai trò làm tăng thêm giá trị trong sản phẩm, đây là bộ phận giá trị mới trong sản phẩm [ký hiệu là v + m]. Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hóa bao gồm hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị mới.

Cơ cấu giá trị: Giá trị của hàng hoá gồm hai bộ phận:

Giá trị cũ [c]: giá trị của tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm mới.

Giá trị mới [v+m]: do lao động sống tạo ra.

G = c+ [v+m]

=> Vậy: Lao động cụ thể có vai trò bảo toàn, chuyển dịch giá trị những tư liệu sản xuất vào giá trị sản phẩm hàng hoá, làm hình thành giá trị cũ. Còn lao động trừu tượng tạo nên giá trị mới [v+m].

Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa

Năng suất lao động.

Là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian [hoặc lượng thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm].

Giá trị hàng hóa thay đổi tỉ lệ nghịch với năng suất lao động: khi năng suất lao động tăng sẽ kéo theo tổng số sản phẩm lên, tổng giá trị hàng hóa không tăng so với trước =>giá trị một đơn vị sản phẩm giảm xuống và ngược lại.

Năng suất lao động trên thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ thành thạo công việc của người lao động; mức phát triển của khoa học – kỹ thuật, công nghệ và mức ứng dọng của chúng vào sản xuất; trình đọ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; các điều kiện tự nhiên.

=> Do đó muốn tăng năng suất cần nâng cao hiệu quả của các yếu tố trên.

Cường độ lao động.

  • Là mức độ hao phí lao động [mức độ nặng nhọc, khẩn trương hay căng thẳng] của người lao động trong một đơn vị thời gian.
  • Cường độ lao động tăng nghĩa là mức hao phí sức lao động [cơ bắp, thần kinh,…] trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng.Và nếu cường đọ lao động tăng lên thì tổng số [hay khối lượng] hàng hóa cũng tăng lên nhưng tổng hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng cùng tỉ lệ.

=> Do đó giá trị hàng hóa của một đơn vị sản phẩm không thay đổi.

Căn cứ theo độ phức tạp có thể chia ra làm lao động phức tạp và lao động giản đơn.

  • Lao động đơn giản là lao động mà một người bình thường chưa qua đào tạo cũng có thể làm ra được.
  • Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải trải qua huấn luyện, đào tạo, hay lao động lành nghề mới có thể thực hiện được.

Trong cùng một thời gian hao phí như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị lớn gấp bội lần lao động giản đơn.

Giá cả của hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa

Giá cả hàng hóa

Giá trị hàng hóa là do lao động xã hội , lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, nghĩa là số lượng tiền phải trả cho hàng hoá đó. Giá cả của hàng hoá nói chung là đại lượng thay đổi xoay quanh giá trị.

Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa

Giá trị thị trường là kết quả của sự san bằng các giá trị cá biệt của hàng hoá trong cùng một ngành thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn tới hình thành một giá trị xã hội trung bình.

  • Giá trị tiền tệ [sức mua].

Trong quá trình trao đổi hàng hoá, tiền đứng ra làm môi giới nhưng tiền giấy không có giá trị mà chỉ là phu’ hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia. Vì vậy, trong việc phát hành, lưu thông tiền giấy phải được tính toán kỹ lưỡng, chính xác, phù hợp với lượng tiền cần thiết trong lưu thông. Nếu nhu cầu về tiền thực tế không thay đổi theo thời gian, thì sự gia tăng mức cung tiền danh nghĩa nhất định phải dẫn đến một lượng tăng tương ứng trong mức giá.

Sự thay đổi trong mức cung tiền gây ra sự thay đổi về giá cả. Sự thay đổi giá cả này phụ thuộc vào hai yếu tố sau:

Sự tăng lượng cung tiền gây ra sự tăng giá.

Do tác động của một số nhân tố làm cho giá cả tăng lên và Chính phủ điều tiết sự tăng lên của giá cả bằng cách in thêm tiền thì cả khối lượng tiền và giá cả cũng tăng lên.

Cầu là nhu cầu về hàng hóa có khả năng thanh toán. Như vậy, cầu và nhu cầu có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không phải là một. Chỉ những nhu cầu về hàng hóa mà có khả năng thanh toán thì mới là cầu.

Cung là số lượng hàng hóa có mặt trên thị trường hoặc có khả năng chuyển đến thị trường. Như vậy cung và sản xuất có liên quan với nhau, nhưng không phải là một. Cung và sản xuất có thể chênh lệch nhau.

Giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam

Chương 2 năng lực cạnh tranh về giá của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay: thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp nâng cao

Thực trạng năng lực cạnh tranh VỀ GIÁ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Khả năng cạnh tranh về giá của doanh nghiệp Việt Nam vẫn được nhìn nhận là tương đối thấp. Giá thành của nhiều hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam cao hơn giá cả của hàng hoá và dịch vụ cùng loại của nhiều nước trong khu vực. Năm 2005, giá đường trắng trên thế giới là 4.700 đ/kg, trong khi Việt Nam cao hơn từ 1,5 đến 2 lần.

Giá xi măng nhập khẩu [giá CIF] về đến Việt Nam trong khoảng 35 đến 40 USD/tấn, trong khi đó giá thành xi măng của Việt Nam từ 42 đến 65 USD/tấn. Giá thép xây dựng thế giới đầu năm 2005 từ 380 đến 420 USD /tấn, thì tại Việt Nam giá thép có lúc lên đến gần 500 USD/tấn.

Giá xe máy DREAM ở Thái Lan khoảng 1000 USD/chiếc, trong khi đó giá xe máy cùng loại tại Việt Nam chưa có thuế là 1.280 USD/chiếc. Giá gạo của Việt Nam trong siêu thị là 10.000đ/kg, còn giá gạo cùng loại của Thái Lan nếu bỏ thuế chỉ còn 7.500đ/kg.

Nguyên nhân của thực trạng trên

Nguyên nhân căn bản khiến năng lực cạnh tranh về giá của doanh nghiệp Việt Nam thấp là do giá cả đắt đỏ trong khi đó chất lượng hàng hóa chưa cao, chưa tương xứng với giá khi so với hàng ngoại. Vì vậy với tâm lý dùng hàng chất lượng tốt và giá cả hợp lý ,người tiêu dùng hướng tới hàng hóa nước ngoài. Lý do khiến cho giá cả đắt đỏ, chất lượng lại thấp là do năng suất lao động chưa cao. Một loạt các nguyên nhân khiến cho năng suất lao động Việt Nam thấp đó là:

Trước hết là việc tổ chức lao động chưa khoa học, phần nhiều chúng ta quản lý doanh nghiệp theo thói quen và sự tùy tiện. Nhiều khi vì người mà đẻ ra việc, chứ chưa chắc đã vì việc mà phải chọn người.

Thứ hai, nằm ở hệ thống đào tạo lao động thiên về việc “dạy lý thuyết bơi hơn là dạy kỹ năng bơi”. Chúng ta đào tạo ra nhưng lao động thao thao bất tuyệt về lý thuyết nhưng đến khi làm lại không làm được việc.

Thứ ba, lao động Việt Nam thường làm nhanh nhưng không sâu. Học hỏi khá nhanh và tự mãn ngay về điều đó. Cuối cùng, cái gì cũng có vẻ làm được nhưng ít khi có cái làm đến nơi, đến chốn, làm ra được nhiều sản phẩm nhưng chất chất lượng không cao.

Thứ tư, các doanh nghiệp Việt nam không có đủ kinh khí để đổi mới công nghệ. Bởi muốn tăng năng suất thì phải có công nghệ mới. Sự hạn chế về khoa học – kỹ thuật, công nghệ khiến cho năng suất lao động chưa cao và chất lượng chưa tốt.

Thứ 5, áp lực cạnh tranh ở nước ta nơi có nơi không. Trong một số lĩnh vực độc quyền như điện lực ,xăng dầu… tăng năng suất lao động không bằng tăng giá. Một số doanh nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào việc tăng giá thành để thu lợi nhuận.

Mặt khác, mức độ phức tạp của lao động chưa cao cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến cho năng lực cạnh tranh về giá của doanh nghiệp Việt nam thấp. Nói một cách đơn giản là lao động Việt Nam có trình độ tay nghề, chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo chưa cao, độ thành thạo còn hạn chế…do tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp.

Với nguồn nhân lực như vậy nên hàng hóa Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là gia công. Còn các doanh nghiệp nước ngoài, với nguồn nhân lực đông đảo, trình độ tay nghề cao, chuyên môn kỹ thuật đã qua đào tạo cộng với khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra một sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp nước ngoài, vượt xa hẳn các doanh nghiệp Việt Nam.

Một số Giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam – nhìn từ góc độ lượng giá trị hàng hóa.

Từ góc độ lí luận nhận thức của Các Mác về lượng giá trị của hàng hóa ta có thể đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp ở Việt nam trên thị trường. Ngày nay, nước ta đang trong quá trình toàn cầu hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường, đặc biệt là năng lực cạnh tranh về giá cả của hàng hóa.

Muốn tăng năng lực cạnh tranh về giá trước hết giải pháp quan trọng nhất của các doanh nghiệp Việt Nam là tăng năng suất lao động , đây là vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam mà họ cần quan tâm, nếu muốn doanh nghiệp phát triển mạnh và có thể đứng vững trên thị trường quốc tế.

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra trong một đơn vị sản phẩm. Tăng năng suất lao động là sự tăng lên của sức sản xuất hay năng suất lao động nói chung, làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn.

Theo C.Mác “Năng suất lao động tăng lên biểu hiện ở chỗ phần lao động sống giảm bớt lao động quá khứ tăng lên nhưng tăng như thế nào đó để hao phí lao động chứa đựng trong hàng hóa ấy giảm đi”.

Trong quá trình sản xuất, lao động sống[lao động cá biệt] và lao động quá khứ bị hao phí theo những lượng nhất định. Lao động sống là lao động mà con người bỏ ra ở hiện tại. Lao động quá khứ là lao động mà ở giai đoạn trước đã chuyển vào giá trị sản phẩm như máy móc, nguyên vật liệu.

Có hai loại năng suất lao động là năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Muốn nâng cao năng suất lao động cần nâng cao cả hai loại năng suất lao động này tuy nhiên, nâng cao năng suất lao động xã hội sẽ giảm bớt lao động chân tay.

Năng suất lao động cá biệt.

Là sức sản xuất của cá nhân người lao động, được đo bằng tỷ số số lượng sản phẩm hoàn thành và thời gian lao động để hoàn thành sản phẩm đó. Năng suất lao động cá biệt là thước đo kết quả lao động sống thường được biểu hiện bằng đầu ra trên một đơn vị hàng hóa lao động.

Việc tăng hay giảm năng suất lao động cá biệt sẽ quyết định đến sự phát triển của doanh nghiệp. Như vậy, muốn tăng năng suất lao động cá biệt của các doanh nghiệp cần phải chú ý đến các nhân tố gắn liền với bản thân người lao động như:

Phát triển các kỹ năng, trình độ văn hóa, nâng cao tay nghề của người lao động, thái độ làm việc của mỗi người trong doanh nghiệp cần phải tích cực, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao, chịu khó thích nghi với môi trường làm việc…có như vậy thì năng suất lao động cá nhân mới làm tăng khả năng cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp. Năng suất lao động cá biệt cũng là chìa khóa để mở năng suất lao động xã hội.

Năng suất lao động xã hội

Là mức năng suất của tất cả các nguồn lực của một doanh nghiệp hay toàn xã hội. Được đo bằng tỷ số giữa đầu ra của doanh nghiệp hoặc của xã hội với số lượng lao động sống và lao động quá khứ bị hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động xã hội càng phát triển, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít.

Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm thì thời giam lao động xã hộ cân thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa càng tăng, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa thì ta phải tăng năng suất lao động.

Năng suất lao động xã hội chính là sự tiêu hao của lao động sống và lao động quá khứ. Để tăng năng suất lao động xã hội cần phải tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật vào sản xuất, tăng máy móc hiện đại, các điều kiện tự nhiên… Muốn tăng năng suất lao động nói chung từ đó tăng năng lực cạnh tranh về giá,

Các doanh nghiệp ở Việt Nam cần phải tăng năng suất lao động xã hội, bản thân các doanh nghiệp phải liên tục nỗ lực đổi mới, cải tiến, tiếp thu khoa học, công nghệ nước ngoài để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng, giảm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm, sử dụng hiệu quả yếu tố con người, mở rộng quy mô sản xuất, tận dụng các yếu tố tự nhiên để phát triển kinh tế.

Qua bài tiểu luận trên, ta đã thấy được tầm quan trọng của hàng hóa cũng như giá trị của hàng hóa đối với thị trường tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay. Việc phát triển, đẩy mạnh việc nghiên cứu và sản xuất hàng hóa nhằm đáp ứng nhũng nhu cầu cấp thiết của người tiêu dùng đang là một nhiệm vụ và mục tiêu hết sức quan trọng và cấp thiết cho nền kinh tế của nước nhà.

Cùng với việc áp dụng những chính sách, giải pháp của nhà nước thì việc vận dụng lý luận về lượng giá trị hàng hóa của Mác vào việc phát triển thị trường hàng hóa là một việc hết sức cần thiết vì nó là cơ sở tiền đề, là định hướng cho sự phát triển thị trường của hàng hóa một cách ổn định, bền vững.

Trên đây là tìm hiểu, nghiên cứu của nhóm chúng em. Trong quá trình làm bài không thể tránh khỏi những thiếu xót do kiến thức còn hạn hẹp, mong thầy cô thông cảm và bổ sung thêm cho bài tập của chúng em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.

Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Từ góc độ lí luận về lượng giá trị hàng hóa của Mác hãy đưa ra các giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

Trân trọng./.

Video liên quan

Chủ Đề