Một số khái niệm: thủ công kĩ thuật, kĩ thuật, công nghệ

Thủ công là một trong ba phân môn [âm nhạc, mỹ thuật, thủ công] của môn nghệ thuật được dạy học từ lớp 1 đến lớp 3 cho học sinh tiểu học. Môn học này rất kích thích sự phát triển, sáng tạo ở học sinh tiểu học. Chỉ cần với những vật dụng đơn giản, các em đã có thể tự tạo ra cho mình một sản phẩm thủ công theo ý thích của cá nhân. Ngoài ra, phụ huynh cũng có thể cùng tham gia với các em tạo ra những sản phẩm bằng giấy dùng để trang trí trong nhà hay tại góc học tập của các em.

- Môn học rèn luyện các kỹ năng:

Kĩ năng quan sát, kĩ năng nhận xét, mô phỏng, tương tác và trải nghiệm. Môn thủ công hình thành cho học sinh thói quen lao động theo các bước, quy trình nhất định.

Gia sư lớp 2 môn Thủ công luyện cho các em tính kiên trì, sự khéo léo, nâng cao trình độ thẩm mĩ, hứng thú lao động thủ công tự bản thân các em sẽ tự tạo ra được cho mình những đồ chơi thủ công.

Mỗi bài tập thủ công là sự tỉ mỉ cắt dán các hình đó là lúc các e, đam say sưa lao động tạo ra sẩn phẩm của riêng mình.

Nếu như ở những bài tập đầu tiên các em phải làm dựa trên những vật mẫu thì càng về sau, các em dần tự do thể hiện niềm yêu thích, sự sáng tạo của bản thân qua các sẩn phẩm tự do mà các em hoàn thành được như những chiếc túi, bông hoa, ngôi nhà, con thuyền, chiếc máy bay…

Đây là môn học có sự kết hợp hài hòa giữa việc chơi mà học học mà chơi. Qua đó, các em bộc lộ niềm mơ ước của riêng cá nhân mình.

 Điều này hình thành ở các em trí tưởng tượng hướng về chân, thiện, mĩ trong cuộc sống.

- Mục đích môn thủ công lớp 2 đối với học sinh tiểu học:

Học sinh biết quan sát, học hỏi được cách làm, rèn luyện kĩ năng thực hành các bài tập thủ công tại lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

Học sinh biết vạn dụng sáng tạo những kĩ năng thực hành của mỗi bài để làm ra những sản phẩm xinh đẹp, màu sắc hài hòa theo ý thích cá nhân của các em từ đó gợi cho các em sự hứng thú trong việc học tập môn học này.

Học sinh tự mình làm những bài tập thực hành tại nhà mà không cần có sự giúp đỡ của người khác.

Để đạt được mục đích trên thì học sinh cần quan sát kĩ những bước mà giáo viên hướng dẫn ở lớp, ngoài ra có thể xem các hình ảnh minh họa có trong sách giáo khoa.

Sách giáo khoa có ghi đầy đủ các bước làm cũng như các quy trình, được minh họa bằng những hình ảnh cụ thể, có màu sắc thu hút sự chú ý của học sinh.

- Nội dung chương trình:

Chương trình có 3 chương học chính như sau:

Chương 1 Kĩ thuật gấp hình.

Chương 2 Kĩ thuật phối hợp gấp, cắt, dán hình.

 Chương 3 Kĩ thuật làm đồ chơi.

 Tiết thủ công ở lớp tiểu học chiếm 1 tiết trong một tuần học của các em học sinh.

- Chương 1: Kĩ thuật gấp hình

Nội dung chương học này xoay quanh kĩ năng gấp ở học sinh đây là kĩ năng tương đối đơn giản ở môn thủ công.

Học sinh lớp 2 sẽ được học và thực hành gấp tên lửa, gấp máy bay phản lực, gấp máy bay đuôi rời, gấp thuyền đáy phẳng loại không mui và có mui.

Đây là những đồ vật rất gần gũi với các em. Là những đồ chơi các em thường hay chơi ở nhà nhưng có thể bằng nhựa, bằng sắt.

Ở chương học này, các em tự mình làm ra bằng giấy là một điều rất thú vị và kích thích sự hăng hái tham gia của học sinh tiểu học.
Xem thêm: học phí các môn với gia sư dạy kèm tại nhà như thế nào

- Chương 2: Kĩ thuật phối hợp gấp, cắt, dán hình

Ở nội dung này không chỉ đòi hỏi học sinh kĩ thuật gấp như ở chương 1 nữa ở đây nó đòi hỏi học sinh cả 3 kĩ thuật đó là gấp, cắt và dán. Từ đây học sinh có thể làm ra được nhiều sản phẩm to lớn hơn, với quy mô cũng như chi tiết hơn.

Nội dung này tích hợp cho học sinh biết một số kiến thức về đời sống phù hợp với lứa tuổi các em như các loại biển báo cấm xe đi ngược chiều, hướng đi phải hoặc các biển báo cấm đỗ xe.

Ngoài ra, khi học chương này, học sinh có thể tự làm thiệp chúc mừng để các em có thể tự bày tỏ tấm lòng, tình cảm của mình với những người xung quanh.

Điều này giáo dục cho các em tình yêu thương, cách bày tỏ tình yêu thương mà các em nên làm đối với những người xung quanh em.

- Chương 3: Kĩ thuật làm đồ chơi

Chương này vô cùng kích thích sự tò mò, sự sáng tạo ở các em khi học sinh có thể làm ra được các món  đồ chơi ưa thích của bản thân như dây xúc xích trang trí, đồng hồ đeo tay, làm con bướm, hay làm những lồng đèn.

Chương học này hướng dẫn rất kĩ các kĩ thuật làm ra sản phẩm. Các bậc phụ huynh có thể cùng con em mình tạo ra được nhiều sản phẩm thủ công để con chơi thay vì đi mua những món đồ bằng nhựa.

Ngoài ra, những sản phẩm này có thể giúp các em trang trí phòng nơi góc học tập của bản thân mình thêm nhiều màu sắc.

Viết bài: Trâm Ngọc làm bên trung tâm gia sư Thành Tài

phương pháp dạy học thủ công kĩ thuật ở tiểu học

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỦ YẾU:

– Quan sát: vật mẫu, tranh quy trình, GV làm mẫu.

– Đàm thoại dùng ngôn ngữ [trực quan và sử dụng ngôn ngữ]

– Thực hành [là pp đặc trưng của môn học Thủ công này]

– Làm mẫu: GV làm, HS khá giỏi làm.

– Huấn luyện, luyện tập [thực hành]

-Việc sử dụng và kết hợp các phương pháp dạy học phải tùy thuộc vào từng loại bài và nội dung của từng hoạt động dạy học chủ yếu ở mỗi bài học. Giáo viên nên chủ động, linh hoạt trong khi lựa chọn phương pháp giảng dạy để phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp.

Đang xem: Hay nêu phương pháp dạy học thủ công kĩ thuật ở tiểu học

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Môn Thủ công là môn nghệ thuật mang tính thực hành cao, đòi hỏi độ chính xác, khéo léo và tư duy sáng tạo cái mới. Qua môn học này kích thích tư duy sáng tạo, khả năng thẩm mỹ, lòng say mê tìm tòi ở học sinh mà chúng ta khó nhận biết ở những môn học khác.
Phương pháp dạy học thủ công kĩ thuật ở tiểu học còn giúp học sinh nâng cao khả năng thực hành, quan sát nhạy bén. Biết biến những ngôn ngữ, hình ảnh trừu tượng thành những thao tác cụ thể. Tăng cường khả năng hoạt động trí óc, lẫn tay chân cho học sinh. Đặc điểm của các giờ học Thủ công là hoạt động học lí thuyết gắn với hoạt động thực hành, mà trong đó hoạt động thực hành giữ vị trí trung tâm của giờ học. Đối với học sinh lớp 1, 2, 3 nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, việc học Thủ công phải nhẹ nhàng, khéo léo sinh động theo kiểu vừa học vừa chơi. Để đạt được yêu cầu trên mỗi giáo viên và học sinh phải đổi mới cách dạy và cách học. Đặc biệt là giáo viên phải đổi mới phương pháp, hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Chính vì những lí do trên mà hôm nay khối lớp 2 chúng tôi mạnh dạn xây dựng chuyên đề “Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy học giáo dục Thủ công lớp 2.”

II. THỰC TRẠNG


1.     Thuận lợi:
1.1.Nhà trường: Nhà trường quan tâm tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học. Triển khai các công văn, văn bản về đổi mới phương pháp dạy học kịp thời.

1.2. Giáo viên:

Giáo viên được tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học hàng năm. Được tập huấn các lớp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN.

1.3. Phụ huynh:

Phụ huynh mua sắm tương đối đầy đủ đồ dùng, dụng cụ học tập cho học sinh.

1.4. Học sinh:

Đa số các em ngoan, chăm, chịu khó trong việc học. Chương trình mang tính vừa sức, sát thực tế nên học sinh hứng thú khi học.

2. Khó khăn:


2.1.Giáo viên: Giáo viên vận dụng phương pháp mới vào dạy Thủ công chưa linh hoạt. Đồ dùng dạy học chưa đảm bảo, chưa có tranh quy trình phóng to. Một số bài có nội dung dài nên khó đảm bảo thời gian để hoàn thành sản phẩm tại lớp.

2.2. Học sinh:

Một số em còn mang tính ỉ lại luôn trông chờ vào sự giúp đỡ của thầy cô. Kỹ năng tự phục vụ bản thân chưa cao.

Một số học sinh thiếu dụng cụ, vật liệu học tập và biện hộ là để quên ở nhà.

CÁC GIẢI PHÁP:

1. Nắm vững cấu trúc nội dung chương trình môn Thủ công lớp 2: Chương trình Thủ công lớp 2 được chia làm 3 chương với 3 chủ đề sau:

Chương I:  Chủ đề : Kĩ thuật gấp hình.


Tập trung vào 2 chủ đề là gấp máy bay và gấp thuyền với 5 bài học. Chương II: Chủ đề: Phối hợp gấp, cắt, dán hình. Tập trung vào 2 chủ đề là phối hợp gấp, cắt, dán hình tròn, làm một số biển báo giao thông đơn giản và gấp, cắt, dán thiếp chúc mừng, phong bì với 6 bài học.

Chương III: Chủ đề : Làm đồ chơi.


Trong chương này học sinh biết vận dụng kĩ năng gấp, cắt, dán để làm một số đồ chơi đơn giản như dây xúc xích trang trí, đồng hồ đeo tay, vòng đeo tay, con  bướm gồm 4 bài, Tất cả mỗi bài thực hiện trong 2 tiết.


2. Nắm vững mục tiêu cần đạt theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Thủ công lớp 2. Sau khi hoàn thành chương trình HĐGD thủ công lớp 2, học sinh biết một số kiến thức cơ bản về gấp hình; phối hợp gấp, cắt dán hình và làm đồ chơi.Vận dụng kiến thức, kĩ năng về gấp, cắt, dán để làm được một số đồ chơi như dây xúc xích trang trí, đồng hồ đeo tay, vòng đeo tay, con bướm. Hình thành và phát triển một số kĩ năng đơn giản về gấp hình, phối hợp gấp, cắt dán hình và sử dụng các dụng cụ học tập thông thường như bút chì, thước kẻ, kéo. Qua đó rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay. Biết vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học ở các môn Mĩ thuật, Toán,…vào quá trình lĩnh hội kiến thức và thực hành làm sản phẩm thủ công ở lớp 2. Có khả năng ứng dụng những kiến thức, kĩ năng thủ công đã học ở lớp để làm một số đồ chơi đơn giản bằng cách gấp, cắt, dán giấy ở nhà. Hình thành thói quen lao động theo quy trình, làm việc có kế hoạch, ngăn nắp, trật tự, an toàn, vệ sinh, yêu thích lao động thủ công và biết quý sản phẩm lao động.

3. Hiểu đặc điểm của học sinh lớp 2:

– Học sinh ở lứa tuổi từ 7 đến 8 tuổi khả năng chú ý chưa cao, mau nhàm chán. – Đối với học sinh lớp 2, đặc điểm nổi bật là còn mang tính cụ thể. Khả năng tư duy trừu tượng và tập trung chú ý chưa cao nên rất cần sự trợ giúp của các vật thật, mô hình trực quan trong đời sống thực tế của học sinh. Vì vậy, giáo viên thay đổi hình thức học tập, thiết kế, xây dựng nhiều hình thức vui chơi, tạo điều kiện cho học sinh thay đổi trạng thái hoạt động và được hoạt động nhiều với một số trò chơi học tập phù hợp.

4. Nắm được những yêu cầu cần thiết khi dạy học Thủ công.

Với yêu cầu đổi mới hiện nay phải tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo thông qua việc tổ chức đa dạng các hoạt động trong giờ học như hoạt động vấn đáp, quan sát mẫu, thao tác mẫu, thực hành, trưng bày sản phẩm, đánh giá và tự đánh giá sản phẩm. Trong các hoạt động trên, giáo viên luôn giữ vai trò là người hướng dẫn, tổ chức hoạt động, học sinh giữ vai trò người chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức rèn luyện kĩ năng thực hành Thủ công.

5. Yêu cầu cụ thể khi tổ chức hoạt động giáo dục thủ công lớp 2:


3.1. Lập kế hoạch:  Tổ chức hoạt động giáo dục theo cấu trúc các hoạt động trong VNEN một cách khoa học, cụ thể, phù hợp với trình độ nhận thức của đối tượng học sinh lớp 2 và điều kiện thực tế. Giáo viên phải nghiên cứu thật kĩ sách giáo khoa hiện hành để từ đó lập kế hoạch dạy học theo tài liệu VNEN thật cụ thể. Khi lập kế hoạch giữ nguyên mục tiêu, nội dung của từng bài trong sách thủ công hiện hành, chỉ thay đổi phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo định hướng của VNEN. Kế hoạch tổ chức hoạt động của từng bài cần được thực hiện một cách linh hoạt, tránh cứng nhắc. Những nội dung nào học sinh có thể tìm tòi, tự làm giáo viên không áp đặt một cách máy móc.

3.2. Công tác chuẩn bị:

Trong giờ học Thủ công việc chuẩn bị của cả thầy và trò đóng vai trò rất quan trọng, nó quyết định sự thành công của bài học. Do đó, trước mỗi giờ học giáo viên phải nghiên cứu thật kĩ mục tiêu, nội dung của bài để xác định bài dạy, chuẩn bị đầy đủ vật liệu, phương tiện cần thiết cho việc tổ chức các hoạt động như vật mẫu, vật thật, tranh quy trình, vật liệu hướng dẫn làm thủ công cần đảm bảo yêu cầu về kĩ thuật, mĩ thuật, có kích thước đủ lớn để học sinh quan sát được. Phần hoạt động cơ bản cần những hoạt động nào? Câu hỏi nào? Phân tích xem công việc đó gồm những thao tác nào, sắp xếp theo thứ tự nào để học sinh dễ hiểu. Dự đoán những sai sót có thể xảy ra… Cần chuẩn bị những đồ dùng dạy học nào? Những đồ dùng đó có trong thư viện hay phải tự làm, có dễ làm hay cần tham khảo trên mạng? Nếu tham khảo trên mạng thì phải dùng hình thức nào, dạy trình chiếu giáo án điện tự, quay video hay bài giảng elearning để chủ động trong tiết dạy.

Hoạt động thực hành cần làm gì, cần chuẩn bị gì? Phần trình bày sản phẩm cần tổ chức thế nào để thu hút học sinh làm sản phẩm, có nên tổ chức trò chơi hay hình thức thi đua nào? Từ kế hoạch đó giáo viên bắt đầu lên kế hoạch chuẩn bị.


3.3. Hoạt động dạy học:
* Khởi động:  Cần tạo không khí sôi nổi bằng các bài hát, trò chơi những câu đố, câu thơ phù hợp với nội dung từng bài tạo không khí hồi hộp chờ đón bài học cho học sinh. Tổ chức trò chơi, quan sát, bài hát liên quan đến nội dung chuẩn bị học.

Ví dụ: Cắt hình vuông, ban học tập có thể tổ chức giải câu đố:

Chiếc bánh chưng xanh. Bố làm ngày Tết. Bạn ơi, nói nhanh có dạng hình gì? Phần này HĐTQHS nên lồng ghép kiểm tra đồ dùng học tập của học sinh.

* Tổ chức hoạt động cơ bản:

Cung cấp hình thành kiến thức mới thông qua các hoạt động sau: Quan sát khám phá đặc điểm của vật mẫu; căn cứ vào nội dung chủ yếu của bài, giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát. Khi tổ chức hoạt động này, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm, hoạt động cả lớp, đọc tài liệu để các em tự tìm hiểu, khám phá đặc điểm hình dạng, cách thức làm ra vật mẫu. Học sinh tự tìm hiểu, khám phá cách thực hiện các thao tác kĩ thuật, giáo viên hướng dẫn thao tác mẫu. Khi tổ chức giáo viên cần tổ chức hoạt động theo trình tự sau: Yêu cầu học sinh tự đọc nội dung hướng dẫn thực hiện cách làm sản phẩm trong sách Thủ công hoặc trong phiếu tài liệu, quan sát tranh quy trình. Trao đổi trong nhóm và dựa vào hướng dẫn để tự làm theo khả năng và kinh nghiệm của bản thân. Học sinh lên bảng tự thực hiện thao tác làm sản phẩm theo cách hiểu, kinh nghiệm, khả năng của bản thân và nêu yêu cầu hướng dẫn. Giáo viên hướng dẫn trên cơ sở quan sát học sinh làm, biết được những thao tác nào học sinh có thể tự làm được và những thao tác nào cần tập chung hướng dẫn.

* Tổ chức hoạt động thực hành:

Tạo cơ hội cho học sinh được thực hành lặp đi, lặp lại các thao tác với các dụng cụ, vật liệu làm thủ công. Qua đó hình thành, phát triển các kĩ năng cần thiết cho học sinh. Khuyến khích học sinh chủ động vận dụng kiến thức lĩnh hội được từ hoạt động cơ bản vào thực hành. Tích cực thực hành, sáng tạo trong thực hành, tương tác tốt với bạn để làm ra được nhiều sản phẩm theo khả năng của bản thân. Tăng cường kết hợp đánh giá theo thông tư 30. Khuyến khích học sinh tự đánh giá bản thân. Thông qua đánh giá kết quả học tập của học sinh, giúp giáo viên điều chỉnh quá trình dạy học có hiệu quả. Khi đánh giá kết quả học Thủ công, giáo viên cần phải căn cứ vào những tiêu chí sau: Mức độ biết hoặc hiểu bài của học sinh. Mức độ hoàn thành của hoạt động thực hành, thể hiện ở sản phẩm. Sự chuẩn bị vật liệu, dụng cụ thực hành. Tinh thần, thái độ học tập và ý thức thực hiện quy trình làm sản phẩm. Sự sáng tạo của học sinh. Tuỳ vào mục tiêu của từng bài mà nhận xét, đánh giá khác nhau. Khi đánh giá giáo viên nên tìm ra những chứng cứ thành công để học sinh thấy rõ sự tiến bộ hay hướng cần phấn đấu trong những giờ tới. Nhận xét cần mang tính động viên, khuyến khích học sinh phấn khởi và học tập tốt hơn. Trước khi thực hành làm sản phẩm giáo viên nên chuẩn bị trước tiêu chí đánh giá sản phẩm chiếu trên bảng hoặc viết ra bảng phụ treo lên góc bảng để học sinh cố gắng phấn đấu. Để học sinh tích cực hào hứng học tập, làm được nhiều sản phẩm đẹp, sáng tạo như mong đợi thì giáo viên cần vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học.

6. Các phương pháp dạy học:


6.1. Phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong dạy học Thủ công. Giáo viên sử dụng lời nói của mình để giúp học sinh tiếp thu kiến thức và hình thành kĩ năng thực hành, thái độ theo đúng mục tiêu đã xác định. NHƯ giải thích [giảng giải], minh hoạ, thuyết trình, đàm thoại,…Mà dạy học Thủ công lớp 2 phương pháp đàm thoại, giải thích, minh hoạ thường được sử dụng với phương pháp trực quan, làm mẫu ở hoạt động cơ bản. KHI giải thích, minh hoạ, đàm thoại giáo viên cần chú ý: Ngôn ngữ phải được chọn lọc trong sáng, chính xác, phong phú, dễ hiểu. Diễn đạt thong thả thể hiện tình cảm: giọng nói bình tĩnh, êm dịu, nhưng nhiệt tình, sôi nổi đúng lúc, nét mặt điệu bộ của giáo viên phải có sức truyền cảm. Nhịp điệu vừa phải, chỗ khó phải giảng chậm. Sử dụng phương pháp đàm thoại cần sử dụng câu hỏi logic, ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu, số lượng câu hỏi vừa phải. Không nên đặt nhiều câu hỏi quá vun vặt, phức tạp, tản mạn. Khi học sinh trả lời giáo viên cần uốn nắn, sửa sai và tăng cường nhận xét đánh giá bằng lời nói theo thông tư 30 để động viên, khuyến khích khi học sinh trả lời.

6.2. Phương pháp trình bày trực quan.

giáo viên sử dụng các phương tiện trực quan như: mô hình, vật thật, bảng quy trình, video,…. Nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật từ đó học sinh tiếp thu kiến thức, kĩ năng, thái độ thực hành đúng theo mục tiêu bài học đã đưa ra một cách thuận lợi, dễ dàng. sử dụng phương pháp trực quan là hết sức quan trọng, giúp các em hiểu rõ đặc điểm như: hình dạng, kích thước, màu sắc, các chi tiết của vật mẫu và quy trình làm ra sản phẩm. Phương pháp này thường được sử dụng khi giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét mẫu và hướng dẫn thao tác mẫu. Để sử dụng có hiệu quả, giáo viên cần chú ý thực hiện các yêu cầu sau: Vật mẫu có kích thước đủ lớn để học sinh cả lớp quan sát được. Vật mẫu phải điển hình, có màu sắc hài hoà, phù hợp và đảm bảo thẩm mĩ để giúp học sinh nhận thức đúng về sản phẩm và có ý muốn làm được sản phẩm như vật mẫu. Tranh quy trình cần có độ chính xác cao.

Giáo viên cần nêu rõ mục đích, trọng tâm quan sát. Trong quá trình tổ chức quan sát, giáo viên cần đặt những câu hỏi định hướng cho học sinh quan sát, tìm tòi, phát hiện các đặc điểm của vật mẫu. Từ đó, học sinh tự rút ra được nhận xét về đặc điểm, hình dáng, kích thước, màu sắc công dụng của vật mẫu và các bộ phận của vật mẫu.

Xem thêm:  Cách làm hộp quà mừng sinh nhật đẹp nhất


Ví dụ : Khi dạy bài 8 “ Gấp, cắt, dán biển báo giao thông cấm đi ngược chiều” Giáo viên có thể tiến hành như sau: * Đưa ra 2 biển báo giao thông mẫu đã chuẩn bị, yêu cầu học sinh quan sát và trả lời các câu hỏi định hướng quan sát, nhận xét như:

           Đây là biển báo giao thông nào?


           Biển báo giao thông có mấy phần? Đó là những phần nào?
            Hình dáng, màu sắc của chân biển báo, mặt biển báo như thế nào?
            Muốn làm được biển báo giao thông cấm xe đi ngược chiều ta phải cắt dán những hình gì? Màu sắc của mỗi hình như thế nào?
            Biển báo giao thông có tác dụng gì?
 Khi ra đường nếu nhìn thấy người đi xe đạp, xe máy đi vào đường có biển báo như thế này [giáo viên chỉ vào biển báo cấm xe đi ngược chiều] thì em thấy người đó đi đúng đường hay đang vi phạm luật giao thông? Vì sao? Kết thúc bước này giáo viên nhận xét sự trả lời của học sinh và tóm tắt những đặc điểm cơ bản của biển báo giao thông.

6.3. Phương pháp thực hành Thủ công:

thực hành là một quá trình sư phạm do giáo viên tổ chức nhằm củng cố hiểu biết, tạo ra những cơ sở hình thành kĩ năng, kĩ thuật cho học sinh. Muốn thực hiện phương pháp này tốt cần dựa vào các nhiệm vụ sau: Củng cố, hoàn thiện, khắc sâu kiến thức lí thuyết kĩ thuật. Rèn luyện các kĩ năng thực hành theo mục tiêu đã xác định. Hình thành thói quen lao động, giáo dục cho học sinh lao động [tác phong lao động, tính cần cù, trung thực, an toàn và vệ sinh môi trường…] Phương pháp thực hành bao gồm: phương pháp làm mẫu, phương pháp huấn  luyện – luyện tập

6.4. Phương pháp làm mẫu:

Là sự biểu diễn hành động kĩ thuật kết hợp với giải thích do giáo viên thực hiện, nhằm giúp học sinh hiểu rõ trình tự và cách thực hiện các thao tác kĩ thuật để làm ra sản phẩm đáp ứng đúng mục tiêu đề ra. [ PP ĐƯỢC SỬ DỤNG TIẾT 1] Phương pháp này bắt buộc phải sử dụng trong giờ học Thủ công. Để đảm bảo cho việc làm mẫu tốt, mang lại hiệu quả cho học sinh giáo viên cần thực hiện các yêu cầu sau: Chuẩn bị sẵn các vật phẩm làm mẫu như: công cụ, nguyên liệu. Chọn vị trí làm mẫu phù hợp với yêu cầu quan sát. Làm mẫu với tốc độ chậm để học sinh theo dõi, nắm được các thao tác và ghi nhớ trình tự của chúng. Lặp lại các thao tác mới và khó hoặc những chuyển tiếp phức tạp, kết hợp với giảng giải chặt chẽ. Sau đó làm mẫu tóm tắt các trình tự công việc với tốc độ bình thường để học ghi nhớ các bước thực hiện. thao tác mẫu kết hợp sử dụng tranh quy trình để huy động được sự làm việc tích cực của học sinh và giúp các em ghi nhớ các thao tác một cách dễ dàng.              Phần này giáo viên có thể trình chiếu video cho học sinh quan sát làm theo để giáo viên có thời gian giúp đỡ học sinh.

Cần đánh giá kết quả làm mẫu để xác định mức độ nắm vững trình tự công việc của học sinh bằng cách yêu cầu 1-2 học sinh lên làm thử, những học sinh khác quan sát nhận xét. Nếu học sinh còn lúng túng giáo viên có thể làm mẫu lại cho học sinh nắm kĩ hơn, thao tác được dễ dàng hơn.


6.5. Phương pháp huấn luyện – luyện tập: Luyện tập là sự lặp đi lặp lại, có kế hoạch, có hệ thống nhằm hình thành, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo Đây là phương pháp đặc trưng, phải thực hiện khi dạy Thủ công ở lớp 2. Đồng thời phải huy động tất cả mọi học sinh tham gia vào quá trình luyện tập, thực hành. Vậy muốn sử dụng phương pháp này đạt hiệu quả giáo viên cần chú ý: Huấn luyện cho học sinh cách thực hiện từng thao tác sao cho đúng sau đó mới luyện tập rèn kĩ năng. Chỉ rõ yêu cầu, tiêu chí cần đạt sau khi luyện tập. Bố trí chỗ làm việc cho học sinh, đảm bảo đủ nguyên vật liệu, dụng cụ. Chỉ rõ những cách sử dụng dụng cụ, nguyên vật liệu, vệ sinh và đảm bảo an toàn khi luyện tập. Trong khi học sinh luyện tập, thực hành giáo viên phải theo dõi, giúp đỡ các em còn lúng túng để phát hiện và khắc phục các sai sót, loại bỏ các động tác thừa. Sử dụng hợp lí sức lực, thời gian, phương tiện kĩ thuật để đảm bảo chất lượng, năng suất và hiệu quả lao động. Giám sát việc giữ đúng về kĩ luật và an toàn lao động. Phương pháp luyện tập – huấn luyện có thể thực hiện dưới hai hình thức. Đó là luyện tập cá nhân và luyện tập theo nhóm [nhóm 2, 3, 4, 6, học sinh].

6.6. Phương pháp sử dụng trò chơi trong dạy Thủ công lớp2.

Phương pháp trò chơi là phương pháp dạy học giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện những hành động, việc làm thông qua một số trò chơi nào đó phù hợp với nội dung môn học nhằm đạt được mục tiêu bài học đề ra. Trò chơi có tác dụng rất lớn trong việc dạy học Thủ công lớp 2, nó làm cho không khí học tập trở nên sôi nổi, lôi cuốn, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.Thông qua trò chơi, học sinh thực hiện thao tác kĩ thuật một cách tự nhiên, hứng thú. Giúp học sinh tăng cường tính đoàn kết, biết phối hợp với nhau để làm việc. Trong giờ học giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi “Chơi mà học – Học mà chơi”.

Ngoài phương tiện dụng cụ đã chuẩn bị giáo viên nên tiến hành theo một số bước như sau:

Phương pháp dạy học thủ công kĩ thuật ở lớp lớn hơn

1.Kĩ thuật các mảnh ghép [JIGSAW]

Kỹ thuật “Các mảnh ghép” là hình thức học tập kết hợp giữa cá nhân với nhóm và các nhóm với nhau nhằm:

– Cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ có nhiều chủ đề

– Khuyến khích sự tham gia tích cực của học sinh

– Nâng cao vai trò cá nhân trong quá trình hợp tác [Mỗi cá nhân không chỉ hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2]

. Dụng cụ: Chuẩn bị giấy bút cho các thành viên.

Thực hiện:

– Phân học sinh thành từng nhóm có nhóm trưởng

– Giáo viên giao nhiệm vụ cho từng nhóm.

– Các nhóm cùng thảo luận và rút ra kết quả, yêu cầu từng thành viên trong nhóm đều có khả năng trình bày kết quả.

– Mỗi nhóm sẽ tách ra và hình thành nhóm mới theo sơ đồ.

– Lần lượt từng thành viên trình bày kết quả thảo luận.

Lưu ý:

– Các chủ đề đưa ra thảo luận cần chọn lọc đảm bảo có tính độc lập với nhau.

– Trước khi tách nhóm phải đảm bảo các thành viên đều có khả năng trình bày kết quả thảo luận ở bước thảo luận đầu tiên.

Ưu điểm:

– Phát triển tinh thần làm việc theo nhóm.

– Phát huy trách nhiệm của từng cá nhân.

– Giúp học sinh phát huy hiểu biết và giải quyết những hiểu biết lệch lạc.

– Giúp đào sâu kiến thức trong các lĩnh vực.

Hạn chế:

– Kết quả phụ thuộc vào quá trình thảo luận ở vòng 1, nếu vòng thảo luận này không có chất lượng thì cả hoạt động sẽ không có hiệu quả.

– Số lượng thành viên trong nhóm rất dễ không đồng đều.

– Không thể sử dụng kỹ thuật này cho các nội dung thảo luận có mối quan hệ ràng buộc nhân quả với nhau.

2. Kỹ thuật “Khăn trải bàn”

Kỹ thuật khăn trải bàn cũng là phương pháp dạy học tích cực tổ chức hoạt động mang tính kết hợp giữa hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm nhằm:

– Thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh

– Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh

– Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với nhau

Dụng cụ: Bút và giấy khổ lớn cho mỗi nhóm.

Thực hiện:

– Giáo viên chia nhóm, phân công nhóm trưởng, thư ký và giao dụng cụ.

– Giáo viên đưa ra vấn đề cho ccacs nhòm, từng thành viên viết ý kiến của mình vào góc của tờ giấy.

– Nhóm trưởng và thư ký sẽ tổng hợp các ý kiến và lựa chọn những ý kiến quan trọng viết vào giữa tờ giấy.

Lưu ý: Mỗi thành viên làm việc tại góc riêng của mình.

Ưu điểm: Tăng cường tính độc lập và trách nhiệm của người học.

Hạn chế: Tốn kém chi phí và khó lưu trữ, sửa chữa kết quả.

3. Kỹ thuật động não [BRAINSTORMING]

Kỹ thuật động não [công não] do Alex Osborn [Mỹ] phát triển, dựa trên một kỹ thuật truyền thống từ Ấn độ. Là kỹ thuật nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong nhóm cùng thảo luận. Các thành viên tham gia một cách tích cực nhằm tạo ra “cơn lốc” ý tưởng.

Dụng cụ:

– Sử dụng bảng hoặc giấy khổ lớn để mọi người dễ đọc các ý kiến.

– Hệ thống máy tính kết nối mạng.

Thực hiện:

– Giáo viên chia nhóm, các nhóm tự chọn nhóm trưởng và thư ký.

– Giao vấn đề cho nhóm.

– Nhóm trưởng điều hành hoạt động thảo luận chung của cả nhóm trong một thời gian quy định, các ý kiến đều được thư ký ghi nhận, khuyến khích thành viên đưa càng nhiều ý kiến càng tốt.

– Cả nhóm cùng lựa chọn giải pháp tối ưu, thu gọn các ý tưởng trùng lặp, xóa những ý không phù hợp, sau cùng thư ký báo cáo kết quả.

Lưu ý: Trong quá trình thu thập ý kiến, không được phê bình hay nhận

Ưu điểm:

– Dễ thực hiện, không mất nhiều thời gian.

– Huy động mọi ý kiến của thành viên, tập trung trí tuệ.

– Khuyến khích các thành viên nhóm tham gia hoạt động.

Hạn chế:

– Dễ xảy ra tình trạng lạc đề nếu chủ đề không rõ ràng.

– Mất thời gian cho việc lựa chọn các ý kiến tốt nhất.

– Có tình trạng một số thành viên quá năng động nhưng một số khác không tham gia.

– Lưu trữ kết quả thảo luận khá khó khăn và lãng phí.

Đang xem: Hay nêu phương pháp dạy học thủ công kĩ thuật ở tiểu học

4. Kỹ thuật “Bể cá”

Kỹ thuật “Bể cá” thường dùng để thảo luận nhóm, học sinh sẽ ngồi thành một nhóm và thảo luận với nhau. Số học sinh còn lại trong lớp ngồi xung quanh theo vòng bên ngoài để theo dõi cuộc thảo luận và khi kết thúc thảo luận sẽ đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những học sinh thảo luận. Vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những người thảo luận như xem những con cá trong bể cá nên được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”.

Lưu ý trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi để những học sinh tham gia quan sát có thể ngồi vào đó và đóng góp ý kiến cho cuộc thảo luận. Trong quá trình thảo luận, có thể thay đổi vai trò của những người quan sát và những người thảo luận với nhau.

Xem thêm:  69+ Hình Ảnh Bánh Sinh Nhật Độc Và Lạ Troll Bạn Thân

Dụng cụ: Chuẩn bị giấy bút cho các thành viên.

Thực hiện:

– Giáo viên đưa ra chủ đề thảo luận cho một nhóm trung tâm.

– Nhóm này sẽ tiến hành thảo luận với nhau

– Các thành viên còn lại của lớp sẽ ngồi xung quanh, tập trung quan sát nhóm đang thảo luận.

Ưu điểm: Kỹ thuật này vừa giải quyết được vấn đề vừa phát triển kỹ năng quan sát và giao tiếp của học sinh.

Hạn chế:

– Yêu cầu phải có không gian tương đối rộng.

– Trong quá trình thảo luận cần có thiết bị âm thanh, hoặc phải nói to để mọi người nghe rõ.

– Những thành viên nhóm quan sát rất dễ có xu hướng không tập trung vào chủ đề thảo luận.

5. Kỹ thuật “Tia chớp”

Kỹ thuật tia chớp sẽ huy động sự tham gia của mọi thành viên vào một câu hỏi nào đó nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp và không khí học tập trong lớp học. Yêu cầu các thành viên lần lượt trả lời thật nhanh và ngắn gọn ý kiến của mình.

Thực hiện:

– Kỹ thuật có thể áp dụng tại bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị.

– Từng người một nói ra suy nghĩ của mình thật nhanh và ngắn gọn khoảng 1-2 câu về câu hỏi đã thoả thuận.

– Tiến hành thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến.

6. Kỹ thuật “XYZ” [KỸ THUẬT 365]

Kỹ thuật “XYZ” sử dụng với mục đích phát huy tính tích cực trong thảo luận nhóm. Trong đó, X là số người trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi người cần đưa ra, Z là phút dành cho mỗi người.

Kỹ thuật này cần 6 người mỗi nhóm, mỗi người sẽ viết ra 3 ý kiến trên một tờ giấy trong vòng 5 phút về cách giải quyết 1 vấn đề và tiếp tục chuyển cho người bên cạnh. Do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635.

Đọc thêm: 8 biện pháp khắc phục nhanh tình trạng học sinh nói chuyện riêng trong giờ học

Dụng cụ: Chuẩn bị giấy bút cho các thành viên.

Thực hiện:

– Giáo viên chia nhóm và đưa ra chủ đề cho nhóm, quy định số lượng ý tưởng và thời gian theo đúng quy tắc XYZ.

– Các thành viên trong nhóm trình bày ý kiến của mình, hoặc đưa ý kiến cho thư ký tổng hợp lại để tiến hành đánh giá và lựa chọn.

Lưu ý: Giáo viên phân chia số lượng thành viên đồng đều, quy định và theo dõi thời gian cụ thể để tạo tính công bằng giữa các nhóm.

Ưu điểm: Kỹ thuật này có yêu cầu cụ thể nên bắt buộc các thành viên trong nhóm đều phải làm việc.

Hạn chế: Mất nhiều thời gian cho hoạt động nhóm, nhất là quá trình tổng hợp và đánh giá ý kiến.

7. Kỹ thuật “Lược đồ tư duy” HAY “Sơ đồ tư duy”

Phương pháp dạy học tích cực theo kỹ thuật lược đồ tư duy do Tony Buzan đề xuất từ cơ sở sinh lý thần kinh về quá trình tư duy. Kỹ thuật này là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng.

Dụng cụ: Bảng lớn hoặc giấy khổ lớn, bút nhiều màu, các phần mềm vẽ sơ đồ tư duy.

Thực hiện:

– Giáo viên chia nhóm và giao chủ đề cho các nhóm

– Mỗi thành viên lần lượt kết nối ý tưởng trung tâm với ý tưởng của cá nhân để mô tả ý tưởng thông qua hình ảnh, biểu tượng hoặc một vài ký tự ngắn gọn.

Lưu ý:

– Giáo viên để học sinh tự lựa chọn sơ đồ: Sơ đồ thứ bậc, sơ đồ mạng, sơ đồ chuỗi

– Giáo viên đưa câu hỏi gợi ý để các nhóm lập sơ đồ.

– Khuyến khích học sinh sử dụng biểu tượng, ký hiệu, hình ảnh và văn bản tóm tắt.

Ưu điểm:

– Kỹ thuật sơ đồ tư duy giúp học sinh nắm được quá trình tổ chức thông tin, ý tưởng cũng như giải thích và kết nối thông tin với cách hiểu biết của mình.

– Thích hợp với các nội dung ôn tập, liên kết lý thuyết với thực tế.

– Phù hợp tâm lý học sinh, đơn giản, dễ hiểu.

Hạn chế:

– Kỹ thuật sử dụng sơ đồ giấy khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa, tốn kém chi phí.

– Sơ đồ do giáo viên xây dựng, sau đó giảng giải cho học sinh khiến học sinh khó nhớ bài hơn học sinh tự làm.

Kỹ thuật chia sẻ nhóm đôi do giáo sư Frank Lyman đại học Maryland giới thiệu năm 1981. Đây là hoạt động làm việc theo nhóm đôi, qua đó phát triển năng lực tư duy của từng cá nhân trong giải quyết vấn đề.

Dụng cụ: Không cần thiết sử dụng các dụng cụ hỗ trợ vì chủ yếu phát triển kỹ năng nghe và nói của học sinh

Thực hiện:

– Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở và dành thời gian để học sinh suy nghĩ.

– Học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân loại với nhau

– Nhóm đôi này lại tiếp tục chia sẻ với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp.

Lưu ý: Giáo viên cần làm mẫu hoặc giải thích để học sinh chia sẻ được ý tưởng mà mình đã nhận được chứ không chỉ chia sẻ ý kiến cá nhân.

Ưu điểm: Học sinh biết lắng nghe, tóm tắt ý của bạn cùng nhóm để phát triển được những câu trả lời tốt.

Hạn chế: Giáo viên không thể bao quát hết hoạt động của cả lớp nên học sinh dễ dàng trao đổi những nội dung không liên quan đến bài học.

9. Kỹ thuật Kipling [5W1H]

Kỹ thuật Kipling được sử dụng trong các trường hợp cần có thêm ý tưởng mới, xem xét nhiều khía cạnh của vấn đề, chọn lựa ý tưởng để phát triển.

Dụng cụ : Giấy bút cho học sinh

Thực hiện:

Giáo viên đưa ra các câu hỏi theo thứ tự ngẫu nhiên hoặc theo một trật tự định ngầm trước, với các từ khóa: Ai, Cái gì, Ở đâu, Khi nào, Thế nào, Tại sao.

Lưu ý: Các câu hỏi đưa ra cần ngắn gọn, đi thẳng vào chủ đề và bám sát vào hệ thống từ khóa 5W1H [what, where, when, who, why, how].

Ưu điểm:

– Không mất thời gian, mang tính logic cao.

– Có thể sử dụng cho nhiều tình huống khác nhau.

– Áp dụng được cho cá nhân.

Hạn chế:

– Sự phối hợp của các thành viên bị hạn chế

– Dễ xảy ra tình trạng “9 người 10 ý”.

– Có thể tạo cảm giác bị điều tra.

10. Kỹ thuật “ Trình bày một phút”

Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào.

Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:

– Cuối tiết học [thậm chí giữa tiết học], GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?…

– HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới nhiều hình thức khác nhau.

– Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.

11. Kỹ thuật phân tích phim video

Phim video có thể là một trong các phương tiện để truyền đạt nội dung bài học. Phim nên tương đối ngắn gọn [5-20 phút]. GV cần xem qua trước để đảm bảo là phim phù hợp để chiếu cho các em xem.

– Trước khi cho HS xem phim, hãy nêu một số câu hỏi thảo luận hoặc liệt kê các ý mà các em cần tập trung. Làm như vây sẽ giúp các em chú ý tốt hơn.

– HS xem phim

– Sau khi xem phim video, yêu cầu HS làm việc một mình hoặc theo cặp và trả lời các câu hỏi hoặc viết tóm tắt những ý cơ bản về nội dung phim đã xem.

12. Kỹ thuật đóng vai

Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “ làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. `Đây là phương pháp nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.

Quy trình thực hiện

Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau :

– Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.

– Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.

– Các nhóm lên đóng vai.

– Lớp thảo luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn; về ý nghĩa của các cách ứng xử.

– GV kết luận, định hướng cho HS về cách ứng xử tích cực trong tình huống đã cho.

Một số lưu ý

– Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.

– Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép

– Tình huống phải có nhiều cách giải quyết

– Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “ kịch bản”, lời thoại.

– Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai

– Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn bị đóng vai

– Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm

– Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết

– Các vai diễn nên để HS xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận

– Nên khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia.

– Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của tiểu phẩm đóng vai.

13. Kỹ thuật trò chơi

Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.

Quy trình thực hiện

– GV phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho HS

– Chơi thử [ nếu cần thiết]

– HS tiến hành chơi

– Đánh giá sau trò chơi

– Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi

Một số lưu ý

– Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề bài học, với đặc điểm và trình độ HS, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho HS.

– HS phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi.

– Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi.

– Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, tạo điều kiện cho HS tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi.

– Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho HS.

– Sau khi chơi, giáo viên cần cho HS thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi.

14. Kỹ thuật dự án

HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành.

Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập kế hoạch đến việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm. Kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu được.

Đọc thêm: 7 câu hiệu lệnh ổn định trật tự lớp học được giáo viên tiểu học sử dụng nhiều nhất

Quy trình thực hiện

– B­ước 1: Lập kế hoạch

+ Lựa chọn chủ đề

+ Xây dựng tiểu chủ đề

+ Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập

– Bước 2: Thực hiện dự án

+ Thu thập thông tin

+ Thực hiện điều tra

+ Thảo luận với các thành viên khác

+ Tham vấn giáo viên hướng dẫn

– Bước 3: Tổng hợp kết quả

+ Tổng hợp các kết quả

+ Xây dựng sản phẩm

+ Trình bày kết quả

+ Phản ánh lại quá trình học tập

Một số lưu ý

– Các dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành.

– Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của HS.

– HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân.

– Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.

– Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.

Xem thêm:  Chùm Thơ Tháng 7 Mưa Ngâu – Thơ Tình Tháng 7 Hay Nhưng Đượm Buồn

– Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết; sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.

xem thêm : Http//lms.vnedu.vn đăng nhập

15. Kỹ thuật giao nhiệm vụ

– Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:

+ Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào?

+ Nhiệm vụ là gì?

+ Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?

+ Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?

+ Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?

+ Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?

+ Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?

– Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ HS, thời gian, không gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị.

16. Kỹ thuật đặt câu hỏi

Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới, để đánh giá kết quả học tập của HS; HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS khác về những ND bài học chưa sáng tỏ.

Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS – GV và HS – HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ học tập tích cực hơn.

Mục đích sử dụng câu hỏi trong dạy học là để:

– Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo đ/k cho HS tham gia vào quá trình dạy học

– Kiểm tra, đánh giá KT, KN của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với ND học tập

– Thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức

Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:

– Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học

– Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu

– Đúng lúc, đúng chỗ

– Phù hợp với trình độ HS

– Kích thích suy nghĩ của HS

– Phù hợp với thời gian thực tế

– Sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.

– Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xính

– Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc

17. Kỹ thuật giải quyết vấn đề

Dạy học [DH] phát hiện và giải quyết vấn đề [GQVĐ] là PPDH đặt ra trước HS các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển HS vào tình huống có vấn đề , kích thích họ tự lực, chủ động và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề.

Quy trình thực hiện

– Xác định, nhận dạng vấn đề/tình huống;

– Thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề/tình huống đặt ra;

– Liệt kê các cách giải quyết có thể có ;

– Phân tích, đánh giá kết quả mỗi cách giải quyết [ tích cực, hạn chế, cảm xúc, giá trị] ;

– So sánh kết quả các cách giải quyết ;

– Lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất;

– Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn;

– Rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.

Một số lưu ý

Các vấn đề/ tình huống đưa ra để HS xử lí, giải quyết cần thoả mãn các yêu cầu sau:

  • Phù hợp với chủ đề bài học
  • Phù hợp với trình độ nhận thức của HS
  • Vấn đề/ tình huống phải gần gũi với cuộc sống thực của HS
  • Vấn đề/ tình huống có thể diễn tả bằng kênh chữ hoặc kênh hình, hoặc kết hợp cả hai kênh chữ và kênh hình hay qua tiểu phẩm đóng vai của HS
  • Vấn đề/ tình huống cần có độ dài vừa phải
  • Vấn đề/ tình huống phải chứa đựng những mâu thuẫn cần giải quyết, gợi ra cho HS nhiều hướng suy nghĩ, nhiều cách giải quyết vấn đề.

Tổ chức cho HS giải quyết, xử lí vấn đề/ tình huống cần chú ý:

– Các nhóm HS có thể giải quyết cùng một vấn đề/ tình huống hoặc các vấn đề/ tình huống khác nhau, tuỳ theo mục đích của hoạt động.

– HS cần xác định rõ vấn đề trước khi đi vào giải quyết vấn đề.

– Cần sử dụng phương pháp động não để HS liệt kê các cách giải quyết có thể có.

– Cách giải quyết tối ưu đối với mỗi HS có thể giống hoặc khác nhau.

18. Kỹ thuật phòng tranh

Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm.

– GV nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.

– Mỗi thành viên [ hoạt động cá nhân] hoặc các nhóm [hoạt động nhóm] phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường xung quanh lớp học như một triển lãm tranh.

– HS cả lớp đi xem “ triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung.

– Cuối cùng, tất cả các ph­ương án giải quyết được tập hợp lại và tìm ph­ương án tối ­ưu.

19. Kỹ thuật công đoàn

– HS được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải quyết một nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ: nhóm 1- thảo luận câu A, nhóm 2- thảo luận câu B, nhóm 3- thảo luận câu C, nhóm 4- thảo luận câu D,…

– Sau khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo luận vào giấy A0 xong, các nhóm sẽ luân chuyển giáy AO ghi kết quả thảo luận cho nhau. Cụ thể là: Nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, Nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, Nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, Nhóm 4 chuyển cho nhóm 1

– Các nhóm đọc và góp ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Sau đó lại tiếp tục luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ một nhóm khác để góp ý.

– Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại được tờ giấy A0 của nhóm mình cùng với các ý kiến góp ý của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem và xử lí các ý kiến của các bạn để hoàn thiện lại kết quả thảo luận của nhóm . Sau khi hoàn thiện xong, nhóm sẽ treo kết quả thảo luận lên tường lớp học.

19. Kỹ thuật “Hỏi chuyên gia”

– HS xung phong [hoặc theo sự phân công của GV] tạo thành các nhóm “chuyên gia” về một chủ đề nhất định.

– Các ”chuyên gia” nghiên cứu và thảo luận với nhau về những tư liệu có liên quan đến chủ đề mình được phân công.

– Nhóm ”chuyên gia” lên ngồi phía trên lớp học

– Một em trưởng nhóm ”chuyên gia” [hoặc GV] sẽ điều khiển buổi “tư vấn”, mời các bạn HS trong lớp đặt câu hỏi rồi mời ”chuyên gia” giải đáp, trả lời.

20. Kỹ thuật KWL [KWLH]

Kỹ thuật KWL là một hình thức tổ chức dạy học thông qua hoạt động đọc hiểu o Donna Ogle giới thiệu năm 1986. Với kỹ thuật này, học sinh suy nghĩ về chủ đề bài đọc và ghi nhận tất cả những gì các em đã biết vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh lên danh sách các câu hỏi muốn biết thêm trong chủ đề và ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Sau khi đọc xong, học sinh sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W và ghi nhận vào cột L.

Sau này biểu đồ KWL được bổ sung thêm cột H ở sau cùng nhằm khuyến khích học sinh định hướng nghiên cứu. Cột H sẽ ghi nhận những biện pháp tìm thông tin mở rộng sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột Lvà muốn tìm hiểu thêm.

Dụng cụ: Bảng KWL [KWLH] dành cho giáo viên và học sinh.

Thực hiện:

– Chọn bài đọc mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích

– Tạo bảng KWL [KWLH]

– Giáo viên vẽ lên bảng, mỗi học sinh cũng có một mẫu bảng riêng.

– Yêu cầu học sinh suy nghĩ nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận vào cột K. Kết thúc hoạt động khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng và tổ chức cho các em thảo luận về những gì đã ghi nhận.

– Giáo viên gợi mở cho học sinh xem muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Khi học sinh nêu ra tất cả các ý tưởng thì giáo viên và học sinh cùng ghi nhận câu hỏi vào cột W.

– Bắt buộc học sinh đọc và tự điền câu trả lời tìm được vào cột L. Trong quá trình đọc, học sinh cũng đồng thời tìm ra câu trả lời và ghi nhận vào cột W.

Lưu ý :

– Giáo viên nên chuẩn bị câu hỏi để giúp học sinh động não.

– Khuyến khích học sinh giải thích về những điều các em nêu ra.

– Nên đặt câu hỏi tiếp nối và gợi mở.

– Giáo viên chuẩn bị sẵn một số câu hỏi mong muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng để bổ sung vào cột W.

– Khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các em cảm thấy thích.

Ưu điểm:

– Những điều học sinh cần học có liên quan trực tiếp đến nhu cầu về kiến thức nên tạo hứng thú học tập cho các em.

– Hình thành khả năng tự định hướng học tập cho học sinh

– Giáo viên và học sinh tự đánh giá kết quả học tập, định hướng cho các hoạt động tiếp.

Hạn chế: Các sơ đồ cần phải được lưu trữ cẩn thận sau khi hoàn thành hai bước K và W, vì bước L có thể sẽ phải mất một thời gian dài mới có thể tiếp tục thực hiện.

KẾT QUẢ:

Qua một thời gian áp dụng thí điểm chuyên đề chúng tôi thu được một số thành quả như sau:Học sinh yêu thích môn học, hồi hộp chờ đón và reo vui chào đón cô giáo dạy Thủ công. Không khí mỗi giờ học trở nên sôi nổi, tất cả học sinh hứng thú, bận rộn làm sản phẩm.

Học sinh làm được các sản phẩm đẹp, sáng tạo hơn.

–  Trên cơ sở đó hình thành thói quen làm việc theo quy trình, có kế hoạch, giáo dục thẩm mĩ, ý thức lao động và phát triển tính tích cực, khả năng sáng tạo cho HS ngay từ bậc Tiểu học. Vì vậy, Thủ công, Kĩ thuật là môn học có vai trò quan trọng trong việc “giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để HS tiếp tục học những bậc học tiếp theo .

–  Xu hướng hiện nay là sử dụng các nguyên liệu tái chế tạo thành sản phẩm như giấy báo cũ,…Việc ứng dụng nguyên liệu tái chế vào tiết Thủ công có thể giúp các em tăng khả năng sáng tạo, phát triển năng lực của học sinh, giáo dục học sinh cách tiết kiệm nguồn tài nguyên.

–  Các em học sinh bày tỏ thái độ thích học Thủ công – Kĩ thuật  chiếm tỉ lệ lớn [từ 97,6% đến 100% ở từ lớp 1 đến lớn 5]. Lý do thích học môn  thủ công- kĩ thuật được học sinh  nêu vì đây là: “Môn học rất hay, rất vui, rất bổ ích, rất thú vị, tự tay em làm ra những sản phẩm em thích để gửi tặng ông, bà, cha, mẹ…”; “giúp em khéo léo, nhanh nhẹn, rèn luyện tính cẩn thận, tỉ mỉ, dẻo dai, kiên trì”; “giúp em biết  cắt ,xé ,dán, khâu, thêu, biết trồng rau, hoa… giúp đỡ bố mẹ trong công việc gia đình; giúp em biết tự phục vụ bản thân”; “giúp em thêm vui vẻ, sảng khoái sau giờ Toán căng thẳng”…

Đang xem: Hay nêu phương pháp dạy học thủ công kĩ thuật ở tiểu học

giáo trình phương pháp dạy học thủ công kĩ thuật ở tiểu học

1. Đối tượng sử dụng bài giảng

Sinh viên ngành Tiểu học năm thứ ba học kỳ 5.

2. Mục đích yêu cầu đặt ra cho đối tượng sử dụng bài giảng

– Cung cấp cho sinh viên một tài liệu học tập phục vụ cho môn học.

– Sinh viên sử dụng tập bài giảng như một tài liệu học tập và tham khảo.

– Sau mỗi chương sinh viên cần giải quyết hết các câu hỏi đã đề ra.

3. Cấu trúc cuốn tập bài giảng: Tập bài giảng gồm các phần, chương mục sau

PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG [17 tiết]

Chương 1: Giới thiệu chung về PPDH Thủ công – Kĩ thuật [2 tiết]

Chương 2: Môn Thủ công – Kĩ thuật ở tiểu học [4 tiết]

Chương 3: Phương pháp dạy học môn Thủ công – Kĩ thuật ở tiểu học [11 tiết]

PHẦN II: BÀI TẬP THỰC HÀNH [13 tiết]

1. Xem băng hình một số giờ dạy và viết thu hoạch

2. Thực hành lập kế hoạch bài học

4. Mẫu phiếu nhận xét, đánh giá kết quả giờ dạy

4. Sơ lược về các kiến thức chính sẽ trình bày trong tập bài giảng

Tập bài giảng bao gồm các kiến thức cơ bản như: Giới thiệu chung về PPDH

Thủ công – Kĩ thuật; giới thiệu về đối tượng nghiên cứu, chương trình môn Thủ công

– Kĩ thuật ở tiểu học, đặc điểm và nhiệm vụ của môn Thủ công – Kĩ thuật ở tiểu học;

một số phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị dạy học môn Thủ công – Kĩ thuật ở

tiểu học theo định hướng đổi mới; cách kiểm tra, đánh giá môn Thủ công – Kĩ thuật ở

tiểu học; hướng dẫn cách lập kế hoạch bài học; hướng dẫn dạy học các phần cụ thể

trong môn Thủ công – Kĩ thuật ở tiểu học.

5. Những đặc điểm mới của tập bài giảng

Tập bài giảng đi sâu phân tích, làm rõ những vấn đề quan trọng của môn học,

bổ sung thêm những kiến thức, quan điểm mới mang tính cập nhật, hiện đại

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức

Video liên quan

Chủ Đề