Ngân hàng trung ương kiểm soát cung tiền bằng những công cụ nào

  • Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng tiền cung ứng.
  • Cơ chế tác động:Khi NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG mua [bán]chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng lên [giảm đi] dẫn đến mức cung tiền tăng lên [giảm đi].

Nếu thị trường mở chỉ gồm NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG và các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

[R ],nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông[C]

  • Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán mua[ bán ] tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần đIều chỉnh,ít tốn kém về chi phí ,dễ đảo ngược tình thế.Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.

Dự trữ bắt buộc

  • Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG qui định ,gửi tại NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG,không hưởng lãI,không được dùng để đầu tư,cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán,sự ổn định của hệ thống ngân hàng
  • Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ [m=1+s/s+ER+RR] trong cơ chế tạo tiền của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.Mặt khác khi tăng [giảm ] tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI giảm [tăng], làm cho lãI suất cho vay tăng [giảm],từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm [tăng].
  • Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh [chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền]. Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

  • Khái niệm : Đây là hoạt động mà NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh lãI suất táI chiết khấu [đối với thương phiếu] và hạn mức cho vay táI chiết khấu[cửa sổ chiết khấu]
  • Cơ chế tác động:Khi NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG tăng [giảm ] lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế [khuyến khích] việc các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI vay tiền tại NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG làm cho khả năng cho vay của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI giảm [tăng] từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm [tăng].Mặt khác khi NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG muốn hạn chế NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.

Ngoài ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển [thương phiếu chưa phổ biến để có thể làm công cụ táI chiết khấu] thì NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

  • Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI khi các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI gặp khó khăn trong thanh toán ,và có thế kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI đồng thời có thể tác động tới việc đIều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó ,sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường.

Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lượng tiền cung ứng,trong một nền kinh tế nếu NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này thì sẽ không cần đến bất cứ một công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều kiện cụ thể [các quốc gia đang phát triển ;các giai đoạn kinh tế quá nóng ] thì để đạt được mục tiêu của mình ,NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG có thể sử dụng các công cụ điều tiết trực tiếp sau:

Quản lý hạn mức tín dụng của các ngân hàng thương MẠI

  • Khái niệm :là việc NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG quy định tổng mức dư nợ của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định[một năm] để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô[tốc độ tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ..]sau đó NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG sẽ phân bổ cho các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI và NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI không thể cho vay vượt quá hạn mức do NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG quy định .
  • Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
  • Đặc điểm:Giúp NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song nhược điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .

Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương MẠI

  • Khái niệm :NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để hướng các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình.
  • Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
  • Đặc điểm:Giúp cho NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãI suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãI suất dễ làm cho các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.

Các Ngân hàng Trung ương sử dụng một số phương pháp khác nhau để tăng hoặc giảm lượng tiền trong hệ thống ngân hàng. Những hành động này được gọi là chính sách tiền tệ. Cục Dự trữ Liên bang – thường được gọi là Fed – có thể in tiền mặt theo quyết định của mình với nỗ lực tăng lượng tiền trong nền kinh tế, tuy nhiên đây không phải là biện pháp [thường] được sử dụng, ít nhất là không phải ở Mỹ.

Ảnh: Internet

Cục Dự trữ Liên bang, là cơ quan chủ quản quản lý Hệ thống Dự trữ Liên bang, giám sát tất cả các chính sách tiền tệ trong nước. Họ thường được gọi là Ngân hàng Trung ương của Mỹ. Họ chịu trách nhiệm kiểm soát lạm phát và quản lý cả lãi suất ngắn hạn lẫn dài hạn. Họ đưa ra những quyết định để củng cố nền kinh tế, và kiểm soát cung tiền là một công cụ quan trọng mà họ sử dụng.

  • Các Ngân hàng Trung ương sử dụng một số phương pháp, được gọi là chính sách tiền tệ, để tăng hoặc giảm lượng tiền trong nền kinh tế.
  • Fed có thể tăng cung tiền bằng cách giảm yêu cầu dự trữ đối với các ngân hàng, điều này cho phép họ cho vay nhiều tiền hơn.
  • Ngược lại, bằng cách nâng cao yêu cầu dự trữ của các ngân hàng, Fed có thể giảm quy mô cung tiền.
  • Fed cũng có thể thay đổi lãi suất ngắn hạn bằng cách hạ [hoặc tăng] lãi suất chiết khấu mà các ngân hàng trả cho các khoản vay ngắn hạn của Fed.

Ảnh: Internet

Fed có thể tác động đến nguồn cung tiền bằng cách sửa đổi các yêu cầu dự trữ, thường đề cập đến số tiền mà các ngân hàng phải giữ đối với các khoản tiền gửi trong tài khoản ngân hàng. Bằng cách này các ngân hàng có thể cho vay nhiều tiền hơn, làm tăng cung tiền tổng thể trong nền kinh tế.

Ngược lại, bằng cách tăng yêu cầu dự trữ của các ngân hàng, Fed có thể giảm quy mô cung tiền.

Thay đổi lãi suất ngắn hạn

Fed cũng có thể thay đổi nguồn cung tiền bằng cách thay đổi lãi suất ngắn hạn. Bằng cách hạ [hoặc tăng] lãi suất chiết khấu mà các ngân hàng trả cho các khoản vay ngắn hạn từ Ngân hàng Dự trữ Liên bang, Fed có thể tăng [hoặc giảm] tính thanh khoản của tiền một cách hiệu quả.

Mặc dù Fed có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng của thị trường, nhưng Fed thường bị chỉ trích về sự suy thoái của thị trường nhiều hơn là được ca ngợi về sự thúc đẩy thị trường đi lên.

Ảnh: Internet

Tỷ giá giảm làm tăng cung tiền và thúc đẩy hoạt động kinh tế; tuy nhiên, lãi suất giảm sẽ thúc đẩy lạm phát, và do đó Fed phải cẩn thận để không hạ lãi suất quá nhiều trong thời gian quá dài.

Trong giai đoạn sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã giữ lãi suất ở mức 0 hoặc dưới 0 trong thời gian quá dài, và điều đó đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và khả năng phát triển lành mạnh của họ. Mặc dù nó không chôn vùi bất kỳ quốc gia nào trong thảm họa kinh tế, nhưng nhiều người đã coi đó là một hình mẫu về những điều không nên làm sau một cuộc suy thoái kinh tế quy mô lớn.

Thực hiện Hoạt động Thị trường Mở

Cuối cùng, Fed có thể ảnh hưởng đến nguồn cung tiền bằng cách tiến hành các hoạt động thị trường mở, điều này ảnh hưởng đến lãi suất quỹ liên bang. Trong hoạt động mở, Fed mua và bán chứng khoán chính phủ trên thị trường mở. Nếu Fed muốn tăng cung tiền, họ sẽ mua trái phiếu chính phủ. Điều này cung cấp cho các nhà kinh doanh chứng khoán bán trái phiếu bằng tiền mặt, làm tăng lượng cung tiền tổng thể.

Ngược lại, nếu Fed muốn giảm cung tiền, họ sẽ bán trái phiếu từ tài khoản của mình, thu về tiền mặt và loại bỏ tiền ra khỏi hệ thống kinh tế. Điều chỉnh tỷ lệ quỹ liên bang là một sự kiện kinh tế rất được mong đợi.

Theo Investopedia

Video liên quan

Chủ Đề