Nhân vật đề cương trong chuyên cổ tích là gì năm 2024
Là những truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dáng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và các con vật biết nói năng, hoạt động như con người Show
II/ Phân loại truyện cổ tích. (?)
sâu vào tiềm thức mọi người. Cũng giống như những miếng trò kiệt tác trong tuồng hay chèo cổ luôn luôn được các đời sau sử dụng lắp đi lắp lại, những mô-típ nghệ thuật đã trở thành tiêu biểu của văn học dân gian, nhất là nghệ thuật vần vè hay truyện kể, cũng thường xuyên được tái sinh có chuyển dịch ít nhiều trong nhiều thời đại, làm thành kiểu tư duy nghệ thuật đặc trưng của văn học dân gian, và đó là điều kiện thuận lợi để truyện cổ tích sinh sôi nẩy nở theo phương thức ứng diễn và tìm thấy mối liên hệ loại hình với nhau. Như vậy, vấn đề xác định tính cổ của truyện cổ tích là căn cứ chủ yếu vào phương thức cấu tạo hình tượng, sự sắp xếp, xâu chuỗi cốt truyện và mô-típ, mà không nhất thiết căn cứ vào thời điểm lịch sử của câu chuyện. Những truyện như Vợ ba Đề Thám tuy cách ta trên nửa thế kỷ và mang thề tài cổ tích rõ rệt nhưng trong đó có những tên giặc râu xồm, mũi lõ, có súng trường, súng lục... nên vẫn chưa thể nào thừa nhận là truyện cổ tích. Nó là câu chuyện đã qua nhưng chưa hoàn toàn "cổ". Nó thuộc về loại những truyện mới. Mặc dầu không có mốc giới hạn về thời gian rõ rệt, nhưng một truyện cổ tích cố nhiên không thể là một truyện đời nay và cũng không thể là một truyện dĩ vãng nhưng phù hợp với đời nay hơn là đời xưa, phù hợp với trạng thái sinh hoạt hiện đại hơn là trạng thái sinh hoạt của xã hội cũ. Cái chất liệu dĩ vãng chứa đựng trong đấy thực tình chưa lắng xuống, và chưa được đại đa số nhân dân công nhận là ở bên kia biên giới của cái "mới". Sở dĩ có những câu chuyện mới sáng tác gần đây có thể liệt vào truyện cổ tích là vì bối cảnh, khí hậu xã hội, phong cách sinh hoạt và tâm lý nhân vật mà chúng được xây dựng, so với bối cảnh, khí hậu, phong cách sinh hoạt và tâm lý của người đời xưa tuyệt không có gì là trái ngược. Cho nên, tính chất cổ là một tiêu chuẩn không thể thiếu được khi nhận định một truyện cổ tích.
tiết, thậm chí bịa đặt những tình tiết không hợp lý. Nhưng đã là cổ tích của một dân tộc thì sự bịa đặt không thể vượt ra khỏi bản sắc dân tộc. Hãy đặt một giả thuyết là có một câu chuyện không kém lý thú và màu sắc cũng rất cổ, lưu hành phổ biến trong khá nhiều người. Có điều, nhân vật trong truyện đáng lý là Bụt, Tiên, hay Ngọc Hoàng thượng đế, thì ở đây lại là... Đức Chúa Trời hay Đức Mẹ Đồng trinh. Chỉ cần thế thôi, câu chuyện đã trở nên xa lạ, đã nhạt đi mất nhiều ý vị của một cổ tích. Nhưng nếu đấy là một truyện ngụ ngôn hay khôi hài thì lại khác. Vai Đức Chúa hay Đức Mẹ vẫn không ảnh hưởng gì đến đặc trưng loại hình của chúng. Miễn câu chuyện có ngụ một ý tưởng sâu sắc hay gợi được cười cợt cho người nghe, người đọc là đủ. Chúng ta thấy cái tên Đức Chúa hay Đức Mẹ truyền vào Việt-nam từ thế kỷ thứ XVI kể đến nay đã hơn bốn trăm năm mà vẫn chưa thể nào quen thuộc với tâm lý dân tộc. Trái lại, cái tên Bụt, Tiên cũng là mượn của những thứ tôn giáo ngoại lai nhưng đã thành truyền thống, vì từ đã rất xưa, những tôn giáo này từng hóa thân vào đời sống dân tộc, chấp nhận những sự thanh lọc gay gắt, trở thành tôn giáo chung chi phối cuộc sống tâm linh của cả cộng đồng. Đặc điểm này cắt nghĩa tại sao khi một truyện cổ tích của dân tộc này truyền vào một dân tộc khác, thì phải chuyển hóa thành một truyện mới, hay ít nhất cũng phải mang những mô-típ mới, những màu sắc quen thuộc hoặc gần như quen thuộc với điều kiện sinh hoạt, với tâm hồn của dân tộc mới. Cần phải nói thêm là truyện cổ tích thường giàu tính cộng đồng. Giá thử trong truyện có in dấu cá tính của người sáng tác thì cá tính đó cũng phải phù hợp hoặc không phương hại gì đến tính chất chung của tập thể. Có thế, nó mới được tập thể thừa nhận và lưu truyền. Tính cộng đồng tuy không đồng nhất nhưng có quan hệ khăng khít và là cơ sở của tính dân tộc. Tất nhiên, trong cùng một giai đoạn lịch sử, giữa các dân tộc khác nhau, các tập đoàn người khác nhau vẫn có những ước mơ, hy vọng giống nhau, cho nên thế giới trong truyện cổ tích Đông Tây vẫn thường dĩ những sự tích Cố Bu, Ba Vành... không còn mang tính chất lịch sử nữa là nhờ thông qua hư cấu nghệ thuật của tập thể quần chúng nên câu chuyện thực đã được cải biên hoặc cách điệu thành những thiên truyện anh hùng, những nhân vật anh hùng đúng như quan niệm lý tưởng của quần chúng. Tất nhiên, tưởng tượng và hư cấu ở đây sẽ không hạ thấp mà càng làm cho nghệ thuật truyện cổ tích có giá trị chân thật hơn hẳn các loại truyện tự sự dân gian khác. Xét về mặt quan niệm nghệ thuật, điều này có khác với phương Tây. Trong cách kể truyện cổ tích của phương Tây, người kể thường vẫn dùng một câu kết nói rõ mình đã "tán dóc", đã "bịa" trong suốt quá trình kể chuyện. Nghĩa là cả người kể lẫn người nghe không ai tin đấy là chuyện thật. Còn ở Việt nam thì khác: người kể chỉ thực sự thành công khi làm cho người nghe tin rằng chuyện do mình kể đã xẩy ra ở đâu đó, tại một địa phương phiếm chỉ nhưng không xa nơi họ đang sống. Cũng chính nhờ tính chân thật này mà sau khi đã ngừng kể, câu chuyện vẫn còn sống động, được biến hóa từ địa danh này sang địa danh khác, và truyền đi, qua trí nhớ của nhiều người. Tóm lại, đặc điểm thứ ba này cho phép ta phân biệt truyện cổ tích với các loại truyện dân gian khác, ở chỗ, nó là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh. Nó là một thể loại đã đạt đến cấp độ cao trong nghệ thuật tự sự truyền miệng, trước khi chuyển sang giai đoạn toàn thịnh của văn xuôi tự sự trong nền văn học viết. III/ Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích Đặc điểm thi pháp chung của truyện cổ tích:
Đặc điểm thi pháp của từng thể loại truyện cổ tích : Truyện cổ tích thần kỳ:
1.1. Truyện cổ tích thần kì (cũng như truyện cổ tích về loài vật, truyện cổ tích sinh hoạt) chỉ có một số kiểu nhân vật chính nhất định. Đó là:
Mỗi nhân vật trong số những nhân vật trên là tên gọi chung của những nhân vật đồng dạng – những nhân vật có những nét tương đồng căn bản về tính cách, hành động và số phận và thường xuất hiện trong những truyện cổ tích thần kì có cốt truyện đại thể giống nhau. Người ta gọi là kiểu nhân vật. 1.1. Phân loại nhân vật chính:
2.2. Khác với truyện cổ tích sinh hoạt và truyện cổ tích về loài vật, xung đột trong truyện cổ tích thần kì luôn luôn được giải quyết nhờ sự can thiệp của các lực lượng thần kì. Nhân vật chính ít nhiều có tính chất thụ động. Lực lượng thần kì trong truyện cổ tích gắn với tín ngưỡng. Trong truyện cổ tích thần kì của người Việt, lực lượng thần kì bao gồm: những nhân vật thần kì (Thần, Bụt, Tiên,...); những vật có phép màu ( cung tên thần, gươm thần, đàn thần, bút thần, sách ước,...); sự biến hóa siêu tự nhiên ( người hóa thành vật, vật hóa thành người, vật náy hóa thành vật khác, người thế này hóa thành người thế khác,...)... Lực lượng thần kì cũng có thể chia thành hai loại: lực lượng thần kì trợ thủ của nhân vật chính ( phía thiện chính nghĩa) và lực lượng thần kì đối thủ của nhân vật chính hay đối thủ thần kì (phía ác, phi nghĩa).
2.3. Truyện cổ tích thường được xây dựng theo một số sơ đồ chung nhất định. Cơ sở để xác lập sơ đồ kết cấu truyện cổ tích là những hành động của nhân vật chính. Có thể phác thảo sơ đồ kết cấu của truyện cổ tích thần kì dân tộc Việt như sau:
II. Phần giữa: cuộc phiêu lưu của nhân vật chính trong “ thế giới cổ tích”.
-Mô típ a: rời nhà đi nơi xa.
III. Phần kết: Đổi đời hay là sự thay đổi số phận trong “thế giới cổ tích”.
2.3. Qua phác đồ trên, có thể thấy một vài nét riêng của kết cấu truyện cổ tích thần kì của người Việt, so với kết cấu của truyện cổ tích thần kì của các dân tộc khác. Đồng thời cũng nhận rõ hơn những nét chung của kết cấu truyện cổ tích thần kì của các dân tộc như: tính chất trọn vẹn của câu chuyện kể về số phận, cuộc đời nhân vật chính; tính chất phiêu lưu của cuộc đời nhân vật chính, vai trò không thể thiếu của yếu tố thần kì, ...
2.4.1 truyện cổ tích thần kì, hành động được triển khai trên hai bình diện không gian và thời gian: bình diện không gian – thời gian trực 2.5. Công thức mở đầu: Mỗi dân tộc đều có một vài kiểu công thức mở đầu dùng chung cho những câu chuyện cổ tích của mình. Truyện của người Việt thường mở đầu bằng công thức “Ngày xửa ngày xưa, ở một làng kia, có một,...”. Truyện các dân tộc thiểu số anh em mở đầu bằng những công thức như “Ngày xưa, vào cái thời chim chích nuốt con sóc, con sóc nuốt con cầy..ó một...” (Thái); “Ngày xưa, lúc chiếc bánh giầy còn biết thổi kèn, đánh trống, người Hmông còn chưa biết may quần áo, chưa có vàng bạc, chưa có nhẫn đeo tay...” (Hmông);..ững công thức ấy đều có chung một đặc điểm hình thức, biểu thị tính chất đặc biệt cổ xưa, ám chỉ tính chất “dường như có thể có” của câu chuyện kể. Chức năng cơ bản của công thức mở đầu là đưa người nghe từ dòng thời gian của cuộc đời hàng ngày vào thời gian của câu chuyện kể, tách rời sinh hoạt hiện tại và, sau đó, như theo một phép màu, nhập thân vào “thế giới cổ tích”. 2.5. Công thức kết thúc Truyện cổ tích người Việt thường kết thúc: “Từ đó, dân Việt mới có tục ăn trầu...” (Sự tích trầu, cau, vôi); “Ngày nay, những con sam thường đi cặp đôi, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái ở dưới nước, như khi chồng ôm vợ để bay qua biển” (Sự tích con sam),..ông thức này đưa ra một “dấu vết xưa còn lại” – một tục lệ, một sự vật,... – làm bằng chứng cho “tính chất có thật” của câu chuyện kể. 2.5. Những công thức trần thuật Những công thức trần thuật đa dạng hơn những công thức mở đầu và kết thúc. Đó là những công thức về thời gian, những công thức miêu tả đặc điểm nhân vật, những công thức miêu tả hoàn cảnh tình huống,... Truyện cổ tích sinh hoạt ( thế sự ):
Khác với truyện cổ tích thần kì, trong cơ cấu nhân vật chính của truyện cổ tích sinh hoạt đã xuất hiện loại nhân vật “tiêu cực” (nhân vật xấu xa và nhân vật khờ khạo). Về điểm này, có đôi điều cần lưu ý:
thường nhưng là xung đột ở ngay đỉnh điểm, căng thẳng. Vì thế, nó đáp ứng nhu cầu thông thường của những con người bình thường khát khao một chút ly kỳ để tạm quên đi sự tẻ nhạt của đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, nguồn gốc sâu xa của sức hấp dẫn của những truyện “Phân xử tài tình” là ở cách giải quyết những xung đột giữa ngay và gian, giữa người vô tội và kẻ có tội ấy. Trong những ước mơ đã dệt nên truyện cổ tích, có ước mơ tưởng như giản dị hơn cả nhưng, thật ra, là lãng mạn bậc nhất – đó là ước mơ của người dân thường về một nền công lý sáng suốt, công bằng.
Truyện cổ tích sinh hoạt không được xây dựng theo một hoặc một vài sơ đồ kết cấu chung nào. Câu chuyện kể của truyện cổ tích sinh hoạt thường linh động, vì những môtip xã hội và sinh hoạt được dùng làm cơ sở của nó có tính không bền vững. Tuy vậy, về đại thể, người ta vẫn có thể phân biệt hai kiểu kết cấu khác nhau của tiểu loại truyện cổ tích này.
cũng chỉ kể việc, không tả người; thậm chí, nhân vật chính cũng không có số phận dù chỉ là một nét phác đơn sơ (nhưng rành rõ) như ở những truyện kể về “Gương thế sự”. Cố nhiên, nếu tính cách nhân vật cổ tích thể hiện chủ yếu qua hành động (nói chặt chẽ hơn là: chỉ thể hiện qua hành động), thì chính sự việc được kể đã vẽ ra tính cách của nó.
Truyện cổ tích sinh hoạt phiêu lưu, đặc biệt là những truyện kể về nhân vật mưu trí, thường nhiều tình tiết và có dung lượng lớn. Mỗi tình tiết kể về một sự kiện, một cuộc phiêu lưu “nhỏ” kết thành một truyện nhiều “chương hồi” kể về cuộc phiêu lưu “lớn” của nhân vật đóng vai chính xuyên suốt câu chuyện. (Ví dụ: Chuỗi truyện “Ông Ó” gồm khoảng 30 mẫu truyện; chuỗi truyện “Trạng Quỳnh” gồm khoảng 40 mẫu truyện; chuỗi truyện “Trạng Lợn” gồm khoảng 20 mẫu truyện.) Như vậy, “Xâu chuỗi” là một biện pháp nghệ thuật kết cấu nằm khắc họa rõ nét thêm tính cách nhân vật, nâng cao “tầm vóc” của tính cách ấy
Không gian và thời gian “cổ tích” trong truyện cổ tích sinh hoạt rất gần gũi với người kể và người nghe truyện. Bối cảnh sinh hoạt của câu
Phần lớn nhân vật chính trong truyện cổ tích về loài vật của người Việt (Kinh) là những con vật nuôi hoặc sống gần gũi với con người.
...), người thầy thuốc đầu tiên từng dạy cho loài người biết làm thuốc (con thỏ thầy thuốc ), vị quan tòa giỏi (thỏ nổi tiếng quan tòa, thỏ sử kiện, thỏ sử kiện yêu tinh phải thua,...). Tuy nhiên, có phần khác với nhân vật mưu trí truyện cổ tích sinh hoạt, con thỏ trong truyện cổ tích về loài vật Việt Nam không phải là nhân vật chỉ có mặt “tích cực”, chúng cũng có mặt “tiêu cực”, mặt xấu. Thái độ của người kể và người nghe đối với chúng có tính chất hai mặt, với những mức độ khác nhau- vừa ưa thích, vừa không đồng tình (thỏ bị sên cho một bài học, thỏ chia phần cho rái cá,...).
Tuy nhiên, căn cứ vào những tư liệu hiện có, có thể nói, truyện cổ tích nói chung cũng như truyện cổ tích về loài vật nói riêng không đề cập xung đột trực tiếp giữa con người với loài vật. Dấu vết của xung đột ấy thể hiện ở những môtip rất cổ gắn với tín ngưỡng tôtem (Vật tổ) (như sự sợ hãi tôtem, sự sùng bái tôtem,...) đã trở nên hết sức mờ nhạt hoặc đã bị hiểu lại. Nhân vật trong truyện cổ tích có những đặc điểm gì?Nhìn chung, nhân vật cổ tích chưa được cá thể hóa, tâm lí hóa. Mang tính chất tưởng tượng, "tính khác thường" của sự việc và hành động, được xây dựng theo một vài sơ đồ chung như: dũng sĩ giết quái vật cứu người đẹp, người xấu xí nhưng tốt bụng, tài giỏi,... Nhân vật chính diện trong truyện cổ tích là gì?Nhân vật chính diện hay còn gọi là nhân vật tích cực, là nhân vật thể hiện những giá trị tinh thần, những phẩm chất đẹp đẽ và những hành vi cao quý được tập trung miêu tả, khẳng định và ngợi ca trong tác phẩm theo một quan điểm tư tưởng, một lý tưởng xã hội-thẩm mỹ nhất định. Đề tài của truyện cổ tích là gì?Đề tài trong truyện cổ tích sinh hoạt bao quát tất cả những vấn đề diễn ra trong cuộc sống, ở đó tác giả có thể sử dụng các biện pháp nhân hóa, làm rõ mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, từ đó tôn vinh những đức tính cao đẹp, quý giá mà con người nên học theo. Chủ đề của truyện cổ tích là gì?Các chủ đề của truyện cổ tích thường xoay quanh các nhân vật: thần tiên, yêu tinh, người cá, người khổng lồ, ông bụt… Những câu chuyện cổ tích thông qua sự quan sát, chiêm nghiệm lần lượt xuất hiện thể hiện khát vọng sống thiện của mọi người, nhu cầu được sống tự do với đam mê. |