Phân tích bài thơ hoa sen của võ quảng

Hoa sen | Bài thơ Hoa sen [Võ Quảng]

Bài thơ Hoa sen

Hoa sen sáng rực Như ngọn lửa hồng Một chú bồ nông Mải mê đứng ngắm Nước xanh thăm thẳm Lồng lộng mây trời Một cánh sen rơi

Rung rinh mặt nước

Tác giả: Võ Quảng.

Bạn đang xem: Bài thơ Hoa sen [Võ Quảng]

Bài thơ Hoa sen [Võ Quảng]: Hoa sen sáng rực, Như ngọn lửa hồng, Một chú bồ nông, Mải mê đứng ngắm, Nước xanh thăm thẳm, Lồng lộng mây trời, Một cánh sen rơi, Rung rinh mặt nước Bài thơ Hoa sen [Nguyễn Hoàng Sơn]: Mùa đông sen ngủ say, Mùa hè, sen thức dậy, Lá non hiện lên trước, Búp sen hồng nhô sau, Mở cánh áo lụa màu, Sen thả hương vào gió Bài thơ Sen nở [Phạm Hổ]: Nước gương Im sáng, Cá bơi Im lặng, Chuồn chuồn Soi bóng, Bé ngồi Lặng ngắm, Từng cánh Hoa sen, Hoa thấp Hoa cao, Hoa trước Hoa sau, Lấp ló Nghiêng đầu, Rình xem Sen nở, Bé chờ Chờ xem

Đăng bởi: Monica.vn

Chuyên mục: Những bài thơ hay

Hoa sen sáng rực Như ngọn lửa hồng Một chú bồ nông Mải mê đứng ngắm Nước xanh thăm thẳm Lồng lộng mây trời Một cánh sen rơi

Rung rinh mặt nước

Bài tập 2: Lị Thị Hồng 1992PHÂN TÍCH CÂU THƠ“Hoa sen sáng rựcNhư ngọn lửa hồngNước xanh thăm thẳmLồng lộng mây trờiMột cách sen rơiRung rinh mặt nước[ có một chỗ chơi]”Bài làmVõ Quảng được coi là “ Nhà văn của tuổi thơ, nhà thơ của tuổi hóa “ làcây đại thụ của văn học trẻ em Việt Nam, cả cuốc đời sáng tác chỉ dành viếtcho trẻ em.Là một cây bút nghiêm cẩn trong sáng tác, Võ Quảng đã để lại một gia tàitinh thần quý giá cho tuổi thơ. Hơn 200 bài thơ ông để lại không chỉ là nhữngbài học làm người sâu sắc mà còn là những cơng trình nghệ thuật có ý nghĩađặt nền móng, đồng hành cùng sự phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam.Đó chính là hoa thơm, trái ngọt được dâng tặng từ trái tim nhân hậu, yêuthương trẻ thơ thực lòng của nhà thơ. Những tác phẩm này đã nâng đôi cánhước mơ, tiếp thêm nghị lực cho bao thế hệ thiếu nhi Việt Nam trên con đườngtrưởng thành. Võ Quảng đã tạo ra một giọng thơ riêng giản dị, trong sáng, chắckhỏe, bất ngờ, hóm hỉnh phù hợp với điệu tâm hồn của trẻ em. Vì vậy, thơ VõQuảng đã vượt lên thời gian, ln là món q u thích của cả trẻ em và ngườilớn. Ơng có những bài thơ thật hay miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Những hìnhảnh hết sức giản dị, thân thương nhưng tạo ra những rung động về vẻ đẹp thanhbình, trong sáng của làng quê Việt Nam bao đời.Qua bài thơ: Hoa sen“Hoa sen sáng rựcNhư ngọn lửa hồngNước xanh thăm thẳmLồng lộng mây trờiMột cách sen rơiRung rinh mặt nước[ có một chỗ chơi]”Mầm non là vẻ đẹp bất ngờ của sự bừng tỉnh, nảy nở, sinh sôi. Khi đấttrời xơn xao, chim mng ríu rít, khe suối rì rào, mầm non bật dậy góp một sắcxanh tơ điểm mùa xuân thêm rạng rỡ, chồi non đứng giữa trời khoác áo màuxanh biếc.1 Cảnh hồ sen mùa hạ được vẽ bằng nét bút chấm phá, gợi khơngkhí n tĩnh, thống đãng, trong lành, Hoa sen sáng rực/ Như ngọn lửa hồng.Một cánh sen rơi càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng của hồ nước. Bằng những từláy gợi tả, cách sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, Võ Quảng đãvẽ lên một bức tranh thơ rực rỡ sắc màu, với hình khối khỏe khoắn, âm thanhrộn ràng.“Hoa sen sáng rựcNhư ngọn lửa hồng”Ở đây tác giả sử dụng biện pháp so sánh ‘hoa sen như ngọn lửa hồng” thểhiện nét đẹp, rạng rỡ của hoa sen thông qua từ “sáng rực” nét đẹp hoa sen ainhìn cũng thích, cũng u say lắm, cứ muốn ngắm nghìn mãi khơng thơi, tácgiả rất khéo léo khi ẩn dụ hình ảnh “chú bồ nơng” để nói đến con người và mọivật xung quanh khi nhìn thấy vẻ đẹp hoa sen cũng bị hấp hồn “say động longngười”“Một chú bồ nôngMải mê đứng ngắmCâu thơ tiếp theo “ Nước Xanh thăm thẳmLồng lộng mây trờiMột cách sen rơiRung rinh mặt nước[ có một chỗ chơi]Ở câu thơ này tác giả sử dụng từ láy “ thăm thẳm, lồng lộng, rung rinh” đểtoát lên cảnh hồ sen mùa hạ n bình, thống đãng trong lành mát mẻ. “Mộtcánh sen rơi” một cái động chạm rất nhẹ cũng đủ làm mặt nước . rung rinh,gợn sóng. Tiếng động của cánh sen rơi càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng của hồnước. Không gian yên tĩnh, thoáng đãng và trong lành như được ớp hơng sen,và chú bồ nông kia dường như đã bị thôi miên bởi cảnh sắc này.Bài thơ không chỉ miêu tả một cảnh đẹp, mà tác giả còn muốn giới thiệuvới các em một địa điểm chơi thật thú vị và hấp dẫn, ở đó các em có thể vừavui chơi, vừa thả hồn thơ mộng cùng với thiên nhiên.Đoạn thơ trên cũng Võ Quảng đã thể hiện khả năng miêu tả nghệ thuật tàitình. Ơng như một họa sĩ tài ba đã quan sát và chắt lọc những nét tiêu biểu củacon vật, cây trái, con người… để dành tặng các em. Bằng con mắt xanh noncủa con trẻ, nhà thơ mang đến cho các em những rung cảm tinh tế, nhẹ nhàng “Một cánh sen rơi, rung rinh mặt nước”2

Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Bài Thơ Hoa Sen Võ Quảng xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất ngày 15/07/2022 trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung Bài Thơ Hoa Sen Võ Quảng để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến thời điểm hiện tại, chủ đề này đã đạt được 9.405 lượt xem.

--- Bài mới hơn ---

  • Trích Truyện Kiều Của Nguyễn Du
  • Cái Hay Cái Đẹp Trong Bài Thơ Duyên Của Xuân Diệu
  • Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ “Dòng Sông Mặc Áo ” Của Nguyễn Trọng Tạo
  • Bài Thơ Em Yêu Nhà Em [Đoàn Thị Lam Luyến] – “Chẳng Đâu Bằng Chính Nhà Em”
  • Phân Tích Bài Thơ Em Yêu Nhà Em
  • Tháp-Mười duyên thắng tuyệt vời

    Đầm lầy muỗi đỉa, lưng trời hạc bay

    Hoa Sen nào của riêng ai

    !

    Từ lâu, đất phương Nam từng được coi như là trung tâm của bồ lúa gạo của nước nhà, và cây trái quanh năm bốn mùa tiếp tục nở hoa tươi tốt, đó là do nhờ có những cánh đồng nông nghiệp mênh mông, vườn tược ngút ngàn, thủy lộ sông rạch giao thông thuận tiện. Tuy nhiên, về cảnh sắc ở từng địa phương thì lại cũng đã có những nét đan thanh chấm phá ngoại lệ đa dạng khác nhau. Và một trong những vùng địa lý có mang tính khác lạ hơn nơi nào hết, thì đó chính là vùng văn hóa đặc trưng miệt đầm lầy Đồng-Tháp-Mười ở lãnh thổ biên giới miền Tây Nam-bộ.Nói cách khác, ngày nay cái tên Đồng-Tháp-Mười là một địa danh không còn xa lạ gì đối với hầu hết nhân dân trong nước, mặc dù có người cả đời chưa bao giờ có dịp lãng du đến tận nơi nầy. Dẫu sao, qua các phương tiện truyền thông hiện đại thì người ta cũng từng đã biết rất nhiều về lịch sử của địa phương ở nơi đây nổi tiếng nhất là có nhiều hoa Sen, một loài hoa bình dị tầm thường nhưng lại có mang nhiều ý nghĩa thanh khiết nhất trong các muôn loài hoa dân dã.Vùng đồng lầy Đồng-Tháp-Mười là một khu lòng chảo ngập nước quanh năm có địa hình trũng sâu, về địa thế thì nằm ở đầu nguồn của sông Tiền chảy ngang qua từ nơi biên giới, và được trải rộng ra trên 3 tỉnh Long-An, Tiền-Giang và Đồng-Tháp. Còn cái tên Đồng-Tháp-Mười, thì người ta được biết tới từ hồi đầu thế kỷ 19 trong quá trình khẩn hoang và lưu trú của cư dân ở vào thời kỳ đó. Ngày trước, dưới thời Nam tiến của người Việt thì Đồng-Tháp-Mười được coi như là một vùng đầm lầy hoang dại, giang sơn của muôn loài thú dữ tung hoành trên rừng, dưới nước, và gây rất nhiều trở ngại khó khăn nhất cho công cuộc phát triển dinh điền, khẩn hoang lập ấp của các triều nhà Nguyễn vào lúc bấy giờ. Ở đây, bùn sình lầy bước chân không đi được, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh bềnh như bánh canh, dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua. Trăn, rắn rết bò dọc, bò ngang lổn ngổn, chuột đồng to béo nhởn nhơ, từng bầy khỉ vượn nhảy nhót hú vang chuyền cành. Tôm, rùa, cá…bơi lội thư thả dưới đồng lầy, lau lách tha hồ đua nhau vươn mọc um tùm trên gò sâu, gò cạn. Chim chóc tập họp thành từng đàn, cất cánh chao liệng trên toàn cả một cánh đồng thiên nhiên, bao la chứa đầy ngập nước. Cùng chen lẩn sống chung trong môi trường động thực vật đó, còn có sự sinh tồn của nhiều loài phiêu lưu thảo và các loài hoa hoang dã hằng ngày khoe sắc, đổi màu theo thời gian từ hằng thế kỷ đã trôi chúng tôi nhiên, ngày nay trước ý chí quyết tâm khắc phục và tinh thần khai phá của con người trong cuộc hành trình đi tìm mảnh đất cắm dùi, để mong đổi thay cuộc sống cho bằng được, thì hầu hết cuộc diện cảnh trí ở nơi đây, giờ nầy đã bị hoàn toàn khác lại.

    Quê hương chỉ một, không hai Tháp-Mười*Từ lâu, đất phương Nam từng được coi như là trung tâm của bồ lúa gạo của nước nhà, và cây trái quanh năm bốn mùa tiếp tục nở hoa tươi tốt, đó là do nhờ có những cánh đồng nông nghiệp mênh mông, vườn tược ngút ngàn, thủy lộ sông rạch giao thông thuận tiện. Tuy nhiên, về cảnh sắc ở từng địa phương thì lại cũng đã có những nét đan thanh chấm phá ngoại lệ đa dạng khác nhau. Và một trong những vùng địa lý có mang tính khác lạ hơn nơi nào hết, thì đó chính là vùng văn hóa đặc trưng miệt đầm lầy Đồng-Tháp-Mười ở lãnh thổ biên giới miền Tây Nam-bộ.Nói cách khác, ngày nay cái tên Đồng-Tháp-Mười là một địa danh không còn xa lạ gì đối với hầu hết nhân dân trong nước, mặc dù có người cả đời chưa bao giờ có dịp lãng du đến tận nơi nầy. Dẫu sao, qua các phương tiện truyền thông hiện đại thì người ta cũng từng đã biết rất nhiều về lịch sử của địa phương ở nơi đây nổi tiếng nhất là có nhiều hoa Sen, một loài hoa bình dị tầm thường nhưng lại có mang nhiều ý nghĩa thanh khiết nhất trong các muôn loài hoa dân dã.Vùng đồng lầy Đồng-Tháp-Mười là một khu lòng chảo ngập nước quanh năm có địa hình trũng sâu, về địa thế thì nằm ở đầu nguồn của sông Tiền chảy ngang qua từ nơi biên giới, và được trải rộng ra trên 3 tỉnh Long-An, Tiền-Giang và Đồng-Tháp. Còn cái tên Đồng-Tháp-Mười, thì người ta được biết tới từ hồi đầu thế kỷ 19 trong quá trình khẩn hoang và lưu trú của cư dân ở vào thời kỳ đó. Ngày trước, dưới thời Nam tiến của người Việt thì Đồng-Tháp-Mười được coi như là một vùng đầm lầy hoang dại, giang sơn của muôn loài thú dữ tung hoành trên rừng, dưới nước, và gây rất nhiều trở ngại khó khăn nhất cho công cuộc phát triển dinh điền, khẩn hoang lập ấp của các triều nhà Nguyễn vào lúc bấy giờ. Ở đây, bùn sình lầy bước chân không đi được, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh bềnh như bánh canh, dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua. Trăn, rắn rết bò dọc, bò ngang lổn ngổn, chuột đồng to béo nhởn nhơ, từng bầy khỉ vượn nhảy nhót hú vang chuyền cành. Tôm, rùa, cá…bơi lội thư thả dưới đồng lầy, lau lách tha hồ đua nhau vươn mọc um tùm trên gò sâu, gò cạn. Chim chóc tập họp thành từng đàn, cất cánh chao liệng trên toàn cả một cánh đồng thiên nhiên, bao la chứa đầy ngập nước. Cùng chen lẩn sống chung trong môi trường động thực vật đó, còn có sự sinh tồn của nhiều loài phiêu lưu thảo và các loài hoa hoang dã hằng ngày khoe sắc, đổi màu theo thời gian từ hằng thế kỷ đã trôi chúng tôi nhiên, ngày nay trước ý chí quyết tâm khắc phục và tinh thần khai phá của con người trong cuộc hành trình đi tìm mảnh đất cắm dùi, để mong đổi thay cuộc sống cho bằng được, thì hầu hết cuộc diện cảnh trí ở nơi đây, giờ nầy đã bị hoàn toàn khác lại.

    Đồng-Tháp-Mười ngày nay

    Các hình thức cấu trúc cơ sở hạ tầng, từ đường sá, cầu kỳ, chợ búa, công trình phúc lợi cho đến nhà cửa, tụ điểm văn hóa, tâm linh, ruộng đồng, vườn tược, đầm sen…nói chung là làng mạc, phố phường. Từ lâu, nó từng đã được lớp người tiền phong dồn hết mọi nỗ lực để đầu tư trí tuệ. Cũng như, cùng với mồ hôi từ bàn tay lao động khổ nhọc không ngừng nghỉ của con người địa phương trải qua bao thế hệ tiếp nối thay nhau dựng xây thành hình, thì nay đã đâu ra đó. Đó, cũng chính là hình ảnh của những ấp, xã, huyện, thành phố từ bao năm qua từng đã được quy hoạch, chỉnh trang, phát triển mở mang kiến thiết không ngừng. Và ngày nay, theo cuộc cải tổ về hành chính sau cùng vào ngày 14-10-2013, thì tỉnh Đồng-Tháp gồm có 2 thành phố là Cao-Lãnh và Sa-Đéc, 1 thị xã Hồng-Ngự. Và 9 huyện là: Châu-Thành, Cao-Lãnh, Hồng-Ngự, Lấp-Vò, Lai-Vung, Tam-Nông, Tân-Hồng, Thanh-Bình và Tháp-Mười. Thành phố Cao- Lãnh chính thức được chọn làm tỉnh lị cho tỉnh Đồng-Tháp thay thế cho thành phố Sa-Đéc kể từ năm 2007, và nay được coi như là điểm tựa và cơ sở hạ tầng cho sự phát triển kinh tế đặc khu vùng Đồng-Tháp-Mười.

    Với tổng diện tích tự nhiên là 3.238km2, trong đó có tới 2/3 diện tích tự nhiên thuộc khu vực Đồng-Tháp-Mười, điều nầy, là một chứng minh về địa thế cũng như về địa lý của tỉnh Đồng-Tháp được coi như là một vùng văn hóa đặc trưng của miền đầm lầy sông nước phương Nam. Hơn thế nữa, là một tỉnh có đường biên giới giáp ranh với lãnh thổ Campuchia dài khoảng chừng 50km, cho nên ngày xưa thì mọi sự giao lưu, tiếp cận của cư dân ở hai quốc gia thường chủ yếu dùng lộ trình giao thông đường thủy. Còn ngày nay, thì được thuận tiện hơn nhiều là nhờ do có 4 của khẩu đường bộ là Thông-Bình, Dinh-Bà, Mỹ-Cân và Thường-Phước, các địa điểm nầy nằm cách khoảng nhau từ huyện Tân-Hồng cho tới huyện Hồng-Ngự. Do vậy, mặc dù có địa lý nằm chung trong vùng đồng bằng sông Cửu-Long** nhưng Đồng-Tháp lại là một trong những tỉnh có nhiều dáng vẻ mang đậm chất thiên nhiên cá biệt nhất ở miền Tây.

    Bản đồ tỉnh Đồng-ThápChính vì vậy, mà thời gian qua trong định hướng phát triển về kinh tế, xã hội mới bây giờ thì người dân Đồng-Tháp đã tìm thấy được đâu là thế mạnh của quê hương mình. Và cũng không trễ hẹn, để sẵn sàng tiếp lửa cho những công trình thực hiện các dự án đầu tư mở mang kinh tế về ngành du lịch ở ngay tại địa phương nhà. Thực ra, tiềm năng khai thác phát triển du lịch ở Đồng-Tháp có đầy triển vọng thu hút khách du lịch sinh thái đến từ khắp bốn phương. Tuy nhiên, có thể vì còn có những lý do bị hạn chế trong hoàn cảnh thực tế. Cho nên, sự quảng bá duyên dáng Đồng-Tháp chưa được thể hiện ra cho hết đúng với ý nghĩa giá trị du lịch sinh thái. Và văn hóa cộng đồng của nó, là một thắng cảnh địa phương nên thơ trữ tình, hồn nhiên dân dã miệt đầm lầy, vô cùng thích hợp cho những con người từ lâu có ý muốn tìm đến để tham quan, khám phá.

    Vả lại, từ lâu hình như người ta cũng đã từng được nghe biết về câu ca dao nổi tiếng “Tháp-Mười đẹp nhất bông Sen”. Điều nầy, thật không quá đáng chút nào! Thực vậy, trong quá khứ cũng như hiện tại Đồng-Tháp-Mười lúc nào cũng vẫn thuần khiết như hồn sen do nhờ có cảnh quan bao la thiên nhiên, tự bao đời thủy chung hòa quyện hình ảnh của những đầm sen rực nở vào trong cuộc sống của tình người dân dã. Hơn thế nữa, nói cách khác thì từ lâu Đồng-Tháp-Mười cũng đã từng tự hào được mệnh danh chính là quê hương hoa sen, mà hoa Sen thì lại còn là một biểu tượng thanh cao về ý nghĩa tâm linh trong tín ngưỡng của con người. Vì thế, trong tương lai Đồng-Tháp-Mười sẽ có nhiều triển vọng để trở thành một điểm hẹn làm quen cho những thành phần du khách có vốn tâm hồn bình dị, thích trở về gần gũi với phong cảnh đồng quê, miệt vườn.

    Thuyền đưa du khách tham quan

    Trong tỉnh Đồng-Tháp, huyện Tháp-Mười là nơi nổi tiếng có rất nhiều đầm sen rộng lớn nhất trong cả nước, từ đầm nọ sang tiếp đầm kia, và chủ yếu được được tập trung tại xã Mỹ-Hòa cạnh khu di tích Gò-Tháp. Ở đây, vào mùa sen mãn khai nở rộ lên đồng loạt, hoa sen rực đỏ hồng, nhụy vàng lấm tấm khoe sắc, khoe màu, hương sen lan tỏa ra ngào ngạt khắp cả một vùng đầm lầy sông nước. Nhờ vậy, dù cho có nắng gắt tới đâu thì người ta cũng đều có cảm tưởng như là trời không có nóng, vì thế cho nên bao giờ họ cũng thấy tâm hồn dễ chịu, thoải mái, bình an. Còn toàn khu lòng chảo Đồng-Tháp-Mười thì lại là một vùng đất trũng mênh mông, rộng khoảng 700.000ha. Trong mùa nước nổi, thì nước sông Cửu-Long dâng cao tràn vào Biển-Hồ [Campuchia], rồi sau đó tiếp tục chảy xuống hạ lưu tràn vào Đồng-Tháp-Mười, khiến cho hai vùng địa lý nầy trở thành nơi chứa nước dự trữ thiên nhiên vô cùng ích lợi cho việc đánh bắt thủy sản và nhu cầu nông nghiệp. Riêng tại VN, mỗi khi đến mùa nước nổi [thường bắt đầu từ khoảng rằm tháng 8 ÂL] thì Đồng-Tháp-Mười được dịp khoác lên mình một hình ảnh xinh tươi mới, để hoà quyện sắc màu cảnh vật thiên nhiên bạt ngàn những rừng tràm, đồng lúa, đầm sen…Và thời gian đó cũng là lúc thích hợp nhất, để cho người dân đi săn chuột đồng, đặt lờ, giăng lưới, cắm câu.

    Thời còn chiến tranh Đông-Dương, thì toàn vùng Đồng-Tháp-Mười có cái tên là Plaine des Joncs [Đồng Cỏ Lác], trong đó có một hình ảnh chốn hoang sơ rùng rợn khác được người dân gọi là Bưng-Sấu-Hì, là nơi có rất nhiều cá sấu từng gieo tại họa cho người dân vào lúc bấy giờ. Còn bây giờ, thì cánh đồng cỏ ma, và cánh đồng lúa ma lớn lao nhất vùng ĐBSCL còn sót lại hiện chính là một cảnh quan bao la khác lạ, hiếm hoi tìm thấy trong bất cứ nơi nào khác ở đất phương Nam.

    Và dáng đứng của quê hương hoa sen khi xưa tuy từng được gọi là một địa danh cá biệt nổi tiếng ở miền Tây, nhưng trong thực tế vào lúc bấy giờ thì lại có rất ít người dân ở đất phương Nam lưu tâm về một vùng địa lý sâu xa, có đường giao thông trắc trở nầy.

    Cho dù là:

    Tháp-Mười duyên thắng tuyệt vời

    Đầm lầy muỗi đỉa, lưng trời hạc bay

    Hoa Sen nào của riêng ai!

    Quê hương chỉ một, không hai Tháp-Mười*

    Cảnh quan thanh bình ở Đồng-Tháp-Mười

    Đầm sen ở Tháp-Mười

    Giờ đây thì khác, cái tên Đồng-Tháp-Mười đã trở hành thân quen nghe qua rất êm tai. Nó có vẻ bình dị, mộc mạc, và gần gũi trong tâm hồn chơn chất của người dân tuy họ cũng không rõ xuất xứ chính xác từ thời gian nào, cho dù từ lâu cũng đã có nhiều giả thuyết nói về địa danh đó. Tuy nhiên, trong quá nhiều giả thuyết được đưa ra, thì có thể giả thuyết cho rằng Tháp-Mười là một cái tháp bằng đá có vị trí đứng hàng thứ 10 được xây cất lên dưới triều vua Chân-Lạp Jayavarman VII [1181-1218] là hợp lý. Sự kiện nầy cũng đã được nhà khảo cổ Henri Parmentier và Jean-Yves Claeys [người Pháp] phát hiện vào năm 1932, khi ông tìm thấy ở khu vực Tháp-Mười có một cái tháp đứng hàng thứ mười trên bia có ghi bằng tiếng Phạn [Sanskrit] là ngôi tháp thứ mười. Tuy nhiên, một giả thuyết khác cho đó là cái tháp canh có 10 tầng, hoặc tháp canh thứ mười [bắt đầu từ khu vực Ba-Sao đến Gò-Tháp] của nghĩa quân Thiên-Hộ-Dương cất lên để canh chừng giặc Pháp thì có lẽ là hợp lý nhất.

    Ở đất miền Tây, ai cũng biết đến Thiên-Hộ-Dương là một vị lãnh tụ lừng danh của phong trào khởi nghĩa chống giặc xâm lăng Pháp. Ông tên thật là Võ-Duy-Dương [1827-1866], sinh quán tại Bình-Định. Lớn lên vào Nam lập nghiệp, và sau đó gia nhập vào phong trào kháng chiến dân tộc giải phóng nô lệ ngoại bang, và ông được vua Tự-Đức phong cho chức Thiên-Hộ. Phó tướng của ông là Đốc-Binh-Kiều, tên thật là Nguyễn-Tấn-Kiều sinh ở miền Trung và khi lớn lên thì cũng vào Nam lập nghiệp. Cả hai ông đều là những người lãnh đạo đoàn nghĩa quân kháng chiến chống giặc Pháp ở tại địa bàn vùng Đồng-Tháp-Mười, sau khi đồn Kỳ-Hòa ở Gia-Định bị thất thủ. Vào lúc bấy giờ thì địa thế, địa hình Đồng-Tháp-Mười có đầy muỗi mòng, đỉa, rắn…được coi như là một vùng đầm lầy vô cùng hiểm trở vào bậc nhất ở miền Nam. Vì thế cho nên, các ông đã tận dụng ưu thế cứ địa dể áp dụng chiến thuật du kích làm cho tiêu hao lần mòn sức mạnh của quân thù. Trong bối cảnh lịch sử thành lập chiến khu đó, cho nên mọi công sự như dùng tháp canh dùng để canh chừng bóng dáng quân giặc là không thể không có.

    Và suốt trong thời kỳ gian khổ chống giặc, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của hai ông đã kiên trì quyết tâm cố thủ cứ địa Đồng-Tháp-Mười, biến nơi đây trở thành một chiến khu huyền thoại, vì đây là ở chốn bưng biền, chớ không phải là vùng địa hình có địa thế núi cao, rừng sâu bí hiểm. Vậy mà lực lượng võ trang quân sự thô sơ của du kích quân vào lúc bấy giờ cũng đã làm cho giặc nhiều phen phải khiếp sợ, và bị tổn thất khá nặng nề.

    Đối với người dân Đồng-Tháp, thì ngày nay hình ảnh của hai ông chính là những vị anh hùng liêt sĩ tiêu biểu đã làm nên trang lịch sử vẻ vang, ngàn đời lưu lại tiếng thơm phảng phất, lan lẫn vào quê hương hoa sen mà hầu hết mọi người đều rất mực một lòng kính trọng, và tôn thờ không dứt khói hương. Và sau đây, là một bài thơ cảm động được lưu truyền của người dân đất phương Nam luôn luôn tưởng nhớ đến công đức của nhị vị tiền hiền. .

    Vì nước quên mình bởi chữ trung,

    Thương dân chi sá chốn sình bùn,

    Mấy năm Đồng-Tháp danh vang dội,

    Cọp rống ngoài truông, cáo hãi hùng,

    Hai thước im lìm nơi thạch động,

    Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung,

    Nỗi lòng nghĩ đến nhiều năm trước,

    Hương lửa đều không cảnh lạnh lùng.

    Tượng Thiên-Hộ-Dương Tượng Đốc-Binh-Kiều

    trong Bảo-Tàng Đồng-Tháp [Cao-Lãnh]

    Đền thờ Thiên-Hộ-Dương

    và Đốc-Binh-Kiều tại huyện Tháp-Mười

    Giờ đây, lại nói về quê hương hoa sen thì từ lâu người dân địa phương cũng đã từng có sáng kiến phát triển kinh kế du lịch, cùng với mục đích phát huy tình yêu hoa sen trong văn hóa cộng đồng. Và họ đã tạo ra một khu du lịch sinh thái đầu tiên mang tên là Đồng-Sen ở tại tỉnh nhà, để nhằm đáp ứng nhu cầu cho khách tham quan có dịp tìm hiểu về nét độc đáo của vùng đầm lầy sông nước. Tuy nhiên, ngày nay thì lại có phong trào kinh doanh chạy theo lợi nhuận đã bắt đầu có chiều hướng bột phát đang nở rộ lên ở Đồng-Tháp, và cạnh tranh nhau ráo riết. Cho nên, khu du lịch Đồng-Sen trong thời điểm nầy đã phải tạm ngưng hoạt động để tổ chức lại được hoàn hảo hơn. Dẫu sao, bất cứ lúc nào khách viễn phương vừa mới lạc bước đến nơi đây thì cũng đều có cảm tưởng chung như là mình vừa trút bỏ được một cái thế giới thị thành ô nhiễm, náo nhiệt. Giữa những đầm nước sen hồng, gió thổi quyện mùi hương sen thơm ngát, xa xa thấp thoáng có bóng dáng chim trời bay lượn dưới chân mây làm cho du khách thường không bỏ lỡ cơ hội để lưu lại những kỷ niệm hình ảnh phút giây ấn tượng, lãng mạn và đầy chất thơ.

    Khu du lịch Đồng-SenVà thật cũng không phải chẳng có nguyên do mà hình ảnh hoa sen thường được dân gian nói nhiều về sự công dụng hữu hiệu của nó.Trong văn hóa và cốt cách tâm linh, thì hình ảnh sinh tồn của hoa Sen là thể hiện cho tinh thần vô nhiễm [cư trần bất nhiễm trần] của Phật-giáo. Vẻ đẹp thuần khiết và ý nghĩa thanh cao của nó từ ngàn xưa đã bám rễ, ăn sâu vào cá tính nhân văn của người dân Việt. Và nó cũng đã từng gợi nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu là đề tài về văn thơ, hội họa, điêu khắc, kiến trúc v.v cho hầu hết thế nhân không phân biệt biên cương chủng tộc, màu da. Nói cách khác, hình ảnh sinh tồn của hoa Sen chính là điển hình cho một tấm gương trong sáng, để cho người đời nhìn vào cảm nhận được thế nào là biểu tượng cho một cuộc sống phong thái, tao nhã, tự tin với một bản năng tinh thần tinh túy mạnh mẽ lạ kỳ, không hề vẩn đục. Hơn thế nữa, ngoài nét đẹp thanh cao là Vua của loài hoa thuần khiết gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, thì công dụng của toàn cả cây sen cũng đã có công đem lại rất nhiều về mọi sự ích lợi vào trong đời sống thực vật của con người.

    Theo khoa Đông-y từ xưa, thì Sen là một loài cây thuốc phổ thông gồm có bát dược tính được phân tích ra như sau: Ngó sen là vị liên ngẫu. Thân sen là vị liên chi. Lá sen là vị liên diệc. Hoa sen là vị liên hoa. Tua sen là vị liên tu. Đài sen là vị liên phòng. Hạt sen là vị liên nhục. Giữa hạt sen là vị liên tâm. Tất cả vị thuốc tên đây đều được bào chế ra từ cây sen dưới mọi hình thức, dùng để trị những chứng bệnh như nào là mất ngủ, dưỡng da, chống lão hóa, giảm cholestérol, giải nhiệt v.v. Còn trong đời sống văn hóa truyền thống dân gian với nếp sinh hoạt cố hữu, thì họ thường dùng hoa sen để chưng bày trang trí cúng lễ, lá sen thì để gói bánh mang lại mùi thơm. Riêng về ẩm thực, thì hột sen, củ sen, ngó sen, tim sen lại là những món ăn bổ dưỡng quen thuộc sau khi được biến chế thành mức, thành chè, thành gỏi hay ướp hương thành trà sen, ăn uống rất thơm ngon.

    Trà ướp senHiện nay trên thế giới có rất nhiều chủng loại hoa sen mang màu sắc khác nhau, tuy nhiên, chỉ có vài màu sắc hoa sen thường được người ta nói đến nhiều nhất là sen hồng, đỏ [hồng liên], sen trắng [bạch liên], sen vàng [kim liên], và sen xanh [thanh liên].

    Sen hồng [Nelumbo nucifera] xuất hiện nhiều nhất ở châu Á. Sen trắng [Nelumbo lutea] xuất hiện nhiều nhất ở tiểu bang Illinois [Hoa-Kỳ]. Sen vàng Mỹ [American Lotus] xuất hiện từ tiểu bang Texas và Florida [Hoa-Kỳ]. Sen đỏ [Nymphaea rubra] xuất hiện ở các nước như Afghanistan, Bangladesh, Inde, Indonesie, Myanmar, Népal, Pakistan, Philippines, Sri Lanka, Thái-Lan và Nouvelle-Guinée]. Và Sen xanh [Nymphaea Caerulea] xuất hiện ở Ai-Cập. Mỗi một loại sắc màu hoa sen đều có mang một ý nghĩa đặc trưng cá biệt, cũng như từng đã tạo ra bao nguồn cảm hứng để cho người đời ghi chép đi vào thế giới hồn thơ nhạc. Và cho dù là loại sen nào đi nữa, thì nó cũng được gắn liền vào hình ảnh trang hoàng sắc hương vào cuộc sống hoàn mỹ của con người.

    Sen hồng ở Đồng-Tháp-Mười

    Sen trắng

    Sen vàng

    Sen xanh

    Sen đỏ

    Đặc biệt nói về lá sen, thì ở tại chùa Phước-Kiển, Nha-Mân, Đồng-Tháp ngày nay lại cũng có trồng một loại cây sen đặc biệt là có màu sắc thay đổi tới bốn màu trong một ngày. Thường thì từ sáng sớm tinh sương hoa màu trắng tuyết, và kéo dài cho tới khi sang quá giờ ngọ thì lại đổi thành màu hồng, về càng xế chiều hoa chuyển thành màu tím, rồi đỏ khi trời vừa tắt nắng. Chu kỳ sinh tồn của hoa rất ngắn, chỉ nở trong đôi ba ngày thì tàn tạ, tuy nhiên, khi cánh hoa nầy tàn thì hoa khác lại bắt đầu mọc lên và hé nở. Loại hoa sen nầy có tên là Victoria Regia [gốc ở quanh vùng sông Amazone Nam-Mỹ]. Hình dáng vô cùng đặc biệt của nó là có nhô lên những lá sen khổng lồ, mặt lá tròn, vành cong lên từa tựa như những cái nia đãi lúa hay nón quai thao, bên dưới đầy gai nhọn cứng, đường kính của nó lên tới gần 3m khi vào mùa nước nổi sen hút nước nhiều Và nó có thể chịu đựng, với sức nặng của một người khoảng 60kg đứng lên trên mà không bị gãy. Người địa phương gọi đó là sen Vua, còn cái ao sen đó thì là dấu tích xưa của các hố bom sau thời kỳ chiến tranh còn để lại. Riêng chùa Phước-Kiển ngày nay thì cũng còn được nhiều người quen gọi nhiều hơn, với cái tên là chùa Lá Sen.

    Lá sen khỏng lồ

    trong khuôn viên chùa Phước-KiểnĐồng-Tháp cách Hồ-Chí-Minh 143km theo quốc lộ chính, vào đến trung tâm tỉnh lị thành phố Cao-Lãnh thì 154km. Tại bến xe miền Tây hiện nay có rất nhiều hãng xe chạy thẳng về Đồng-Tháp theo lộ trình ngang qua vòng xoáy Trung-Lương ở Mỹ-Tho, tiếp tục theo quốc lộ về Vĩnh-Long, rồi một đoạn sau đó rẽ mặt chạy về địa phận Đồng-Tháp. Tình trạng dân số tỉnh Đồng-Tháp theo số liệu thống kê từ năm 2013 thì tổng cộng có được 1.680.300 người, trong đó có khoảng gần 300.000 người sống ở thành thị và số còn lại sống rải rác ở nông thôn. Các sắc dân thì gồm có cư dân Việt, Khmer, Hoa, Chăm, Thái, Mường, Tày và Ngái [một trong 54 sắc tộc có ít người nhất hiện nay ở trong nước] cùng một số ít là người nước ngoài. Là một tỉnh rất nghèo về tài nguyên khoáng sản, Đồng-Tháp chỉ trông cậy vào với tài nguyên nước dồi dào của nguồn sông Cửu-Long, cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt, để phát triển địa phương về nhiều lãnh vực phục vụ đáp ứng nhu cầu nông nghiệp, hoa màu. Ngành kinh tế du lịch địa phương thì đang trên đà khai thác mở mang, nhưng cũng có thể được coi như là hiện còn trong tình trạng phôi thai nếu đem so với nhiều địa phương khác đã đi trước hơn từ lâu. Lý do chính vì các cơ sở hạ tầng ở đây còn yếu kém, chưa phát triển đồng bộ, nhất là về mặt giao thông.

    Tuy nhiên, không phải vì thế mà Đồng-Tháp không phải là nơi lựa chọn không thích hợp, để cho những thành phần du khách sành điệu tìm đến tận nơi nầy tận hưởng những thú vị và có cảm giác riêng về sắc thái ở địa phương. Thực vậy, ngoài cảnh quan khác lạ quê hương có 1 không 2 Tháp-Mười, thì các đặc sản ẩm thực hấp dẫn miệt đầm lầy ở đây, chắc chắn cũng có thể đem lại cho thực khách những hương vị đậm đà, khoái khẩu. Như nào là cá lóc nướng trui cuốn lá sen non, rượu sen, hủ tiếu Sa-Đéc, bành xèo, vịt nướng Cao-Lãnh, nem Lai-Vung, gà đập đất, ốc nướng tiêu, lẫu mắm, bánh phồng tôm v.v.. Đặc biệt, là món ăn chuột đồng quay lu, chuột nướng mùi rất thơm ngon nhưng có nhiều du khách thấy sợ không bao giờ dám ăn, vì không quen.

    Cá lóc cuốn lá sen non

    Chuột quay lu và khô chuột đồng phơi nắngTrong thành phố Cao-Lãnh có ngôi chợ khang trang, có Bảo-Tàng trưng bày các di tích lịch sử, và còn có khu di tích Nguyễn-Sinh-Sắc được khánh thành từ năm 2010. Phó bảng Nguyễn-Sinh-Sắc [1862-1929] nguyên là một nho sĩ yêu nước sinh quán ở miền Trung và có đi làm quan lại vào lúc bấy giờ. Sau khi bị cách chức, ông vào Nam [tại Cao-Lãnh] hành nghề thầy thuốc và sống cuộc đời thanh bạch tại làng Hòa-An cho đến khi qua đời. Đây là một địa điểm hiện nay được các tour du lịch tổ chức đưa du khách đến viếng thăm, thư dãn do nhờ có cảnh quan được trùng tu khang trang, thoáng rộng hơn xưa.

    Chợ Cao-Lãnh

    Bảo tàng Đồng-Tháp

    Khu di tích Nguyễn-Sinh-Sắc

    Thành phố thứ nhì của tỉnh Đồng-Tháp là Sa-Đéc. Sa-Đéc nguyên là vùng đất của Thủy-Chân-Lạp, và có tên là Phsar-Dek. Ngày xưa Sa-Đéc từng là tỉnh lị của tỉnh Sa-Đéc, nay tuy không còn giữ vai trò trọng yếu tỉnh lị của tỉnh Đồng-Tháp nữa nhưng bề dày của lịch sử quá khứ hãy còn lưu giữ lại nhiều di tích, và ảnh hưởng xã hội rất nhiều ở tại địa phương. Ở đất phương Nam ngày trước, nếu như người ta thường được nghe nói đến cục đất Mỹ-Tho là nơi “phong hồi thủy tụ” [gió nước hợp hòa] thì Sa-Đéc vào lúc bấy giờ, cũng từng được người ta gọi là vùng “lưu thông quán khái”[sông sâu nước chảy], đất đai phì nhiêu, cỏ hoa tươi tốt, sinh hoạt dân gian diễn ra náo nhiệt hằng ngày. Chợ búa, phố phường in hình trên sóng nước ven sông, hàng hóa bán buôn bày la liệt trên khắp các vỉa hè, đường phố.

    Cầu Sa-Đéc ngày xưa

    Là một thành phố được thành hình lâu đời do nhờ có địa lý thuận tiện về mặt giao thông, vì thế cho nên nơi đây hiện còn có nhiều chứng tích văn hóa tâm linh chùa chiền cổ, nhất là chùa ông Quách, và các nhà cửa kiểu xưa thời Pháp để lại. Và bây giờ, trên con đường mở mang hiện đại hóa, thì Sa-Đéc cũng có thêm những khu công nghiệp, những trung tâm thương mại lớn, những trung tâm vui chơi giải trí như rạp chiếu phim 3D, quán bar, trò chơi điện tử, công viên thoáng rộng hữu tình.

    Chợ Sa-Đéc

    Kiến-An-Cung hay chùa ông Quách

    là một ngôi chùa cổ nổi tiếng của người Hoa [Phúc-Kiến]Và thông thường, mỗi khi du khách vừa đặt bước chân vào trung tâm thành phố Sa-Đéc, thì hướng dẫn viên du lịch cũng không bao giờ quên giới thiệu về các đặc sản địa phương như bánh phồng tôm Sa-Giang, nem, quýt Lai-Vung, xoài Cao -Lãnh v.v. Đặc biệt, là về món ẩm thực nổi tiếng ở địa phương từ lâu là hủ tiếu Sa-Đéc từ lâu được rất nhiều người từng có dịp thưởng thức.

    Tô hủ tiếu Sa-Đéc khổng lồ 

    Giỏ hoa tươi lớn nhất VN

    Tỉnh Đồng-Tháp xưa nay còn có một nơi nổi tiếng khác lạ nữa, đó là về hình ảnh của làng nghề trồng hoa ở Tân-Quy-Đông. Làng hoa Tân-Quy-Đông là một làng hoa lớn nhất ở trong nước, và từ lâu được coi như là trung tâm hoa giống của tỉnh Sa-Đéc. Tại đây, có tới gần 2.000 gia đình sinh sống chủ yếu vào nghề trồng hoa trong một diện tích canh tác trồng trọt khoảng 250ha. Từ lâu, làng hoa Tân-Quy-Đông cũng là một địa phương nổi tiếng là có trồng trọt rất nhiều loại hoa xinh đẹp, không những cung cấp cho thị trường tiêu thụ ở trong nước, mà còn xuất khẩu sang Cam-Bốt, và Lào. Tại đây, không khí hương thơm ngào ngạt tỏa ra từ các loại hoa mai chiếu thủy, thược dược, lan, cúc, hoa tử-dương [tú cấu], cau bình rượu, hoa dâm bụt, hoa nước ngoài như vạn thọ Pháp, tùng Nhật-Bản, hoa hồng v.v. Đặc biệt, vào những mùa Xuân về, Tết đến khách du Xuân tìm đến làng hoa Sa-Đéc rất đông để xem muôn loài hoa nở ngập tràn hương sắc, và cũng để mua về trang trí, chưng bày ở trong nhà.

    Làng hoa Tân-Quy-Đông

    Hoa nở rộ vàng ngập cánh đồngTại VN, sau ngày thống nhất nước nhà thì ở trên toàn cõi dải đất phương Nam, nói riêng, chỗ nào cũng không khỏi có ít nhiều di tích của chiến tranh còn để lại. Và nếu ở miền Đông Nam-bộ có khu di tích là địa đạo Củ-Chi, thì ở miền Tây Nam-bộ cũng có khu di tích mương hào Xẻo-Quít. Mương hào Xẻo-Quít là một công trình đào đắp tạo nên một hệ thống đường thủy nhỏ hẹp, nằm lõm trong vùng kênh rạch chằng chịt có địa thế, địa hình trắc trở. Và có tác dụng hữu hiệu dùng để chuyển quân cũng như vũ khí trong rừng tràm Đồng-Tháp-Mười ngày xưa, và nay được đưa vào khai thác du lịch. Tại đây, không khí trong lành, phong cảnh thiên nhiên thanh tịnh, sâu lắng, từng gây nhiều ấn tượng trong tâm hồn du khách khi có dịp viếng thăm, và được ngồi trên những chiếc xuồng lòn lách trôi qua những mương đào dưới rừng tràm xanh thẩm ngút ngàn.

    Khu di tích lịch sử Xẻo-Quít

    Đồng-Tháp hãy còn nhiều địa điểm du lịch vô cùng lý thú, và nếu khách viễn phương có thì giờ, thì hãy nên lợi dụng cơ hội để tham quan đầy đủ cho thỏa mãn tình yêu quê hương hoa sen hằng mong đợi bấy lâu. Và một trong những di tích xa xưa nhất ở miền Nam, thì đó chính là khu di tích Gò-Tháp.

    Nền tháp di tích văn hóa Óc-Eo

    Các tượng đá biểu trưng cho nền văn hóa Óc-Eo

    Khu di tích Gò-Tháp là một khu vực gồm có nhiều gò nhỏ, thấp nằm trên một vùng đất pha cát ở trong huyện Tháp-Mười, cách thành phố Cao-Lãnh 43km, và là một trong những dấu vết văn minh, văn hóa Óc-Eo của vương quốc Phù Nam còn sót lại ở trên dải đất miền Nam VN. Vào mùa nước nổi, toàn khu di tích ngập tràn đồng nước mênh mông, trên gò cao có nhiều cây cổ thụ hàng trăm tuổi sừng sững vươn mình trên cánh đồng bao la đan xen màu lục loài cây cỏ tạo thành một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, hữu tình, khiến cho lòng du khách tự dưng cảm khái yên bình, thư thái.

    Gò-Tháp có chiều cao so với mặt đất ruộng chung quanh là 3m80, có một diện tích chừng 4.500m2. Và tuy không có vị trí quan trọng tầm cỡ cho bằng khu di tích Óc-Eo ở Ba-Thê, An-Giang [nơi từng được các nhà nghiên cứu khảo cổ cho rằng có thể đấy từng là một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù-Nam từ thế kỷ I cho tới thế kỷ VII], nhưng di tích Gò-Tháp ở đây cũng hãy còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn về lịch sử.

    Năm 1944, một nhà khảo cổ học Pháp tên là Louis Malleret là người tiếp tục đã khám phá thêm ra khu di tích Gò-Tháp có những nền gạch được xây cất lên, cùng với hàng chục khối đá lớn có hình thể như cột, yoni…ghép nối kiến trúc giềng quanh. Và cùng với nhiều hiện vật gồm các mảnh vỡ gốm, đá, khuôn đúc, 2 tượng Vishnu…Tuy nhiên, trước đó vào những năm 1869-1878, thì nhà khảo cổ Silvestre cũng đã từng phát hiện ra được một bánh xe bằng đá và những dấu tích phần móng của một ngôi tháp trong khu vực Gò-Tháp. Tiếp theo đó, là nhà khảo cổ Lunet de Lajonquière cũng đã góp phần nghiên cứu giải mã thêm về các bản văn khắc trên bia đá. Hầu hết các di tích kiến trúc ở Gò-Tháp đều được các nhà khảo cổ nghiên cứu cho biết nghệ nhân có tay nghề trình độ cao, xây dựng công phu và khéo léo, biết làm tường thành bao bọc xung quanh vị trí để đề phòng mọi sự xâm thực bào mòn của gió nước. Nhờ vậy mà các hiện vật tìm thấy được sau hằng thế kỷ tuy bị vùi sâu dưới lòng đất như các tượng Siva, Vishnu bằng đá sa thạch, các phiến đá, cột đá có chạm khắc họa tiết hoa văn còn giữ được ít nhiều dấu vết cổ xưa.

    Hiện nay, phế tích lịch sử Gò-Tháp gồm có cả hàng ngàn di vật còn sót lại thuộc 3 loại hình di tích quan trọng là di tích cư trú với các di vật như cọc nhà sàn, bếp lửa, mảnh gốm nồi niêu. Di tích mộ táng, với đồ tùy táng chôn theo như đồ gốm, đá quý, mảnh vàng, nhẫn vàng có khắc hoa văn được tìm thấy trong 13 ngôi mộ được khai quật. Và di tích kiến trúc trên các gò cao như Gò Tháp-Mười, Gò Minh-Sư, Chùa Tháp-Linh, và Miếu Bà Chúa Xứ. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu khảo cổ đánh giá, thì hiện nay trong khu di tích Gò-Tháp có hai cổ vật được xem như là quan trọng nhất. Đó là pho tượng Phật bằng gỗ thể hiện ra được những đường nét điêu khắc đơn sơ, tính chất giản dị trong tinh thần sáng tạo phong phú về nghệ thuật của nghệ nhân vào hồi thế kỷ thứ V-VII. Và các bia văn bằng đá mang đậm nét tôn giáo Hindu, hệ phái Vishnu, chính các chứng tích nầy đã giúp cho người ta hiểu được tính cách chủ nhân bản địa của nó từng đã có một thời kỳ văn minh vàng son rực rỡ.

    Giếng nước cổ 

    Các hiện vật

    Bia đá cổ Phù-Nam

    Tượng Phật gỗ

    Sau năm 1975, các nhà khảo cổ trong nước tiếp tục công trình khai quật và cũng đề ra dự án khoanh vùng bảo vệ 4 khu chức năng chính là khu di tích bảo tồn, bảo tàng, khu rừng sinh thái, khu dịch vụ và khu nuôi thú hoang dã. Do vậy, trong tương lai khu di tích Gò-Tháp sẽ được mở mang phát triển nhiều hơn và sẽ được coi như là trung tâm du lịch của tỉnh Đồng-Tháp. Và mới đây nhất là vào đầu năm 2022, thì Ban Quản-Lý di tích Gò-Tháp cũng đã có cho công bố kết quả thăm dò ở 4 khu vực, với sự phát hiện thêm về kiến trúc Ao thần, Đèn thần Vishnu và nhiều hiện vật cổ khác.

    Trở lại với hình ảnh thiên nhiên, du khách trước khi đến với khu Ramsa Tràm Chim thứ 2000 nổi tiếng của VN, thì nên đừng quên ghé tham quan khu du lịch sinh thái Gáo-Giồng [cách thành phố Cao Lãnh 17km] một lần cho biết. Nơi đây, người dân địa phương quanh vùng hằng ngày thường được tín hiệu thiên nhiên báo thức đến hai lần. Lần đầu tiên, là tiếng gà canh khuya gáy sáng. Và lần thứ nhì, là dành cho những người dậy trễ do sự sinh hoạt nhộn nhịp kêu ríu rít của các loài chim, nhất là của đàn cò trắng khi chúng vừa thấy ánh bình minh vừa hé dạng ở chân trời. Tại đây, có nhiều nhất là hàng chục ngàn con cò trắng sinh sống suốt tháng quanh năm như là hình ảnh quen thuộc của xóm làng, và mỗi lần chúng bay lên thì che bóng mặt trời trong giây lát. Khu du lịch Gáo-Giồng đã được thành lập từ năm 2003, và do nhờ bảo quản tốt [có cả đài quan sát cao 18m] cho nên có rất nhiều loài chim nước chọn làm quê hương trú ẩn thường xuyên như điên-điển, le le, trích mồng đỏ, diệc v.v. Nhiều con tỏ ra rất dạn dĩ, không những chúng dám đến săn mồi gần bên du khách, mà còn nhảy múa hoặc cất lên những tiếng gáy nghe buồn man mát nhưng thơ mộng làm sao!

    Đàn cò trắng trong khu du lịch sinh thái Gáo-Giồng

    Du hành trên xuồng ba láCòn vườn cò Tháp-Mười thì nằm cách thành phố Cao-Lãnh 35km, tuy nhỏ nhưng cũng có nhiều loại cò chọn nơi đây làm tổ. Nhiều nhất ở đây, là loại cò ruồi lông trắng, giò đen, mỏ vàng. Còn lại, là các loại cò sen, cò ma, cò quắm, cò đúm, cò cá, cò xanh, cò ngà và nhỏ nhất là loại cò lép. Và cũng như ở tại Gáo-Giồng, vườn cò Tháp-Mười lúc nào cũng có sự sống của các loại chim khác như bìm bịp, cuốc, bạc má, điên điển, vạc…Thường thì mỗi hừng sáng chúng tung cánh bay đi khắp nơi để kiếm ăn, cho đến lúc chiều chạng vạng tối mới tiếp tục trở về. Và những nơi đi tìm kiếm mồi hằng ngày của chúng, là bất cứ chỗ đồng ruộng ao bèo nào có cá, cua, sò, ếch nhái, ốc, tép, lươn, rắn…thậm chí con diệc nó còn ăn thịt ngay cả các con chim loại nhỏ hơn.

    Vườn cò Đồng-Tháp

    Con diệc đang ăn thịt con chim nhỏ

    Và tiếp theo đây, là điểm hẹn của bạn đã đến. Hiện nay VN có tất là 6 khu Ramsar của thế giới, trong đó gồm có vườn quốc gia Xuân-Thủy [Nam-Định], vườn quốc gia Cát-Tiên [Đồng-Nai], hồ Ba-Bể [Bắc-Kạn], vườn quốc gia Mũi Cà-Mau [Cà-Mau], vườn quốc gia Côn-Đảo [Bà-Rịa&Vũng-Tàu], và đặc biệt nhất là vườn quốc gia Tràm-Chim ở trong tỉnh Đồng-Tháp.

    Vườn quốc gia Tràm-Chim có tổng diện tích là 7.313 ha nằm ở hạ lưu sông Cửu-Long, thuộc huyện Tam-Nông. cách th ành phố Cao-Lãnh 37km về hướng Bắc Nơi đây, có tất cả khoảng hơn 130 loài thực vật bậc cao, hơn 231 loài chim nước, hơn 100 loài động vật, và hơn 150 loài cá đã được tìm thấy có sự sinh sống của chúng. Chẳng hạn như nào là lúa trời, cỏ ma, sen, súng, rong tảo, lau sậy, loài chim vịt trời, cò trắng, bồ nông, diệc, cồng cộc, giang sen, loài bò sát rắn, trăn, rùa…Đặc biệt, nhất là loài chim hạc còn được gọi là sếu đầu đỏ [Grus antigone], thuộc loài chim di cư, di trú theo mùa bên cạnh khu bảo tồn động vật hoang dã Anlung-Pring [Campuchia], và hiện nay nó là một loài chim hiếm hoi còn sót lại trên thế giới. Do vậy, cho nên từ lâu Tràm-Chim Đồng-Tháp từng đã được tổ chức “BirdLife Inernational” *** bình chọn xếp vào vùng chim quan trọng [Important Bird Area] ở VN.

    Ramsar thế giới Tràm-Chim Đồng-ThápVà người ta cũng còn có thể nói thêm rằng, hệ sinh thái đất ngập nước [Ramsar] của khu vực Tràm-Chim [cạnh Láng-Sen ở địa phận Long-An] là một trong những chứng tích cuối cùng của vùng Đồng-Tháp-Mười từ bao thế kỷ trước, mà giờ đây đã bị thu hẹp do sức tiến của con người. Chính vì lẽ đó, mà từ lâu khách du ngoạn đến đây đã có dịp tìm thấy được những nét đẹp độc đáo không trùng lặp giống như với những cảnh quan nào khác của các vùng miền lân cận. Ngoài ý nghĩa đa dạng về mặt sinh thái, sinh học, nghiên cứu khoa học, văn hóa, và phát triển du lịch, Tràm-Chim còn chính là nơi còn phảng phất về hình ảnh nguyên thủy của vùng đất thiên nhiên, sơ khai của tiền nhân ta khổ công khai khẩn trải qua từ bao thế hệ. Vào mùa nước nổi, thì nước dâng cao lên tràn ngập mênh mông cả cánh đồng Tràm-Chim, hàng ngàn cánh cò xuất hiện chao liệng trên không tạo thành một bức tranh linh hoạt, ngoạn mục vô cùng. Từ trên chòi canh, du khách sẽ có dịp trải nghiệm qua được những phút giây cảm khái tâm hồn đầy kỳ thú trong một chuyến tham quan. Tuy nhiên, còn các loài chim quý thì chúng thường hay bay di chuyển qua lại tự nhiên từ quốc gia nầy sang qua địa phận của các quốc gia khác.

    Khu Ramsar Tràm-Chim

    Thắng cảnh thiên nhiên tuyệt vời

    Cách đây khoảng thập niên, nếu ở Tây-Ninh có một ông Hai Lúa nổi tiếng như cồn vì đã bỏ ra bao năm trời để sáng chế ra được một chiếc trực thăng không đạt mức độ an toàn, thì ngày hôm nay, tại Đồng-Tháp cũng có bốn ông Hai Lúa khác sáng chế ra được chiếc thuyền chạy bằng năng lượng mặt trời.không gây ra tiếng động. Và rất thích hợp, để được dùng vào làm phương tiện đón đưa khách du lịch có nhu cầu muốn được dịp tiếp cận mục kích thỏa mãn về cách sinh hoạt của các loài chim hoang dã ở Tràm-Chim.

    Hình ảnh vô cùng ấn tượng về sếu đầu đỏ ở Tràm-ChimTrên chiếc tắc ráng nhẹ nhàng rẽ sóng trên con kinh Mười-Nhẹ sẽ đưa du khách lướt ngang qua những cánh rừng tràm từng dãy tiếp dãy ngút ngàn một màu xanh thẩm để tham quan cánh đồng Tràm-Chim. Và mỗi khi nghe có tiếng động, thì trong cánh rừng có hàng loạt cánh chim vụt bay lên cao theo từng đàn, loại nào theo loại nấy nhưng nhiều nhất là loại cò trắng. Gặp nhằm lúc đúng mùa Xuân, thì du khách sẽ có dịp được ngắm nhìn lý thú hơn trước hình ảnh của những con sếu đầu đỏ [loài chim quý phái đang có nguy cơ tuyệt chủng] có chân dài lông xám chao liệng, nhảy múa tuyệt diệu chẳng khác gì loài chim công, trĩ. Người ta được biết, kể từ khi Tràm Chim [Tam-Nông, Đồng-Tháp] được công nhận là khu Ramsar thứ 2000 trên thế giới, thì dự án “Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng” cũng đã được Quỹ Quốc-Tế Bảo-Vệ Thiên-Nhiên [WWF]**** và công ty Coca-Cola phối hợp bảo trợ giữ gìn hữu hiệu một di sản bảo tồn đa dạng sinh học của con người. Chính nhờ vậy mà ngày nay khu Ramsar Tràm-Chim hãy còn giữ được tính hoang sơ với màu sắc thiên nhiên. Cho dù, trong những năm gần đây thì tình hình biến đổi khí hậu trên địa cầu diễn ra hết sức là phức tạp, có ảnh hưởng trực tiếp vào các môi trường tự nhiên của không khí, đất đai và ngay cả các hệ sinh thái cây rừng.

    Cảnh thiên nhiên Tràm Chim

    Đài vọng cảnh ở Ramsar Tràm Chim

    Chim Giang-Sen

    Chim Cồng-Cộc

    Chim Bồ-Nông

    Ngày xưa, Đồng-Tháp-Mười chỉ là một địa danh ở vùng sâu của đất phương Nam. Lúc bấy giờ, đường giao thông không thuận tiện nhưng nhờ vậy mà tính chất hoang dã thiên nhiên sở tại hãy còn giữ lại được rất nhiều từ hình thức cảnh quan đầm lầy, cá nước, chim trời cho đến màu lục nguyên sinh của muôn loài cây cỏ. Còn ngày nay, thì dân đi du lịch phượt bằng xe máy cũng có thể tìm đến đây một cách dễ dàng bằng nhiều lộ trình từ các hướng khác nhau, và sau khi tham quan tìm hiểu, thì ai cũng có thể hình dung ra được một sự biến đổi hình dáng địa phương theo cái mốc của thời gian quá khứ.

    Tuy nhiên, nếu nói đến những hình ảnh sinh hoạt kỷ niệm cảnh cũ người xưa ở quê làng thì ở bất cứ nơi nào cũng đều có cả, và đó cũng chính là trường hợp về hình ảnh đặc biệt của chợ chiếu Âm-Phủ ở Định-Yên, huyện Lấp-Vò, tỉnh Đồng-Tháp. Hồi trước, cư dân ngụ tại xã Định-Yên có truyền thống làm nghề dệt chiếu lâu đời và nổi tiếng đồn xa. Nghệ nhân dệt chiếu ở đây tay nghề khéo léo, có thể thêu lẫy được những hình rồng phượng làm tăng thêm giá trị của chiếc chiếu, và họ đã tạo được cho gia đình một đời sống tương đối khá sung túc, cất xây nhà tường cao ráo. Vì thế, ở miền Tây dạo ấy đã có lưu truyền câu thơ đi vào ca dao:

    Định-Yên có vựa chiếu to

    Có chồng xứ Định khỏi lo chiếu nằm

    Thực vậy, thời cực thịnh của nghề dệt chiếu bán buôn ở Định-Yên là số cung không chạy kịp theo số cầu. Vì vậy, các mối lái ghe thuyền mua bán chiếu ở các tỉnh miền Tây phải tranh nhau đến tận nơi để neo đậu nghẹt dưới sông bất kể giờ giấc ngày đêm, để chờ mua chiếu đem về bán lại, và đã có những ngày đêm giao dịch bán buôn diễn ra vô cùng tấp nập với con số lên gần tới cả ngàn người. Về sau, chợ chiếu quy tụ dời về ở sân chùa An-Phước và được xoay vòng từ ngày cho tới đêm. Chợ phiên mỗi đêm, thường diễn ra từ 4 khuya đến 8 giờ sáng. Đặc biệt, vào khung cảnh ban đêm, dưới những ánh đèn dầu hiu hắt, lặng lẽ, với cả một rừng người, mỗi người đứng ôm một bó chiếu đứng bán bên cạnh ánh sáng dật dờ, mờ ảo tỏa khói, cho nên người dân mới gọi đó là chợ Âm-Phủ. Còn thực tế bây giờ thì chợ Âm-Phủ về đêm cũng đã bị đi vào mai một, do nguyên nhân ngày nay người dân sử dụng máy dệt chiếu quá nhiều, và người mua thường đặt hàng trước khi tới nhận.

    Chợ chiếu Định-YênNhững ai chưa từng tham quan Đồng-Tháp-Mười thì hãy thử đến viếng thăm một lần cho biết, và đi vào lúc nào cũng được vì mùa nào Đồng-Tháp-Mười cũng có nét đẹp riêng, thú vị vô cùng. Chẳng hạn như trong mùa nước nổi dâng lên cao bao nhiêu, thì loài lúa ma ở đây cũng mọc dài thêm bấy nhiêu, để lúc nào nó cũng vươn mình cao lên khỏi mặt nước. Còn cánh đồng lúa bao la bình thường hằng ngày thì bị đắm chìm vào trong biển nước, và được thay vào bằng cánh đồng sen súng, rong tảo, năn, lác v.v, trong lúc trên trời có hàng ngàn con cò bay lượn theo từng đàn sà xuống săn mồi, lướt nhảy tung tăng trên những lá sen bềnh bồng theo sóng nước…

    Đồng lúa ma 

    Đàn cò săn mồi

    Và một khi du khách đã cảm nhận ra rằng, quả thật quê hương hoa sen là tuyệt diệu, thì không lý do nào họ lại không muốn tìm hiểu thêm ít nhiều về một vài hình ảnh của con người Đồng-Tháp. Và cũng nếu câu hỏi đó được đặt ra cho hướng dẫn viên địa phương, thì ý kiến của họ sẽ trưng ra là hình ảnh của Năm Sa-Đéc, một người nghệ sĩ tài năng từ lâu từng để lại nhiều dấu ấn cảm tình cho rất nhiều thành phần khán giả ở trong nước.

    Nghệ sĩ Năm Sa-Đéc tên thật là Nguyễn-kim-Chung [1907-1988], tác giả ghi đúng trên bia mộ, vì có nhiều tài liệu ghi khác là [1908-1988]. Trước khi trở thành kịch sĩ và diễn viên điện ảnh, thì bà là một nghệ sĩ cải lương tuồng cổ. Năm Sa-Đéc là con của ông bầu Tam [Nguyễn-văn-Tam], người thành lập ra gánh hát bội “Thiện-Tiền-Ban” đầu tiên ở tại tỉnh Sa-Đéc. Suốt trong cuộc đời dấn thân vì nghệ thuật, bà đã lần lượt có dịp cộng tác và lưu diễn khắp nơi cùng với các đoàn hát cải lương nhỏ lớn như Phước-Tường, Vân-Hảo, Phụng -Hảo, Thanh-Minh&Thanh-Nga. Từ là nghệ sĩ hát bội chuyển sang nghệ sĩ cải lương, không dừng lại đó bà còn đi sâu vào sân khấu kịch nghệ trước khi trở thành diễn viên điện ảnh, và được rất nhiều người ái mộ. Do vậy, ngày nay mỗi khi nói đến bà Năm Sa-Đéc thì người dân Đồng-Tháp-Mười rất lấy làm vinh dự và hãnh diện về tài năng tỏa sáng của bà đã góp phần làm rạng danh cho mảnh đất quê hương hoa sen. Trong cuộc sống riêng tư, bà đã hạnh phúc làm lại cuộc đời bên cạnh học giả Vương-Hồng-Sển vào lúc bấy gìờ. Và sau đó mấy tháng, thì ông nhận chức Quyền quản thủ Viện Bảo-Tàng Quốc-Gia Việt-Nam tại Sài-Gòn. Sau năm 1975, tuy bà đã già nhưng vẫn còn phong độ nghệ sĩ, đóng tròn vai kịch nghệ cũng như về điện ảnh. Bà qua đời đột ngột, để lại tình cảm cho rất nhiều người sau khi hay biết được hung tin.

    Xót thương người bạn đường đã mất, cụ Vương-Hồng-Sển lúc bấy giờ đã có làm một bài thơ tiễn biệt vợ hiền, nghệ sĩ Năm Sa-Đéc thật là cảm động.

    Em sao vội phủi tay đứng dậy?

    Tắt đèn đời, tìm giấc ngủ thiên thu.

    Anh chỉ còn trơ mắt nhìn theo

    Qua giòng lệ viết trang tình nửa đoạn…

    Bà Năm Sa Đéc trong phim “Lệ Đá”

    Tuy nhiên, ngày trước đất Sa-Đéc cũng đã từng có một nhân vật trí thức được rất nhiều người biết đến. Đó là hình ảnh của nhà Bác-vật Lưu Văn Lang, một kỷ sư đầu tiên của nước VN và của cả Đông Dương. Là một trong những sĩ phu tiêu biểu hàng đầu ở Nam-bộ, ông từng tích cực dấn thân vào các phong trào quảng bá chữ quốc ngữ cũng như tham gia vào các phong trào yêu nước v.v. Trong ngày lễ tang học sinh Trần-Văn-Ơn tại Sài-Gòn, ông đứng ở trong hàng dẫn đầu đoàn người biểu tình lôi cuốn sự tham dự đông đảo của mọi từng lớp nhân dân.

    Ngoài ra, ông cũng còn là người đầu tiên sáng chế ra chiếc đống hồ đá duy nhất của VN, coi giờ bằng ánh sáng mặt trời. Và mặc dù nó không thể nào có thể so sánh được với giá trị của chiếc đồng hồ Thái-Dương khổng lồ lớn nhất trên thế giới ở trong khu Đài-Thiên-Văn Jaipur, Ấn-Độ. [Có nguyên tắc tính thời gian trong ngày, dựa vào sự di chuyển của mặt trời, từng được xây cất lên từ thế kỷ XVIÌI]. Nhưng người dân địa phương Sa-Đéc lúc nào cũng biết tự hào rằng quê hương mình từng có nhân tài tạo đã ra báu vật, rất có ý nghĩa theo sự kiện của dòng thời gian lịch sử. Tuy rằng, giờ đây thì di tích còn tồn tại nầy hiện đang nằm trong địa bàn của trung tâm thành phố Bạc-Liêu.

    Đồng hồ Thái-Dương VN

    Tác giả lưu niệm tại đồng hồ Thái-Dương

    khổng lồ ở trong khu Đài-Thiên-Văn Jaipur, Ấn-Độ

    “Tôi quyết định bỏ tiền đầu tư xây dựng ký túc xá miễn phí cho sinh viên nghèo với tâm nguyện muốn góp phần đào tạo họ trở thành người giỏi trên nhiều mặt, đóng góp tích cực cho xã hội. Vun đắp, chăm lo cho những sinh viên nghèo có điều kiện học tập thành tài là việc làm thiện nguyện có hiệu quả lâu dài nhất, giống như mình cho họ cái cần câu để họ tự câu cá, nuôi sống bản thân”.

    Dự án ký túc xá sinh viên

    Trường Đại-Học Nông-Lâm trao tặng lại

    cho Ông Phạm-Văn-Bên bức tranh thêu có chữ “Tâm”

    Đây là tấm gương báu của một doanh nhân bản lĩnh, đạo đức có tâm, và có tầm nhìn thấy phúc lợi của sự đầu tư trí tuệ vào trong phương tiện lãnh vực văn hóa, để làm động lực phát triển khả năng tinh thần sáng tạo của con người trong xã hội. Öng tên là Phạm-Văn-Bên, người địa phương thân thương quen gọi ông là Út Bên [vừa mới qua đời], một vị đại gia có nhân cách lớn sở tại thành đạt sự nghiệp vẻ vang do nhờ có nhiều kinh nghiệm ở chốn thương trường. Và với di sản cơ ngơi đồ sộ thương hiệu “Cỏ May” dưới sự quản lý kinh doanh của ông đang trên đà phát triển mạnh mẽ tại Sa-Đéc. Cùng với, nghĩa cử cao đẹp của một con người có trái tim đức hạnh muốn tìm dịp trả ơn xã hội, biết đạo làm doanh nhân, cho nên giờ đây hình ảnh kỷ niệm thương tiếc về ông còn để lại, thì đã được nhiều người đánh giá, vinh danh xem ông như là hình ảnh của một người thầy không bục giảng.

    Ngoài ra, vì vùng đất Đồng-Tháp-Mười ngày xưa vốn từng là một chốn bưng biền, địa hình lầy lội có quá nhiều khó khăn trở ngại với đầy huyền thoại gian nan trong quá trình khẩn hoang tìm đất sinh tồn. Vì thế cho nên, người dân ở địa phương bao giờ cũng luôn luôn biết ý thức tự hào về tinh thần tương thân, tương trợ, để cùng nhau trân quý di sản truyền thống đoàn kết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Do vậy, mà ngày nay người ta còn thấy thêm có rất nhiều về những hình ảnh cao đẹp khác tự nguyện đem lá lành đùm lá rách, và chia cơm sẻ áo cho nhau cần phải xứng đáng được vinh danh. Đó chính là hình ảnh của những mái nhà tình nghĩa đơn sơ được người dân quyên góp xây cất cấp cho người nghèo, hay được từng cá nhân hảo tâm có trái tim nhân ái bảo trợ hiến tặng. Và điển hình như là về trường hợp đặc biệt khả kính của bà Năm Thiền chăn nuôi vịt kiếm tiền, để dùng vào làm việc phúc thiện như tu bổ đường làng, xây cầu thôn xóm, cất lên những mái nhà tình nghĩa, để giúp đỡ những kẻ khốn cùng ở tại địa phương có được nơi yên ổn, nương náu qua ngày.

    Bà Võ-Thị-Thiền chăn nuôi bầy vịt từ thiện

     ở tại huyện Cao-Lãnh [Đồng-Tháp]Ở Đồng-Tháp, vì những ngày tổ chức về lễ hội không có được nhiều và đa dạng như ở các tỉnh khác. Vì thế cho nên, du khách đến thăm Đồng-Tháp-Mười chủ yếu là vì tình yêu hoa sen. Tuy nhiên, nếu du khách đến thăm nhằm lúc có xảy ra những ngày lễ hội lớn như lễ hội Gò-Tháp, lễ hội miếu Bà Chúa Xứ v.v, thì vẫn có thể thấy được những bầu không khí tưng bừng, náo nức không kém phần nghiêm trang và vui vẻ ở tại địa phương.

    Các đầm sen tư nhân

    Lễ hội Gò-Tháp

    Tự hào Đồng-Tháp Sen hồng

    Ngoài ra, ngay tại trung tâm thành phố Sa-Đéc cũng còn có di tích của một ngôi nhà cổ Huỳnh-Thủy-Lê nổi tiếng, do nhờ được xây cất hài hòa theo mẫu kiến trúc Đông-Tây vào năm 1895. Sau nhiều lần được gia chủ trùng tu, thì ngôi nhà gỗ ba gian kiểu miền Tây Nam-bộ đã phải tự biến thành một biệt thự kiểu phương Tây trộn pha với kiến trúc Việt, và Hoa, nếu nhìn từ bên ngoài. Tuy nhiên, phần kiến trúc bên trong thì hoàn toàn mang đậm đường nét, và màu sắc cố hữu của người Hoa. Ngày nay, du khách đến tham quan di tích nhà cổ sẽ còn có dịp được nghe qua về một câu chuyện tình đầy lý thú, và lãng mạn xảy ra trong ngôi nhà huyền thoại nầy từ hằng thập niên về trước.

    Nhà cổ Huỳnh-Thủy-Lê

    Bên trong ngôi nhà huyền thoại

    Khác với cuộc tình giữa Bạch-Công-Tử và quận chúa Olga xảy ra tại thành phố Paris được nhà báo Vương-Liêu viết ra từ hơn sáu thập niên về trước, và cho dù đó chỉ là một giai thoại có bài bản được lồng vào với sự trùng hợp của yếu tố thời gian nếu đã có xảy ra. Câu chuyện tình giữa cậu thiếu gia Huỳnh-Thủy-Lê 27 tuổi ở Sa-Đéc, và cô nữ sinh tóc vàng phương Tây Marguerite Duras 15 tuổi rưỡi [con gái của một bà Hiệu-Trưởng trường nữ sinh Sa-Đéc, nay là trường Trưng-Vương] xảy ra ở tại đất phương Nam khoảng thời gian bắt đầu vào một buổi trưa hè ngày 3 tháng 6 năm 1929 là hoàn toàn có thật 100/100, và chứa đầy kịch tính. Hơn thế nữa, nhân chứng sống cũng còn là người trong cuộc, và đó chính hình ảnh của nữ văn sĩ Pháp Marguerite Duras [1914-1996] về sau nầy. Bà là tác giả của quyển tiểu thuyết nổi tiếng “L’Amant”*****, mà trước khi chính thức được chuyển thể sang lĩnh vực điện ảnh, thì nó đã là một kiệt tác về văn học.

    Còn cuốn phim “L’Amant” thì dựa vào nội dung cốt truyện của quyển tiểu thuyết nói trên được quay tại Việt-Nam, và đã được hoàn thành trình chiếu chính thức vào ngày 22-01-1992 tại Pháp. Nhà đạo diễn Jean-Jacques-Annaud đã thực hiện thành công một cuốn phim nổi tiếng [độ dài 115 phút] nầy không những có giá trị về mặt nghệ thuật, mà còn về yếu tố tâm lý thu hút được rất nhiều thành phần khán giả ái mộ thưởng thức các thể loại phim tình cảm sống thực, kích thích rực nồng. Và từng đã được các nhà phê bình quốc tế coi như là vô cùng táo bạo trong lịch sử điện ảnh, về những cảnh nóng…thiệt.

    Chung cuộc, cho dù nếu không có đủ yếu tố thời gian để nhận ra mọi sự khác biệt về màu da, phong tục ngay từ phút đầu, thì cặp tình nhân đắm say cuồng nhiệt cũng phải đành đau khổ chấp nhận chào thua trước áp lực và định kiến của gia đình. Để rồi sau đó khi có dịp trùng phùng, hồi tưởng lại từng điệp khúc đam mê không muốn rời bên nhau, thì họ cũng đã thực tế nhận ra rằng ý nghĩa còn lại trong mảnh phần hồn của tình yêu chân thành là bất diệt…

    Marguerite Duras

    [ngày xưa]

    Jane March

    [quốc tịch Anh]

    Ngôi sao điện ảnh Jane March

    đóng vai Marguerite trong phim “L’Amant”Và cũng phải thành thật nói rằng là nhờ có tác phẩm sách báo, điện ảnh của cuốn phim thành công nổi tiếng “L’Amant” mà đã có nhiều người nước ngoài [nhất là người Pháp] mới có thêm dịp, để được nghe biết đến nhiều hơn về địa danh Sa-Đéc ở miền Tây.

    Miền Nam từ lâu có tiếng là vùng đất lành chim đậu. Nơi đây, cây trái bốn mùa, đồng lúa mênh mông, cỏ hoa tươi tốt, và riêng góc trời thì lại có một vùng đầm lầy sông nước mênh mông mang đậm nét đặc thù với tính nhân văn, phong cảnh địa hình không giống ở bất cứ nơi nào trong nước. Đồng-Tháp ở đây tuy có cảnh quan sông nước đầm lầy nhưng không có được những hình ảnh linh hoạt như chợ nổi như ở Tiền-Giang, Cần-Thơ…Đồng-Tháp ở đây tuy có di tích lịch sử Óc-Eo, nhưng không có được một hòn núi non huyền bí xinh đẹp nào như ở An-Giang. Và Đồng-Tháp ở đây tuy có những cánh rừng tràm, các đặc sản nổi tiếng địa phương, nhưng không có cảnh quan biển cả để nhìn thấy được mặt trời nhô lên từ đáy bể như ở Cà-Mau, Kiên-Giang…Đồng-Tháp còn lại ở đây, chỉ có hình ảnh của loài hoa sen là biểu tượng cho duyên dáng của địa phương mình. Nói cách khác, thì toàn bộ cảnh quan hoang dã của vùng Đồng-Tháp-Mười khi xưa, nay đã bị biến dạng rất nhiều để nhường chỗ lại cho hình ảnh của một địa phương duyên dáng, màu lục xinh tươi. Và chứa đầy sức sống linh hoạt, năng nổ của người dân lúc nào cũng có ý chí kiên trì mần việc ruộng dâu không quản công khó nhọc, với những ước vọng cải thiện cuộc đời và vững tin nhìn về phía trước.

    Nhưng tình người ở trên quê hương hoa sen, thì lúc nào cũng luôn luôn tỏ ra thân thiện, hân hoan đón chào từng lớp khách viễn phương.

    Hơn thế nữa, nếu du khách đến tham quan Đồng-Tháp-Mười tìm dịp trải nghiệm tâm hồn vào cái thú ngắm sen nở nhằm lúc mãn khai dưới cảnh quan thiên nhiên bao la, in hình hoa đồng, cỏ nội, mây ngàn. Lúc ấy, trong phút giây đầy ấn tượng tuyệt vời thưởng thức mùi thơm ngát hương sen, thì biết đâu có người sẽ ngộ ra được đôi điều lý thú về giá trị chân tướng đích thực của cuộc đời; để mà có dịp suy tư sâu lắng về ý nghĩa hình ảnh vạn vật trong kiếp phù sinh của dân gian trong xã hội.

    Trong thể xác định, thì hoa Sen lúc nào cũng vẫn hãy còn được người đời mãi mãi vinh danh, ca tụng coi như là biểu tượng cho sự thuần khiết và sinh hóa hồn nhiên.

    Tính chất nguyên thủy trong cuộc sống tâm linh của thế nhân cũng vậy, nó vốn là phần hồn vô nhiễm, trong sạch. Hãy có dũng chí gạn đục, lắng trong “tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”, và noi gương Sen để cố gắng tìm bằng mọi cách giữ cho tâm hồn còn được mãi sự thuần khiết, không dính tới mùi bùn…

    Đầm sen trước Đại-Tháp Hòa-Bình

    Lâm-Tỳ-Ni [Lumbini, Népal]Ngày nay, đường vào tham quan quê hương hoa sen đã được rút ngắn thời gian do nhờ có đường giao thông thuận tiện hơn xưa, cho nên du khách nước ngoài ngày càng đến với Đồng-Tháp-Mười nhiều hơn. Và chỉ trong một ngày, họ có thể thỏa mãn được tính hiếu kỳ để tìm hiểu thêm về một địa danh nổi tiếng có nhiều hoa sen. Cũng như, về huyền thoại ly kỳ của một câu chuyện tình éo le, cảm động, lãng mạn không biên giới của đôi uyên ương Âu-Á, mà chứng tích còn sót lại bây giờ chính là hình ảnh của ngôi nhà cổ Huỳnh-Thủy-Lê ở trong tỉnh Đồng-Tháp.

    Còn đối với khách du lịch nội địa, thì Đồng-Tháp-Mười bây giờ không chỉ là một địa danh của vùng văn hóa đặc trưng của miền đầm lầy sông nước phương Nam, mà nó còn là một dải đất quê hương mến yêu từng có công đóng góp phần quan trọng vào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ xóm làng, phát triển xã hội sau ngày quốc gia thống nhất, tái lập hòa bình.

    Riêng về hình ảnh của hoa Sen, thì nó chính là một biểu tượng độc đáo cho vùng đồng lầy Đồng-Tháp-Mười, mà từ lâu từng đã được hầu hết mọi người đương nhiên thừa nhận coi như là một vẻ đẹp thanh cao, mang đậm ý nghĩa tâm linh. Hơn thế nữa, vào năm 2011 thì hình ảnh của hoa sen hồng cũng vinh dự được người dân Việt-Nam trong toàn quốc nhất trí chính thức bình chọn là “quốc hoa”, do nhờ có vẻ đẹp cao sang, trang trọng, gần gũi dân gian, và mang tính dân tộc được đa số người yêu thích.

    Tuy nhiên, ngày nay nếu người ta muốn quảng bá về sự thể hiện tính thuần khiết cao đẹp của nó để áp dụng vào hình thức kinh doanh du lịch, thì cần phải có cái tâm cùng với cái tầm nhìn thông thoáng về tâm lý và nghệ thuật. Đây là một công việc không phải dễ dàng, vì nó luôn luôn đòi hỏi ý thức tinh thần trân trọng thừa hưởng của người dân lúc nào cũng phải biết cảnh giác trách nhiệm bằng mọi giá, đề giữ gìn mãi mãi nét đẹp phần hồn duyên dáng của quê hương…

    An-Tiêm MAI-LÝ-CANG

    [Paris]

    * – Thơ An-Tiêm MAI-LÝ-CANG.

    ** – ĐBSCL gồm có thành phố Cần-Thơ và 12 tỉnh là: An-Giang, Bến-Tre, Bạc-Liêu, Cà-Mau, Hậu-Giang, Kiên-Giang, Long-An, Sóc-Trăng, Tiền-Giang, Trà-Vinh, Vĩnh-Long và Đồng-Tháp.

    *** – Tổ chức quốc tế phi chính phủ hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, và môi trường sống của loài chim.

    **** -World Wide Fund For Nature

    ***** – Tiểu thuyết “L’Amant” [Người tình] xuất bản năm 1984, và đoạt giải thưởng văn học Goncourt.tại Pháp. Sau đó được dịch ra 43 thứ tiếng với khoảng 2,4 triệu bản in, và khi chuyển qua điện ảnh thì giành được giải thưởng ” Giải César cho nhạc phim hay nhất” vào năm 1993.

    Trong đầm gì đẹp bằng Sen

    Nguon: Chim Viet Canh Nam

    --- Bài cũ hơn ---

  • Phân Tích 12 Câu Thơ Đầu Trong Đoạn Trích “Trao Duyên”
  • Những Câu Nói Hay Về Duyên Phận, Duyên Nợ Đọc Để Ngẫm!
  • Bài Văn: Bình Luận Bài “Thơ Duyên”
  • Cười Ngả Nghiêng Trước 51 Stt Bê Tráp Hay
  • Ngữ Văn 10 Đoạn Trích: Trao Duyên [Trích Truyện Kiều
  • --- Bài mới hơn ---

  • Báo Khánh Hòa Điện Tử
  • “Con Cóc” Là Một Bài Thơ Hay?
  • Thơ Ca Về Nghề Tằm
  • Chuyên Trang Của Báo Kinh Tế & Đô Thị
  • Tập Thơ ” Bên Dòng Sông Đa Tình Của Trần Chấn Uy
  • Bài viết của nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Hoa đã khắc họa cho chúng ta thấy được tâm thế của người lính Cụ Hồ trong những ngày chiến đấu tại Quảng Trị.

    Là người sưu tập sách cũ, tôi đang giữ tập sách Những ngày dài trên quê hương in năm 1972, trong đó in các bài bút ký của nhà văn, ký giả chiến trường ở miền Nam như Dương Nghiễm Mậu, Đoàn Kế Tường, Huỳnh Văn Phú, Hồng Phúc, Người Xứ Huế, Phạm Văn Bình, Phan Nhật Nam, Phan Huy, Sao Bắc Đẩu, Vũ Hoàng. Họ cũng viết về năm tháng đó. Sách dày 300 trang, có hình ảnh.

    Đã từ lâu

    Tôi không còn nước mắt

    Dù tôi vẩn khóc thầm

    Trên những đồng lương bán mạng

    Trên những nắm cơm lùa vội

    Trên những bước chân súng đạn nặng nề

    Ôi những giọt lệ khô

    Khóc một đời buồn bã

    Đã từ lâu

    Tôi chán ngán cảnh ra đi

    Mà sao vẫn phải tiếp tục lên đường

    [tr. 232 – 234]

    L.M.Q

    XI.2012

     Quảng Trị nằm ở phía bắc kinh thành Huế. Mảnh đất này, do vị trí địa – chính trị nên luôn được nhà Nguyễn, bắt đầu từ Gia Long, đã quan tâm và cho xây thành đắp lũy. Thành cổ Quảng Trị xây theo kiểu Vauban, dạng hình vuông, bốn góc thành có 4 pháo đài canh giữ. Thành có các cửa: Tiền, Hậu Tả, Hữu, xây hình vòm cuốn, trên có vọng lâu. Bên ngoài thành là một hệ thống hào bao quanh, có độ sâu 3,2m, rộng 34,85m. Nội thành có nhiều công trình kiến trúc quan trọng, như hành cung, dinh tuần vũ, dinh án sát, dinh lãnh binh, ty phiên, ty niết, nhà kiểm học,…

    Năm 1885, trên đường ra Tân Sở, vua Hàm Nghi đã dừng lại ở Thành cổ, kêu gọi các tầng lớp nhân dân, đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược.

    Suốt gần 140 năm, kể từ 1809 đến Cách mạng tháng Tám 1945, Thành cổ Quảng Trị là trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa của tỉnh Quảng Trị và là phên dậu phía bắc, bảo vệ kinh đô Phú Xuân.

    Kháng chiến chống Pháp, nhất là kháng chiến chống Mỹ, Quảng Trị được xem là chiến trường dữ dội và khốc liệt nhất Đông Dương, nơi diễn ra nhiều cuộc đụng độ nảy lửa giữa ta và địch. Từ sau 1954, Quảng Trị là cửa tử đối với quân đội Mỹ. Đặc biệt, năm 1972, Thành cổ Quảng Trị với 81 ngày đêm rung chuyển đã để lại dấu ấn khó phai mờ trên nhiều phương  diện, trong đó có văn học nghệ thuật.

    Quảng Trị với những địa danh như sông Bến Hải, cầu Hiền Lương, Đường Chín, Khe Sanh, Cam Lộ, Đông Hà, Ái Tử, Gio Linh, Cồn Tiên, Dốc Miếu, sông Thạch Hãn,… đã tạo nên một dòng sông thơ ca trong văn học hiện đại Việt Nam.

    Con sông Bến Hải, nói như Nguyễn Tuân, sông tuyến đó là giới tuyến của hai bờ Nam – Bắc, hai miền phân ranh suốt 21 năm. Con sông đó đã trở thành biểu tượng của khát khao thống nhất đất nước và đã trở thành niềm thao thức nơi bao trái tim của nhiều văn nghệ sĩ.

    Một ngày về lại cầu Hiền Lương, vẫn cây dương liễu vươn cao, vẫn cây bạch đàn bóng mát, vẫn đồng ruộng sum vầy, vẫn dòng sông chảy ngày đêm không nghỉ, chỉ có con đò cứ bến vắng, không còn lối sang ngang, xúc cảm giữa cảnh ấy, nhà thơ Tế Hanh viết:

    Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị

    Tận chân trời mây núi có chia đâu

    [Nói chuyện với Hiền Lương]

    Hiền Lương, nơi đó có bà mẹ chèo đò, đưa quân sang bên kia vĩ tuyến, đi qua những hố bom, đi qua những hàng cây cháy đen, qua “những nơi bến cũ đường xưa” trong Người mẹ của Nguyễn Đình Thi. Quảng Trị trong thơ Chế Lan Viên là những ngày, những đêm thương nhớ về một nơi sinh ra mình, nơi có mộ mẹ… Nam Hà có bài thơ dài “Chào đường chín anh hùng” nói về con đường của “máu đỏ phu làm đường… đã nhuộm thắm đồi chè, bãi sắn quê hương” và cả “tiếng hát của những người tù đi đày Pha Lan, Lao Bảo, vẫn còn nghe ngân vọng mãi giữa Trường Sơn”. Đường chín của “Ôi Cam Lộ, Gio Linh đói nghèo, ôi rừng thiêng Khe Sanh”, “đất đau thương sẽ là đất anh hùng”. Đó là:

    Con đường của tâm hồn ta,

                                         ta nô nức đi giành cuộc sống

    Con đường của cuộc đời ta,

                                           ta đi giành độc lập tự do

    Con đường của thời đại ta,

                                          ta đi giành hạnh phúc ấm no

    Con đường đi giữa tim ta,…

    Một cách nhìn khác, trong Nước non ngàn dặm, Tố Hữu đã viết:

    Xe lên đường 9 cheo leo

    Hố bom đỏ mắt, trắng đèo bông lau

    Cây khô, chết chẳng nghiêng đầu

    Nghìn tay than cháy rạch màu trời xanh…

    Vẫn là đường Chín, vẫn là con đường đầy những hoa lau trắng nhưng sự dữ dội và hủy hoại của chiến tranh đã khiến những cành cây khô, xương xẩu như hàng nghìn ngón tay, cháy đen thành than, rạch lên bầu trời xanh, vẽ nên một cảnh tượng đầy bi tráng của những ngày rực lửa của chiến trường Quảng Trị. Những câu thơ mang đậm tính tượng hình đã để lại nơi người đọc những ám ảnh khó phai về đường Chín – con đường máu, như cách gọi của số nhà quân sự thế kỷ XX.

    Vũ Ngàn Chi, nhà thơ gắn liền đời mình với chiến trường Trị – Thiên, có tập thơ trữ tình mang tên Đêm Quảng Trị [NXB Văn nghệ Giải phóng, 1975].Tập thơ có 2 phần, phần I. Đất gọi, phần II. Sớm nay về. Những đia danh ghi dưới các bài thơ như: Hải Lăng, Xê-kôi, Hướng Hóa,… cho thấy sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với Quảng Trị anh hùng:

    Đêm Quảng Trị dắt ta vào trận đánh

    Thủ pháo rung rung đầu kíp nụ xòe

    Đêm kỳ diệu quen nhuộm màu đen nhánh

    Đêm nghìn đời đất thánh vẫn trùm che

    Ta nghe đêm nay đôi bờ sông Thạch Hãn

    Rặng mít bên Cùa, dặm cát Phương Lang

    Đêm Quảng trị giục canh gà gọi sáng

    Cờ ta bay đỏ rực lũy tre làng…

    Đọng trong tâm trí nhiều thế hệ, đó là 81 ngày đêm chiến đấu tại Thành cổ, từ 28-6 đến 16-9-1972. Ngày nay, cuộc chiến đã lùi vào quá khứ. Đất nước đã sang trang mới. Màu xanh đã phủ lên những hố bom xưa. Dòng Thạch Hãn đã trong xanh lại. Song, những vần thơ về Thành cổ, về Ngã ba Long Hưng vẫn gợi nên bao bùi ngùi, thương cảm. Số bom ném xuống Quảng Trị khoảng 328 nghìn tấn, tương đương với sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hiroshima, Nhật Bản [1945]. Thị xã Quảng Trị là một đống gạch vụn. Nơi ấy, hàng nghìn người con ưu tú của Tổ quốc, tuổi mười tám đôi mươi đã ngã xuống, nằm lại trên các nẻo đường của Quảng Trị, của Thành cổ:

    Đồng đội tôi nằm lại cả Binh đoàn

    Đội ngũ chỉnh tề hàng ngang hàng dọc

    [Đặng Trung Hội, Viết ở nghĩa trang Trường Sơn]

    Dòng sông Thạch Hãn, nơi bao người chiến sĩ vĩnh viễn không về:

    Đò xuôi Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ

    Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

    Có tuổi hai mươi thành sóng nước

    Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm

    [Lê Bá Dương]

    Nguyễn Đức Mậu, nhà thơ – chiến sĩ, có nhiều bài thơ về Quảng Trị, đó là: Đêm Thành cổ 1972, Tráng khúc Quảng Trị, Hoa lau đường Chín, Ở vùng quê Quảng Trị, Chép lại một chân dung,…Thơ ông chạm khắc chân dung người lính vào những thời điểm thử thách của cuộc đời, đó là cảnh:

    Sau tiếng thét Bường lịm dần rồi tắt

    Tôi gọi hoài tên nó, gọi tàn hơi

    hoặc:

    Mùi tóc cháy, mùi thịt da khét lẹt

    Ngọn gió qua đồi hóa ngọn gió mồ côi

    Khuôn mặt bạn cháy đen, chỉ còn đôi mắt nhìn tôi

    không chịu khép

    Như hai hốc đất sâu, hai vết thủng vòm trời…

    Phạm Đình Lân có bài thơ Tấc đất Cổ thành khá cảm động. Về lại chiến trường xưa, nơi đồng đội yên nằm dưới cỏ, nơi “mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật / Cho hôm nay tôi đến nghẹn ngào”:

    Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió

    Ru mãi bài ca Bất tử đến vô cùng.

    Đoàn Xuân Hòa, người lính chiến đấu tại Quảng Trị, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ghi lại một kỷ niệm cảm động, ngày ấy, giữa khói bom của trận đánh, “Em hát tặng tôi dưới tầm đạn pháo / Dìu dặt lời thương cởi áo cho nhau/ Gương mặt em đánh thức ánh trăng rằm”. Vậy mà, tiếng hát trong trẻo của người con gái tuổi mười tám, em đã không còn nữa trên đời:

    Con chim họa mi ơi

    Sao em không về với rặng tre ngà bên bờ Thạch Hãn

    Bài hát ngày qua hát lại cho mình

    Sao em không về với con đường lợp xanh bóng lá

    In trong chiều kỷ niệm gót chân xinh…

    [Vầng trăng thời gian đi qua]

    Trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi, nơi trang cuối cùng, anh binh nhì Nguyễn Văn Thạc, đã ghi: “Kính chào hậu phương – Chào gia đình, và người tôi yêu. Đêm nay tôi đi-Nhất định có ngày trở về Thủ đô yêu quí của lòng tôi. 3-6-1972 – Ngã ba Đồng Lộc “.

    Không. Không, anh không trở về Hà Nội nữa. Ngày 30-7-1972, anh hy sinh tại Thành cổ Quảng Trị, lúc tròn 20 tuổi. Những gì anh viết trong Lời mẹ dặn, về người mẹ của mình, chỉ là hoài niệm:

    Này buổi sáng tinh sương, mẹ cựa mình thức suốt

    Nổi lửa hồng gọi mặt trời lên…

    Những vần thơ tặng Như Anh như Đêm trắng, Nhớ trường chỉ còn lại là những hồi ức xa xăm.

     Quảng Trị, mảnh đất cằn khô, hạnh phúc khó mỉm cười với con người. Nơi ấy, những ngọn gió Lào thổi suốt cả mùa hạ, thổi suốt một đời, đến nỗi Chế Lan Viên như gào lên:

    Ôi gió Lào ơi!  ngươi đừng thổi nữa

    Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ

    Những đồi sim không đủ quả nuôi người

    Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười…

    [Kết nạp Đảng trên quê mẹ]

    Vậy mà, đó là nơi gửi về bao thương nhớ của những người con tha phương cầu thực. Mỗi khi bão gió, lũ lụt xô về miền Trung, đi qua các làng quê nghèo của Quảng Trị, đều gợi nên nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi nơi những đứa con xa quê. Tạ Nghi Lễ là một hồn thơ như thế.

    Thơ Tạ Nghi Lễ là tiếng lòng của kẻ tha hương phương Nam, đau đáu, dằn vặt, xót xa khi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn. Nhiều bài thơ không nén nỗi cảm xúc, “Có nơi mô như ở quê mình / Bưng bát cơm ăn sao đắng cả lòng / Có nơi mô như ở quê mình / Mẹ đợi con tóc hóa ngàn lau trắng / Có nơi mô như ở quê mình/Khúc ruột thắt giữa hai miền đất nước.[Quê mình]. Quảng Trị trong thơ Tạ Nghi Lễ là khung trời thị xã yên bình, là kỉ niệm làng quê ngày thơ dại, là khói lửa chiến tranh, là món quê hương thèm đến nao lòng, là em cuối chân trời trôi dạt, là tiếng cầu kinh tha thiết, trầm buồn:

    – Chiều thị xã, hương sầu đông thơm ngát

    Tiếng ve khô, cong ngọn gió Nam Lào

    – Tôi chú bé ngày xưa trọ học

    Phượng rụng vai người xao xác mùa thi

    [Về]

    Có một bài thơ được Nguyễn Phú Yên phổ nhạc, Quang Linh hát và nhiều người yêu thich. Bài thơ có tên Chị ơi, sao nghẹn ngào, đau xót đến tận cùng như thế ở trên cuộc đời này ! Người chị ở quê. Tuổi bốn mươi mới in thiệp cưới. Thiệp cưới in xong, chưa kịp gửi về. Cơn lũ lớn đi qua. Khắc nghiệt thay, “Lũ cuốn trôi nhà và chị… chị ơi!”. Thế là hết. Màu trắng của mưa và màu trắng khăn tang:

    Cha cố nuốt nước mắt vào trong,

    không nói nên lời

    Cả nhà phủ một màn mưa trắng

    Mưa trắng trời hay trắng cả con tim?

    Em không về kịp nữa chị ơi!

    Mưa trắng cả một trời Quảng Trị.

    Nhiều bài thơ viết về Quảng Trị của Tạ Nghi Lễ được phổ nhạc, như Quê mình, Nhớ về Quảng Trị, Thị xã tôi về, Quảng Trị trong tôi, Quảng Trị, quê hương tôi,… được các ca sĩ Thu Hiền, Vân Khánh, Quang Linh, Thiên Bảo,Tú Anh,… thể hiện, làm nên một nét riêng, đậm đà, tha thiết, một tiếng lòng với vùng gió Lào cát trắng.

    Quảng Trị, vẫn là nơi tha thiết đi về của bao tâm hồn, vẫn là nơi neo đợi những chờ mong, lưu luyến. Dòng sông thơ về Quảng Trị vẫn ngày đêm chảy giữa đôi bờ thương nhớ!

    HUỲNH VĂN HOA

    Chia sẻ liên kết này…

    --- Bài cũ hơn ---

  • Quảng Trị Mai Linhnhững Bài Thơ Hay Về Quảng Trị 2014 Không Thể Bỏ Lỡ
  • Mời Cảm Tác Qua Ảnh Cây Táo Bằng Thơ
  • Truyện Quả Táo Của Ai?
  • Em Trở Về Đúng Nghĩa Trái Tim Em – Vần Thơ Hay Nhất Của “Tự Hát” Xuân Quỳnh
  • Bài Số 55: Cây Trái Trong Vườn Bác
  • --- Bài mới hơn ---

  • Các Bài Thơ Hát Ru Con Ngủ Hay Nhất Được Tổng Hợp Giúp Các Mẹ Có Thể Dễ Dàng Nâng Niu Giấc Ngủ Cho Bé Yêu Của Mình
  • Mỗi Ngày Một Cuốn Sách Hay Ru Bé Ngủ Ngon Cả Tuần
  • Đàn Bà Và Rượu Vang
  • List Sách Hay Về Rượu Vang
  • Xếp Hạng Stt Hay Về Rượu Nhớ Người Yêu, Thả Thính Trong Cuộc Sống Và Tình Yêu
  • Tuyển tập những bài thơ viết về Quảng Nam quê hương thật hay và cảm xúc từ nhiều tác giả. Thơ ca ngợi quê hương Quảng Nam với những con người chất phát, những cảnh đẹp và địa danh nổi tiếng. Đồng thời là những hoài niệm, nỗi nhớ quê hương Xứ Quảng của người xa xứ.

    Chùm thơ viết về Quảng Nam với lời yêu thương, ca ngợi

    TỈNH QUẢNG NAM – Thơ: Nguyễn Tấn Khoa TỰ HÀO QUẢNG NAM! – Thơ: Chiến Trần

    Chùm thơ nhớ về Quảng Nam với những hoài niệm

    Em là con gái Quảng Nam

    Tha phương đất khách đi làm dâu xa

    Trong tim luôn nhớ quê nhà

    Nhớ trái sim tím nhớ chà là thơm

    Nhớ mùi khói của rạ rơm

    Nhớ cơi trầu nhỏ chiều hôm của bà

    Ước gì em được về nhà

    Hôn lên tóc mẹ năm xa tháng gần [Thu Hường]

    NHỚ QUẢNG NAM – Thơ: Long Nguyễn

    THĂM LẠI QUÊ EM – Thơ Thanh Hội

    Nhân kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng huyện Quế Sơn Quảng Nam [26/3/1975-26/3/2020] * Xã Sơn Trung nay đã đổi tên là Quế Trung

    ** Một thắng cảnh nổi tiếng của Quảng Nam

    Chùm thơ tình Xứ Quảng thật hay và cảm xúc

    CHIỀU HẠ QUẢNG NAM TÔI – Thơ: Tín Huy

    TÌNH ANH QUẢNG NAM – Thơ: Uyên Thịnh

    Trăng ngày xưa bao kỉ niệm bồi hồi

    Tim đất Quảng chung tình thôi trọn kiếp.

    VỀ ANH NHÉ – Thơ: Phương Alen

    VỀ XỨ QUẢNG VỚI ANH – Thơ: Huỳnh Quang Thạch

    EM CÓ VỀ QUẢNG NAM VỚI ANH KHÔNG – Thơ: Ngọc Châu

    Người Quảng Nam bao la tình thương mến

    Ai một lần chợt đến chẳng muốn đi…

    Chùm thơ viết về trai gái Quảng Nam với lời ngợi ca

    GỞI EM XỨ QUẢNG – Thơ: Nghĩa Bùi

    Mong sao giữa chốn đục trong

    Em luôn giữ mãi một lòng trung kiên.

    EM THÍCH LẤY CHỒNG QUẢNG NAM – Thơ vui: Hà Tiên

    EM GÁI QUẢNG – Thơ: Trần Thanh Cẩm

    Tháng bảy mưa ngâu

    tôi về tìm

    qua Chùa Cầu phố Hội.

    Chiếc đèn lồng đu mình trên góc phố rêu xanh

    những con đường ngả bóng cây chạy vòng quanh ôm ghì thành phố.

    Đoàn xích lô nối đuôi nhau ra tận sông Hoài.

    ***

    Em đây rồi!

    người em gái Quảng Nam.

    Em cười hút lòng anh

    chân quê đến lạ lùng

    Làn da ngăm bởi gió ngàn từ biển

    thật thà như lá dâu non.

    Em ngồi bên gánh hàng rong

    để ánh mai hôn làn tóc rối

    khẻ mời

    Ăn tô mỳ quảng anh hỉ?

    Giờ anh ở mô? … Răng không về quê sống?

    Sánh lắm, cay nồng …

    Nghe sùng sục trong lòng như nồi nước lèo đang bốc khói

    Tôi uống những gì đang trông thấy

    muốn ngấu nghiến mảnh tình quê.

    Ôi! Thật hả hê!

    Lần về quê gặp người em xứ Quảng.

    TRAI QUẢNG NAM HAM LÀM CHỊU KHÓ – Thơ vui: Nguyễn Văn Phụng

    Thơ tự sáng tác viết về Quảng Nam mới nhất

    QUẢNG NAM YÊU THƯƠNG – Thơ: Tan Tran

    QUẢNG NAM HỘI NHẬP – Thơ: Ngô Duy Thanh

    KÝ ỨC QUẢNG NAM – Thơ: Võ Văn Lan

    Tặng đồng đội 123A và Z11

    MỘT THOÁNG QUẢNG NAM – Thơ: Nguyễn Nhật

    TIẾNG QUẢNG QUÊ EM – Thơ: Nguyễn Thị Bích Sen

    P/s:Cái ni là mới được đọc thôi,nếu nghe giọng thì còn bá độ hơn

    ĐẶC SẢN QUÊ HƯƠNG QUẢNG NAM – Thơ: Chiến Trần

    --- Bài cũ hơn ---

  • 1001 Bài Thơ Khoán Thủ Viết Về Quảng Nam Quê Hương Thật Là Hay
  • Tuyển Tập Những Bài Thơ Hay Về Quê Hương, Đất Nước Hay Nhất Được Nhiều Độc Giả Yêu Thích
  • Những Vần Thơ Hay Về Ngày Đức Phật Đản Sinh
  • Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Tuyển Chọn Những Bài Thơ Hay Về Tình Bạn Xấu Đặc Sắc Nhất
  • Thơ Hay Về Cuộc Sống Dắt Túi Ngay Những Câu Thơ Hay Về Cuộc Sống
  • --- Bài mới hơn ---

  • Phân Tích Hình Tượng Cây Xà Nu Trong Truyện Ngắn Rừng Xà Nu Của Nguyễn Trung Thành
  • Những Mẩu Chuyện Cười Hay Và Ý Nghĩa
  • Truyện Kể Bác Ba Phi & Những Chuyện “cười Ra Nước Mắt”
  • Một Số Câu Chuyện Về Bác Hồ Với Bộ Đội
  • Khó Nghĩ Chuyện Cười Thời… Covid!
  • Đọc “Người còn sót lại của rừng cười” của Võ Thị Hảo, đã khóc. Thật sự xúc động. Thật sự bi kịch! Những mảnh đời như vậy, phải chăng sẽ chẳng bao giờ có thể sống trọn vẹn?

    Truyện ngắn kể về sáu cô gái trông giữ kho lương trong một khu rừng hoang vắng tiếng người. Thảo là người đến sau, có một ngoại hình đẹp, đặc biệt là mái tóc. Song, dẫu năm cô gái kia tìm đủ mọi cách, tóc của Thảo dần dần cũng chỉ còn là “túm sợi mỏng manh xơ xác”. Thấy các chị buồn, Thảo an ủi và kể về người yêu ở Hà Nội. Các cô từ ấy dường như có chung một lòng si mê với “chàng hoàng tử hòa hiệp thủy chung”, không phải cho mình mà là cho Thảo.Trong một lần, năm cô gái, trừ Thảo, mắc căn bệnh Esteris quái ác- vừa cười vừa khóc vừa xé quần áo- bị ba anh bộ đội trông thấy. Khi họ tỉnh táo lại, kinh hoàng chạy biến vào rừng, đến đêm trở lại chỉ còn một mảnh giấy mỏng .Từ đó, khu rừng mang tên “rừng cười”. Thời gian qua đi, quân địch ngày càng tiến gần hơn, năm cô gái hi sinh thầm lặng, chỉ còn mình Thảo sống sót quay trở về. Nhưng cô không thể hòa hợp với cuộc sống hiện tại,Thành-người cô yêu- cũng dần phai nhạt tình cảm với cô, chỉ vì thương hại mà bên cô. Cuối cùng, cô chọn nói dối để thành toàn cho hạnh phúc của Thành, thứ năm hàng tuần đều tự viết thư gửi cho mình khiến mọi người hiểu lầm cô. Trong đêm thành hôn của Thành, cô vô thức vừa khóc vừa cười, được mọi người đưa vào bệnh viện. Vô tình, mọi người đọc được những lá thư , báo cho Thành biết sự thật. Lúc anh đến, Thảo đã đi rồi.

    “Rừng cười”,tôi đã tưởng rằng là khu rừng của vui vẻ, hạnh phúc, mà hóa ra lại là khu rừng của chiến tranh tàn khốc. Sáu cô gái nhỏ bé, các cô đã sống và chiến đấu oanh liệt, không phải với khói đạn, mà với cô đơn. Để rồi, trong một ngày nọ, căn bệnh quái ác dày vò không chỉ thân xác, mà còn cái lòng trinh bạch của tâm hồn các cô. Đau đớn làm sao! Lòng trinh bạch của những cô gái đã từng đem lòng si mê chàng hoàng tử của Thảo cho Thảo, người chưa gặp một lần. Lòng trinh bạch mất đi, các cô gái như già đi chục tuổi. Tâm hồn thanh thuần của họ, trong sáng của họ, đã trở thành tâm hồn người đàn bà trầm lặng. Rừng cười hóa ra lại là rừng của những con người điên loạn và tàn lụi trong nỗi cô đơn. Để rồi, khi bị giặc đến bắn giết, đáng lẽ được trao huy chương , thì các cô nằm xuống, dùng những mảnh đạn cuối cùng bảo toàn cái vẹn nguyên cho lòng tự trọng. Các cô chết đi, lẳng lặng, trong cái nấm mồ được bàn tay vừa ốm sốt dậy của Thảo đắp cho. Thảo, cô gái đến sau, vẫn còn người yêu ở quê nhà ấy, là người cuối cùng còn sống sót.

    Nhưng sống sót để làm gì? Cô không thể trở lại với cuộc sống hiện tại. Cô sống về quá khứ, về những ngày đau thương và gắn bó của”rừng cười”. Cô bị ám ảnh bởi chết chóc. Và những vết thương để lại trên thân thể và con người cô! Chiến tranh không chỉ tước đi sự sống của những người đã sống, mà thậm chí đau đớn hơn, chiến tranh còn tước đi sự sống của những người đang sống. Tại sao, lại tàn nhẫn như vậy? Bao nhiêu người hi sinh như vậy vẫn chưa đủ cho chiến tranh sao? Tại sao lại có quyền cướp đi tự do và hạnh phúc của những người dân vô tội đang sống như chúng tôi, để thỏa mãn những tham vọng bất chính và vô lí của các người? Thảo, và năm cô gái kia có tội gì chứ? Tội là họ đã hi sinh quá nhiều để rồi chết oan uổng, chết bi thương, chết thầm lặng chăng?

    Khi Thảo đi rồi, Thành, chàng hoàng tử mãi mãi đẹp đẽ trong trí các cô gái của “rừng cười” cũng không thể hạnh phúc trọn vẹn. Sau đêm tân hôn, giữa cái hạnh phúc gia đình đầm ấm vẫn vương một nỗi nhớ “chim yến nhỏ nhoi”. Hạnh phúc dường như mong manh và đông đặc lại hơn.

    Chiến tranh, sao mà tàn nhẫn quá! Những người còn sống, đều không thể vui vẻ, dường như trở thành những kẻ lạc loài giữa hiện thực. Họ không thể hòa nhập với bình yên, khi cuộc đời họ đã in dấu một chặng đường đầy máu, nước mắt, và khói thuốc súng, khi tự họ đã bằng bàn tay mình chôn xuống những người chị em tri kỉ. Chỉ còn mình họ sống sót. Thảo vẫn hay mặc bộ quần áo bộ đội cũ. Đúng vậy, giống như chú Thao của “Miền cỏ hoang”, sống cô độc giữa một vùng cỏ léc cách biệt với đời; giống như người bố trong “Bước qua lời nguyền” đến cuối cùng vẫn không quên được mối thù ngày trước trong cái thời”bần-cố nông” này để mà đày đọa tình yêu của hai con người trẻ tuổi vô tội. Vết thương chiến tranh để lại dường như không thể phai dấu, nó ám ảnh ngăn trở con người về lại với cuộc sống đời thường. Giá như họ biết buông đi đớn đau để làm lại từ đầu, để trân trọng sự sống và tự do mà bao người đã giành lấy cho họ bằng mạng sống, thì phải chăng mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn? Nhưng, làm sao mà quên được đây, khi chiến tranh đã hằn in trên thân thể, đã cứa vào máu thịt con tim?

    Bài viết của bạn Lê Namy – Hội Yêu Sách

    --- Bài cũ hơn ---

  • Người Sót Lại Của Rừng Cười
  • Những Câu Chuyện Cười Ngắn Mà Vui, Stt Hài Bá Đạo Từ Facebook
  • Những Truyện Ngắn Hài Hước Cười Bể Bụng 100% Cười!
  • Truyện Cười Vỡ Bụng, Siêu Hài
  • Chuyện Cười Vỡ Bụng Về Tình Yêu
  • --- Bài mới hơn ---

  • Đề Tài: Thơ “làm Nghề Như Bố”
  • Giáo Án: Thơ Làm Nghề Như Bố
  • Giáo Án: Làm Quen Với Văn Học
  • Đề Tài: Thơ: Làm Nghề Như Bố
  • Nhân Vật Trữ Tình Trong Bài Thơ “lá Diêu Bông” Của Hoàng Cầm
  • Tập đọc: ĐẦM SEN

    – Đọc trơn cả bài. Phát âm đúng: xanh mát,ngan ngát,thanh khiết, dẹt lại.

    – Biết nghỉ hơi đúng ở chỗ có dấu câu.

    – Hiểu nội dung bài: vẻ đẹp của lá, hoa và hương sắc loài sen.

    II/ Đồ dùng dạy học:

    III/ Các hoạt động dạy và học:

    Thứ hai ngày 5 tháng 4 năm 2010 Tục ngữ: Đi một ngày đàng , học một sàng khôn. Tập đọc: ĐẦM SEN I/ Mục tiêu: - Đọc trơn cả bài. Phát âm đúng: xanh mát,ngan ngát,thanh khiết, dẹt lại. - Biết nghỉ hơi đúng ở chỗ có dấu câu. - Hiểu nội dung bài: vẻ đẹp của lá, hoa và hương sắc loài sen. II/ Đồ dùng dạy học: III/ Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1. Bài cũ: 2. Bài mới: a/ Giới thiệu bài: b/ Hướng dẫn luyện đọc: - Đọc mẫu diễn cảm - Luyện đọc tiếng, từ: xanh mát, xoè ra, ngan ngát, thanh khiết, dẹt, thu hoạch [ kết hợp giải nghĩa từ: dài sen, nhị, thanh khiết, thu hoạch ] - Luyện đọc câu : - Luyện đọc đoạn, cả bài c/ Ôn các vần : en, oen * Tìm tiếng trong bài có vần : en * Tìm từ ngoài bài có vần: en, oen d/. Nói câu chứa tiếng có vần : en, oen Nói thành câu là nói đủ ý, trọn nghĩa để người khác nghe và hiểu được Tiết 2: 3/ Tìm hiểu bài đọc và luyện nói: a/ Tìm hiểu bài: - Khi nở hoa sen trông đẹp như thế nào? - Đọc diễn cảm bài văn b/ Luyện nói: về sen 4/ Củng cố- dặn dò: Nhận xét tiết học Về nhà đọc trước bài: Mời vào - 2 HS đọc bài: Vì bây giờ mẹ mới về trả lời câu hỏi 1, 2 - Đọc cá nhân - Nối tiếp nhau đọc từng câu - Từng nhóm [3em] rồi đọc nối tiếp - Cá nhân đọc cả bài - Thi đọc cả bài - Đọc đồng thanh [ nhóm, cả lớp] - Thi tìm nhanh: sen, chen, ven - Từng tổ thi tìm - Cá nhân thi nói câu có vần en hoặc oen - 1 HS đọc cả bài -Cánh hoa đỏ nhạt, xoè ra,phô đài sen và nhị vàng - Đọc câu văn tả hương sen; Hương sen ngan ngát, thanh khiết - 1 HS đọc lại bài - Nhìn tranh, đọc câu mẫu - Nhiều HS nói về sen Toán: PHÉP CỘNG TRONG PHẠM VI 100[ CỘNG KHÔNG NHỚ] I/ Mục tiêu: - Nắm được cách cộng số có 2 chữ số. - Biết đặt tính và làm tính cộng [không nhớ] số có 2 chữ số; vận dụng để giải toán. II/ Đồ dùng dạy học: Que tính III/ Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1.KTBC: 2.Bài mới: 1/ Giới thiệu cách làm tính cộng Phép cộng 35 + 24 - Hướng dẫn thao tác trên que tính - Hướng dẫn kĩ thuật làm tính cộng 35 . 5 cộng 4 bằng 9, viết 9 + . 3 cộng 2 bằng 5, viết 5 24 59 Như vậy 35 + 24 = 59 * Phép cộng : 35 + 20 - HD kĩ thuật làm tính cộng tương tự như trên - Lưu ý đặt 2 thẳng cột với 5 ở cột đơn vị 3/ Thực hành: Bài 1: Viết từng phép tính theo cột dọc lên bảng Bài 2: Yêu cầu đặt tính thẳng hàng thẳng cột rồi tính Bài 3: - Hướng dẫn giải toán Bài 4:[ Dành cho HS khá, giỏi] - Đo độ dài đoạn thẳng 4.Củng cố, dặn dò: - GV đúc kết bài, dặn dò. - Nhận xét lớp. - 2 HS - Thao tác trên que tính theo GV - Nêu lại cách cộng - Thực hiện trên bảng con - Thực hiện trên bảng con - Làm vào vở - Đo các đoạn thẳng trong SGK - Viết độ dài từng đoạn thẳng Thứ ba ngày 6 tháng 4 năm 2010 Chính tả: HOA SEN I/ Mục tiêu: - Nhìn sách hoặc bảng, chép lại chính xác , trình bày đúng bài thơ lục bát Hoa sen 28 chữ trong khoảng 12-15 phút. - Làm đúng các bài tập chính tả: điền vần en hay oen, điền chữ g hay gh - Bài tập 2,3 SGK. II/ Đồ dùng dạy học: - GV chép sẵn bài viết ở bảng " Hoa sen"và nội dung bài tập III/ Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1.Bài cũ: 2. Bài mới: a/ Giới thiệu bài: b/ Hướng dẫn tập chép: - Bảng phụ có bài ca dao - HD viết đúng: trắng, chen, xanh, mùi, bùn - Đọc và chỉ lại từng chữ trên bảng để HS soát lại bài - Chấm một số vở - Chữa một số lỗi phổ biến c/ Hướng dẫn làm bài tập * Điền vần : en hay oen - Treo bảng phụ có bài tập * Điền chữ g hay gh? * Qui tắc chính tả: gh + e, ê, i Từ bài tập b đếnqui tắcchính tả 3/ Củng cố - dặn dò: - Khen ngợi những HS học tốt - Dặn những HS chép chưa đúng , chưa đẹp về nhà chép lại 1 HS đọc cho 2 HS khác viết các từ trong bài tập 2 b . - Nhìn bảng 2 HS đọc - Viết vào bảng con - Tập chép vào vở - Soát lại bài, gạch chân chữ viết sai - Đổi vở, sửa lỗi cho nhau - Ghi số lỗi ra lề vở -1 HS làm trên bảng phụ - Cả lớp làm vở BT - Sửa [ nếu sai] [ bút chì] - 2 nhóm lên bảng thi tiếp sức làm bài - 2 HS nhắc lại qui tắc - Nêu ví dụ Tập viết: TÔ CHỮ HOA: L I/ Mục tiêu: HS tô chữ hoa hoa: L Viết đúng các vần , từ: oan, oat, ngoan ngoãn, đoạt giải. Viết theo kiểu chữ thường, cỡ vừa theo vở TV1- T2 II/ Đồ dùng dạy học: Chữ mẫu III/ Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS A. Bài cũ: Kiểm tra bài viết ở nhà Đọc cho HS viết: hiếu thảo, yêu mến B. Bài mới: 1/ Giới thiệu bài: HD HS tô chữ hoa HD HS nhận xét Vừa nhận xét về số lượng nét và kiểu nét vừa tô vào chữ L [ vừa nói vừa tô vào chữ mẫu] 2/ HD viết vần, từ ngữ ứng dụng oan, oat, ngoan ngoãn, đoạt giải. 3/ HD tập tô, tập viết: Viết mẫu một số vần, từ GV nhắc nhở tư thế ngồi, cách cầm bút - Chấm, chữa bài 4/ Củng cố- dặn dò: - Tuyên dương bài viết đẹp Dặn viết ở nhà: phần B 1 HS viết trên bảng lớp, cả lớp viết bảng con -Quan sát chữ mẫu trên bảng và chữ trong vở tập viết - 2 HS lên bảng tô vào chữ mẫu - Viết bảng con - Viết trên bảng con - Tô chữ hoa trong vở - Viết vần, từ ứng dụng - HS kyas, giỏi viết đủ số dòng quy định. - Bình chọn người viết đúng , viết đẹp nhất Luyện TV: ĐẦM SEN - Luyện đọc: + Đầm sen: Giọng đọc chậm rãi, khoan thai + Mời vào: Giọng vui, tính nghịchvới nhịp thơ ngắn, chậm rãi ở các đoạn đối thoại - Hướng dẫn làm bài tập trong vở BT Toán : LUYỆN TẬP I/Mục tiêu : - Biết làm tính cộng các số trong phạm vi 100 [ không nhớ] Tập đặt tính rồi tính, biết tính nhẩm. II/Đồ dùng dạy học : Tranh III/Các hoạt động dạy và học : Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1. KTBC: 2. Bài mới:- GV giới thiệu bài. * Hướng dẫn HS làm bài tập Bài 1: Hướng dẫn đặt tính rồi tính Bài 2: Yêu cầu tính nhẩm Bài 3: Hướng dẫn giải toán có lời văn Bài 4: Yêu cầu HS: - Dùng thước để xác định độ dài là 8cm - Vẽ đoạn thẳng có độ dài 8cm 4/ Củng cố - dặn dò: - GV hướng dẫn HS chpi trò chơi để củng cố bài. - Nhận xét lớp . - Chuẩn bị bài sau : Luyện tập - 2 HS - Thực hiện trên bảng con - Nêu cách cộng nhẩm: 30 +6 gồm 3 chục và 6 đơn vị Nên 30 + 6 = 36 Nhận biết tính chất giao hoán trong phép cộng qua: 52 + 6 và 6 + 52 - Đọc bài toán Tự nêu tóm tắt - Tự trình bày bài giải vào vở - Vẽ ra vở nháp ****************************** Luyện Toán: PHÉP CỘNG TRONG PHẠM VI 100 1/ Đặt tính rồi tính: 80 + 10 32 + 17 7 + 21 42 + 6 2/ Tính: 34cm + 12cm = 63cm + 10cm = 20cm + 20cm = 16cm + 3cm = 3/ Mẹ hái được 55 quả chanh, chị hái được 43 quả chanh. Hỏi mẹ và chị hái được bao nhiêu quả chanh? Thứ tư ngày 7 tháng 4 năm 2010 Tập đọc: MỜI VÀO I/ Mục tiêu : - Đọc trơn toàn bài. Đọc đúng các từ ngữ có tiếng vùng phương ngữ dễ phát âm sai. Biết đầu biết nghỉ hơi ở cuối mỗi dòng thơ, khổ thơ. - Hiểu nội dung bài: Chủ nhà hiếu khách, niềm nở đón những người bạn tốt đến chơi. - Trả lời câu hỏi 1,2 SGK. - Học thuộc lòng 2 khổ thơ đầu. II/ Đồ dùng dạy học: Tranh III/ Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1. Bài cũ: 2. Bài mới: a/ Giới thiệu bài: b/ H ướng dẫn HS lưyện đọc: Đọc diễn cảm bài thơ Luyện đọc tiếng ,từ: gọi, gạc,soạn sửa, buồm Luyện đọc câu: Luyện đọc đoạn, bài C/ Ôn các vần : ong, oong: . Tìm tiếng trong bài có vần :ong Tìm tiếng ngoài bài có vần: ong, oong Tiết 2 3/Tìm hiểu bài và luyện nói: a/ Tìm hiểu bài: - Những ai đã đến gõ cửa ngôi nhà? - Gió được chủ nhà mời vào để cùng làm gì? b/ Luyện học thuộc lòng bài thơ: [ Phương pháp xoá dần chữ]. c/ Luyện nói: Nói về những con vật mà em yêu thích 5/ Củng cố - dặn dò: Nhận xét, khen ngợi - Dặn vè nhà tiếp tục học thuộc lòng bài thơ, chuẩn bị bài mới: Chú Công - HS đọc bài: Đầm sen và trả lời câu hỏi1,2[ SGK] - Đọc cá nhân - Nối tiếp nhau đọc trơn từng dòng thơ - Nối tiếp nhau đọc từng khổ thơ - Thi đọc cả bài - Nhóm, cả lớp đọc đồng thanh - Thi tìm nhanh, trong - Cá nhân đọc mẫu trong SGK: Chong chóng, xoong canh - Thi tìm - 2 HS đọc bài thơ, +Thỏ, Nai, Gió - 1 HS đọc lại + Soạn sửađón trăng lên, quạt mát thêm hơi biển cả, reo hoa lá, đẩy buồm thuyền - Đọc từng khổ thơ của bài theo vai - Đọc nhẩm từng câu thơ - Thi đọc thuộc từng khổ, đọc thuộc 2 khổ thơ đầu. + Quan sát tranh - Thực hành nói theo mẫu - Nhiều HS thực hành nói Toán: LUYỆN TẬP I/ Mục tiêu: - Biết làm tính cộng[ không nhớ] trong phạm vi 100 - Biết tính nhẩm, Vận dụng để cộng các số đo độ dài. II/Chuẩn bị: Bảng phụ ghi các bài tập III/ Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1. KTBC: - làm BT 1 - Nhận xét, ghi điểm 2. Bài mới:- giới thiệu bài. * Hướng dẫn HS làm bài tập Bài 1: - Lưu ý HS đặt tính theo cột dọc,các số thẳng cột Bài 2: - Gọi HS nêu cách làm mẫu, chú ý viết tên đơn vị cm Bài 3:[ Dành cho HS khá, giỏi] - Hướng dẫn thực hiện ra giấy nháp các phép tính cộng để tìm kết quả, sau đó nối phép tính với kết quả đúng Bài 4: Hướng dẫn giải toán có lời văn - Viết tóm tắt lên bảng 3. Củng cố, dặn dò: - HS chơi trò chpi đrr củng cố bài. - Nhận xét lớp. - Chuẩn bị bài: Phép trừ trong phạm vi 100[ trừ không nhớ]. - 2 HS - Thực hiện trên bảng con - Làm trên bảng con - Làm trên phiếu bài tập - Đọc bài toán: - Nêu tóm tắt - Giải bài toán vào vở Thứ năm ngày 8 tháng năm 2010 Chính tả: MỜI VÀO I/ Mục tiêu: -Nhìn sách hoặc bảng, chép đúng các khổ thơ 1, 2 của bài: Mời vào khoảng 15 phút. - Làm đúng các bài tập: Điền vần: ong hay oong , chữ ng hay ngh vào chỗ trống. - Bài tập 2,3 SGK. II/ Đồ dùng dạy học: GV chép sẵn bài viết ở bảng và nội dung bài tập III/ Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1.Bài cũ : 2. Bài mới: a/ Hướng dẫn tập chép - Hướng dẫn viết đúng: nếu, tai, xem, gạc - HS viết vào vở - Đọc và chỉ vào từng chữ trên bảng phụ để HS soát lại bài - Chấm một số bài - Nhận xét , sửa lỗi 2/ HD làm bài tập a/ Điền vần: ong, oong? - Bảng phụ có nội dung bài tập b/ Điền chữ ng hay ngh? [ Tiến hành như a] c/ Qui tắc chính tả: ngh + e, ê, i [ Từ bài tập b đến qui tắc chính tả] 3/ Củng cố- dặn dò: - Biểu dương những HS học tốt - Nhận xét lớp. - Chuẩn bị bài sau. 1 HS đọc cho 2 HS lên bảng viết Các chữ trong bài tập 2, 3 2 HS nhìn bảng đọc khổ thơ đầu Viết bảng con -Viết bài vào vở Cầm bút chì soát lại bài, nếu chữ nào sai thì gạch chân chữ đó Ghi số lỗi ra lề vở Đọc yêu cầu trong vở BT 1 HS làm trên bảng Cả lớp làm vở BT - 2 HS nhắc lại qui tắc chính tả Nêu ví dụ Tập viết: TÔ CHỮ HOA: M, N I/ Mục tiêu: HS tô chữ hoa hoa: M, N Viết đúng các vần , từ: en, oen, ong, oong, hoa sen, nhoẻn miệng, trong xanh, cải xoong. Viết theo kiểu chữ thường, cỡ vừa theo vở TV1- T2 II/ Đồ dùng dạy học: Chữ mẫu III/ Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS A. Bài cũ: Kiểm tra bài viết ở nhà Đọc cho HS viết: ngoan ngoãn, đoạt giải. B. Bài mới: 1/ Giới thiệu bài: HD HS tô chữ hoa M HD HS nhận xét Vừa nhận xét về số lượng nét và kiểu nét vừa tô vào chữ M [ vừa nói vừa tô vào chữ mẫu] * Hướng dẫn tô chữ hoa N[ tương tự] 2/ HD viết vần, từ ngữ ứng dụng En, oen, hoa sen, nhoẻn miệng, ong, oong, trong xanh, cải xoong. 3/ HD tập tô, tập viết: Viết mẫu một số vần, từ GV nhắc nhở tư thế ngồi, cách cầm bút - Chấm, chữa bài 4/ Củng cố- dặn dò: - Tuyên dương bài viết đẹp Dặn viết ở nhà: phần B 1 HS viết trên bảng lớp, cả lớp viết bảng con -Quan sát chữ mẫu trên bảng và chữ trong vở tập viết - 2 HS lên bảng tô vào chữ mẫu - Viết bảng con - Viết trên bảng con - Tô chữ hoa trong vở - Viết vần, từ ứng dụng - HS kyas, giỏi viết đủ số dòng quy định. - Bình chọn người viết đúng , viết đẹp nhất Toán : PHÉP TRỪ TRONG PHẠM VI 100 A/ Mục tiêu: - Biết đặt tính và làm tính trừ [ không nhớ] số có 2 chữ số. - Biết giải toán có só phép trừ số có 2 chữ số. B/ Hoạt động dạy và học: Hoạt động của thầy Hoạt đông của trò 1. KTBC:- Làm BT 2 - Nhận xét, ghi điểm 2. Bài mới: 1/ Giới thiệu cách làm tính trừ dạng: 65 - 30 - Hướng dẫn thao tác trên que tính - Giới thiệu kĩ thuật làm tính trừ 2/ Trường hợp phép trừ dạng 36 - 4 * Lưu ý khi đặt tính: 4 phải thẳng cột với 6 ở cột đon vị 3/ Thực hành: Bài1: a/ Viết phép trừ theo cột dọclên bảng Bài 2: - Yêu cầu đặt tính rồi tính Bài 3: Tổ chức trò chơi tiếp súc Bài 4:[ Dành cho HS khá, giỏi] Hướng dẫn giải toán có lời văn 3.Củng cố, dặn dò: - HS chơi trò chơi để củng cố bài. - Nhận xét lớp.- Chuẩn bị bài sau. - 2HS - Nhắc lại cách đặt tính, cách tính - Thực hiện trên bảng con - HS thực hiện bảng con - 2 đội tiếp sức thi đua làm bài - Đọc bài toán - nêu tóm tắt: - Tự trình bày bài giải Kể chuyện: NIỀM VUI BẤT NGỜ I/ Mục tiêu:- - Kể lại được một đoạn câu chuyện dựa theo tranh và gợi ý dưới tranh. - Hiểu nội dung câu chuyện:Bác hồ rất yêu thiếu nhi và thiếu nhi cũng rất yêu quý Bác Hồ. II Đồ dùng: III.Các hoạt động dạy và học: Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1. KTBC: 2. Bài mới:- GV giới thệu bài. 1/ GV kể chuyện: GV kể lần 1 GV kể lần 2: Kết hợp với tranh 2/ HD học sinh kể từng đoạn theo tranh Tranh 1: - Vẽ cảnh gì? Các tranh 2, 3, 4: làm tương tự như tranh 1 3/ HD học sinh kể toàn bộ câu chuyện 4/ Giúp HS hiểu ý nghĩa truyện Câu chuyện này cho em biết điều gì? 5/ Củng cố- dặn dò: - GV đúc kết bài. - Nhận xét lớp. - Chuẩn bị bài sau: Sói và Sóc. - 2 HS - Lắng nghe. - Xem tranh, đọc câu hỏi dưới tranh Mỗi tổ cử 1 đại diện thi kể đoạn 1 - Các nhóm phân vai kể - 2 HS giỏi kể toàn bộ câu chuyện Cả lớp bình chọn nhóm kể hay nhất - Bác Hồ rất yêu thiếu nhi và thiếu nhi cũng rất yêu quý Bác Hồ. Luyện Toán: LUYỆN TẬP Luyện tập làm tính cộng trong phạm vi 100 Củng cố về cộng các số đo độ dài 1/ Tính: tính theo cột dọc: 38 + 10, 5 + 40, 42 + 6, 80 + 5, 7 + 61 2/ Tính nhẩm : 40 + 8 = ; 33 + 6 = ; 4 + 50 = ; 80 + 4 = ; 9 + 90 = ; 7 + 30 = ; Hướng dẫn HS làm bài trong vở BT ********************************* Thứ sáu ngày 9 tháng 4 năm 2010 Tập đọc : CHÚ CÔNG I. Mục tiêu: - Đọc trơn cả bài. Đọc đúng các từ ngữ: nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng lánh.Bước đầu biết nghỉ hơi ở chỗ có dấu câu. - Hiểu nội dung bài: Đặc điểm của đuôi công lúc bé và vẻ đẹp của bộ lông công khi trưởng thành. - Trả lời được câu hỏi 1,2 SGK. II / Đ D D H: - Tranh SGK. III. Các hoạt động dạy- học: GV HS 1.KTBC :. ñoïc baøi: "Môøi vaøo" vaø traû lôøi caùc caâu hoûi SGK. 2.Baøi môùi: GV giôùi thieäu tranh, giôùi thieäu baøi Höôùng daãn hoïc sinh luyeän ñoïc: Ñoïc maãu baøi vaên laàn 1 Ñoïc maãu laàn 2 [chæ baûng], ñoïc nhanh hôn laàn 1. Luyeän ñoïc tieáng, töø ngöõ khoù: Naâu gaïch, reû quaït röïc rôõ:, loùng laùnh Luyện đọc câu: Luyeän ñoïc ñoaïn, baøi [chia thaønh 2 ñoaïn ñeå luyeän cho hoïc sinh] Ñoaïn 1: Töø ñaàu ñeán "Reû quaït" Ñoaïn 2: Phaàn coøn laïi. *.OÂn caùc vaàn oc, ooc: Baøi taäp 1: Tìm tieáng trong baøi coù vaàn oc ? Baøi taäp 2: Tìm tieáng ngoaøi baøi coù vaàn oc, ooc ? Giaùo vieân neâu tranh baøi taäp 3: Noùi caâu chöùa tieáng coù mang vaàn oc hoaëc ooc. Tieát 2 *.Tìm hieåu baøi vaø luyeän ñoïc: Luùc môùi chaøo ñôøi chuù coâng coù boä loâng maøu gì, chuù ñaõ bieát laøm ñoäng taùc gì? Ñoïc nhöõng caâu vaên taû veõ ñeïp cuûa ñuoâi coâng troáng sau hai, ba naêm * Luyeän noùi: Haùt baøi haùt veà con coâng. * Luyện đọc lại: 5.Cuûng coá: - GV giúp HS hiểu nội dung bài. - Nhận xét lớp 2 HS ñoïc baøi vaø traû lôøi caâu hoûi: Nhaéc töïa. Laéng nghe. Thaûo luaän nhoùm ruùt töø ngöõ khoù ñoïc, ñaïi dieän nhoùm neâu, caùc nhoùm khaùc boå sung. 5, 6 em ñoïc caùc töø treân baûng. noái tieáp nhau ñoïc töøng caâu HS ñoïc caù nhaân ñoaïn roài toå chöùc thi giöõa caùc nhoùm. - Ñoïc ñoàng thanh caû baøi - HS trả lời. - HS đọc thầm bài và trả lời câu hỏi. - Vài HS đọc lại bài+

    --- Bài cũ hơn ---

  • Soạn Bài Lớp 9: Khúc Hát Ru Những Em Bé Lớn Trên Lưng Mẹ
  • Giáo Án Môn Tiếng Việt 1 Bài: Ò… Ó… O
  • Giáo Án Môn Tự Nhiên Xã Hội 1 Bài 30: Trời Nắng, Trời Mưa
  • Giáo Án Tự Nhiên Xã Hội Lớp 1
  • Bài Giảng Tự Nhiên Xã Hội Lớp 1
  • --- Bài mới hơn ---

  • Gửi Em Chiếc Nón Bài Thơ
  • Về Quê Mẹ, Cảm Nhận Về “quê Mẹ”
  • Bình Giảng Bài Thơ Đất Quê Ta Mênh Mông [Dương Hương Ly]
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Khúc Hát Ru Những Em Bé Lớn Trên Lưng Mẹ Của Nguyễn Khoa Điềm
  • “ta Đi Trọn Kiếp Con Người/ Cũng Không Đi Hết Mấy Lời Mẹ Ru” . Câu Thơ Trên Gợi Cho Em Những Suy Nghĩ Gì Về Tình Mẫu Tử
  • HUỲNH VĂN HOA

    Có thể nói rằng , trong thơ ca hiện đại Việt Nam, ít có nhà thơ nào đưa hình ảnh quê hương vào thơ ca của mình một cách tha thiết, đau đáu như Chế Lan Viên. Suốt nhiều trang viết, cả văn cũng như thơ, đất và người Quảng Trị thường xuyên đi và về trong các sáng tác của Chế Lan Viên, làm nên một không gian nghệ thuật đặc sắc.

    Chế Lan Viên quê ở làng An Xuân, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Song, từ lúc lớn lên, học hành, ông lại gắn bó đặc biệt với Bình Định.Vùng đất của nhiều tháp Chàm đã tạo nên một Điêu tàn, tập thơ ” đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị. Nó dựng lên một thế giới đầy sọ dừa, xương máu, cùng yêu ma… Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỷ hai mươi, nó đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật “ [ Chế Lan Viên, Điêu tàn-Tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, 2002, trang 149, 153 ]. Chỉ từ khi tham gia kháng chiến chống Pháp, dấu chân của ông in đậm suốt cả vùng từ Thanh-Nghệ-Tĩnh đến Bình-Trị-Thiên , nhất là quê mẹ Quảng Trị. Quảng Trị, cả hai cuộc kháng chiến, đều ác liệt và dữ dội. Vùng quê nghèo khổ, lam lũ , gió Lào và cát trắng, hình ảnh mẹ tảo tần khuya sớm với ” đá sỏi, cây cằn ” luôn luôn trở về trong tâm trí nhà thơ:

    Ôi gió Lào ơi ! Ngươi đừng thổi nữa

    Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ Những đồi sim không đủ quả nuôi người Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười Chỉ tiếng gió mù trời chen tiếng súng..

    Quảng Trị, ấy là trại tù Lao Bảo, nơi giam cầm biết bao chiến sĩ cách mạng. Quảng Trị, nơi ” những đồi tranh ăn độc gió Lào “. Quảng Tri, nơi ” con chim bỏ trời quê ta đi xứ khác”, nơi ” đất không nuôi nổi người, người không nuôi nổi đất “.

    Tháng 7-1949, tại Tà Cơn, đường Chín, gần quê nhà, ông được kết nạp vào Đảng. Sau này, bài thơ Kết nạp Đảng trên quê mẹ là lấy từ cảnh và người của quê hương. Bài thơ dài đến 61 dòng, đầy da diết và nhớ thương nặng trĩu , thiêng liêng và xúc động giữa những hình ảnh Quê hương – Mẹ – Đảng lồng vào nhau. Bài thơ có những dòng, những câu nói về mẹ đầy cảm động :

    Từ buổi dạy con lòng thương ghét ban đầu

    Tự quê mẹ nghèo, tự đời mẹ khổ Tự giọt lệ khóc tù đi biệt xứ Tự nắm cơm khô đưa cán bộ thoát làng Tự tiếng thét căm thù vì giặc giã, vua quan… Là tiếng quê hương ấm lành Quảng Trị …

    Trong bài Gửi trạng Thông họ Hoàng, một bài thơ viết cho Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên ghi:

    Quảng Trị vốn là quê mẹ

    Gió Lào râm ran… Tôi khóc oe oe trong gió Lào rách xé…

    Nhiều cơn gió Lào thổi dọc suốt con đường thơ của Chế Lan Viên. Nhiều cảnh đời cơ cực , đói nghèo, ” cuộc sống xưa như nước chảy mất dòng/ Không ai thương như cỏ nội giữa đồng “,…ám ảnh mãi trong nhiều trang viết của Chế Lan Viên. Trước 1945, sự tàn tạ của bao tháp cổ Bình Định trong những chiều thẫm máu hồng, những đêm mờ sương lạnh của dòng sông Linh hư ảo, …đã để lại nơi nhà thơ những dấu ấn siêu hình, những phù chú ngôn ngữ. Sau này, qua bao nẻo đường kháng chiến của Khu Bốn, của chiến trường Trị Thiên, sự gắn bó máu thịt với đất và người của quê hương, nhà thơ càng hiểu và yêu thêm quê mẹ Quảng Trị.

    Trong tuyển tập Thơ văn chọn lọc, do Sở Văn hóa-Thông tin Nghĩa Binh, in năm 1992, Chế Lan Viên đã viết :

    ” Quê cha mẹ tôi ở ngoài Quảng Trị…Cha mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong gió Lào và khoai sắn Bình-Trị-Thiên. Ký ức tôi ngược thời gian , thì nó vẫn đi về qua lại thường xuyên giữa các đồi sim mua Quảng Trị và góc thành Bình Định này. Ngỡ như tính cách tâm hồn và bút pháp thơ tôi đều bắt nguồn từ hai nơi ấy. Tôi làm thơ lúc 12, 13 tuổi ở huyện lỵ An Nhơn . Lủi thủi làm và cũng không ý thức đó là thơ. Ký những cái tên chỉ địa danh ngoài Quảng Trị : Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai”.

    Như vậy đã rõ, sự nghiệp văn chương của Chế Lan Viên có sự thấm đẫm, chuyển hóa và bắt nguồn từ quê hương Quảng Trị. Quảng Trị có khi hiện diện bằng tên đất tên người, có khi lặn sâu vào hình tượng người mẹ khổ nghèo trong các bài văn, bài thơ của Chế Lan Viên .

    Bài thơ dài 10 khổ, theo thể thơ 5 chữ, có tên Quê mẹ thật cảm động . Bài thơ như một tổng kết của những chặng đường kháng chiến, gắn liền với quê hương, với mẹ. Bao kỉ niệm đầy cảm động của ” ngày con đi kháng chiến” :

    Đất cát lại gió Lào Vẫn mít và sắn ấy Đây quê mẹ rồi sao Bước chân con dừng lại Nhớ ngày con ra đi Chim trong vườn gáy mãi…

    Người mẹ ấy, mỗi lần ra vườn hái lá, nấu bát canh, lại nhớ đến con . Ngày con ra đi, ” mẹ bảo đùm ớt theo / mua gì giờ cũng hiếm” . Nơi xa, người con nhớ về căn nhà tranh gió thốc vào mỗi khi gió Lào , gió nam ào ào thổi qua . Những rặng tre gầy guộc những vườn sắn lao xao, lưng mẹ còng theo năm tháng …trở thành những hình ảnh khó quên trong thơ Chế Lan Viên.

    Ngũ tuyệt về mẹ cũng là một bài thơ viết theo kiểu như thế. Hình ảnh của bờ sông ngày mẹ tiễn con đi.Tiếng súng nổ qua hai mươi năm trời vẫn còn âm vọng.. Ngỡ như mới hôm nào , ” giã mẹ ra đi kháng chiến bốn phương trời ” vậy mà, chao ôi, mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm xa mẹ. ” 1972 Quảng Trị giải phóng , tôi về thăm quê mẹ.. Đường vào phần mộ mẹ tôi đầy mìn, nên tôi đành chịu, quay vào làng, tìm những người thân “ [ Nghĩ cạnh dòng thơ, NXB Văn học, Hà Nôi, 1981, trang 279 ] .

    Trong tập thơ Hoa trên đá [ NXB Văn học , Hà Nội 1984 ], Chế Lan Viên viết bài thơ Mồ mẹ :

    Nấm mộ rìa làng. Mẹ đấy chăng ? Một đời xa mẹ mới về thăm Nhớ bên đồn địch, con rời mẹ Nay đốt tuần hương chỗ mẹ nằm.

    Quảng Trị bạt ngàn những rừng lau trắng, nhất là đường lên Lao Bảo. Hoa lau đường 9 , con đường gắn với chiến công và máu. Đó là , ” hoa lau đường máu “, như cách gọi của ông.

    Trắng hoa lau như một màu tang: Giá được màu hoa tím/ Hẳn hồn nhẹ đau hơn.

    Chế Lan Viên là nhà thơ yêu quê hương Quảng Trị của mình bằng tất cả sự rung động tế vi của một tâm hồn nghệ sĩ, trở thành một trong những nhà thơ hiện đại Việt Nam gắn bó máu thịt với vùng gió Lào cát trắng, cằn khô nhưng thắm thiết nghĩa tình này.

    Đà Nẵng, tháng 12 năm 2009

    HUỲNH VĂN HOA

    Mục Đồng @ 04:59 10/07/2010

    Số lượt xem: 6266

    --- Bài cũ hơn ---

  • Bao Quang Tri : Nơi Để Nhớ Về Chế Lan Viên
  • Ám Ảnh Màu Khăn Tang Trắng Của 3 Bé Thơ Khi Bố Chết Vì Tai Nạn, Mẹ Mất Bởi Bệnh Ung Thư
  • Lời Bài Hát Xin Đừng Làm Mẹ Khóc
  • Cảm Nghĩ Về Người Mẹ Của Em
  • Giáo Án Ngữ Văn 7
  • --- Bài mới hơn ---

  • Huỳnh Văn Hoa: Quảng Trị
  • Báo Khánh Hòa Điện Tử
  • “Con Cóc” Là Một Bài Thơ Hay?
  • Thơ Ca Về Nghề Tằm
  • Chuyên Trang Của Báo Kinh Tế & Đô Thị
  • Mời bạn về thăm Quảng Trị tôi

    Hiền Lương xanh thẳm một chiếc nôi

    Ghi lòng gan dạ, lời chung thủy

    Xưa cắt hai ngả giờ một nơi

    Bạn ơi ! Hãy về thăm quê tôi

    Cồn Tiên, Dốc Miếu lửa rực trời

    Chiến tranh thiêu rụi từng ngọn cỏ

    Giờ đỏ tươi màu, xanh nơi nơi

    Thạch Hãn anh hùng đó bạn ơi

    Trong lòng sông nước nghĩa đầy vơi

    Các anh nằm xuống đời con trẻ

    Đất nước yên bình lệ tuôn rơi

    Vĩnh Mốc địa đạo gần biển khơi

    Đón bao đoàn khách đến thăm chơi

    Sáng ngời tình nghĩa người với đất

    Ngôi nhà oanh liệt tránh đạn rơi

    Bạn ơi ! Xin bạn chớ hợt hời

    Thành Cổ hiên ngang đẹp cho đời

    Tám mốt ngày đêm thêm nước mắt

    Xương máu xây thành nay dạo chơi

    Nếu bạn về đây ghé những nơi

    Anh hùng liệt sỹ ấm quê tôi

    Trường Sơn, Đường Chín khắc trong dạ

    Ai lạ, ai quen cũng một nơi

    Dạo bước về với chốn thảnh thơi

    Cửa Tùng, Cửa Việt đẹp tuyệt vời

    Bạn vượt biển xa ra Cồn Cỏ

    Đảo nhỏ quê mình chốn nghĩ ngơi…

    Từ trên núi đẹp xuống biển khơi

    Đậm nghĩa anh hùng Quảng Trị tôi

    Bạn ơi ! Nhớ về thăm Quảng Trị

    Hương vị ngọt ngào mãi không vơi !

    [Quảng Trị trong tôi – Lê Thị Xuân]

    Những bài thơ hay về Quảng Trị mới nhất – 2

    Anh sẽ về Quảng Trị quê ta

    Dẫu không phải sinh ra từ đó

    Tuổi hai mươi đã một thời gian khó

    Cảnh đói, nghèo, đạn nổ bom rơi

    Nhớ quê mình anh sẽ phải về thôi

    Nhớ biển xanh, nhớ con thuyền, bến cá

    Nhớ cánh buồm xa khơi lộng gió

    Nhớ bạt ngàn cát trắng, dương xanh

    Em có về Quảng Trị cùng anh

    Đến Vĩnh Linh tiêu chè xanh bát ngát

    Ra Cửa Tùng sẽ cùng nhau tắm mát

    Ngắm chiếc cầu mới bắc qua sông

    Đến nơi này em thấy có tuyệt không

    Cảng Cửa Việt xưa nhấn chìm tàu Mĩ

    Mà hôm nay đông vui như thành thị

    Bãi tắm dài san sát những HoTel

    Anh sẽ về Quảng Trị cùng em

    Qua Triệu Phong ghé vào thăm Thành Cổ

    Thắp nén nhang cho người nằm dưới cỏ

    Đứng lặng nhìn, nước mắt ngỡ trời mưa

    Thạch Hãn giờ dòng chảy vẫn như xưa

    Hỏi bạn tôi có còn nguyên đáy nước

    Thả nến, thả hoa có ai nhận được

    Vết đạn bom thù nhức nhối con tim

    Về Đông Hà, đến thị trấn Gio Linh

    Ngẫm tương lai dáng đi thành phố mới

    Cầu Hiền Lương bốn mùa nghe gió thổi

    Vẫn thì thầm lời sóng gọi bên tai

    Anh sẽ về Quảng Trị cùng em

    Ăn mắm ruốc, nấu cơm khoai lẫn đỗ

    Biển và cát ngàn đời nay còn đó

    Khắc ghi chiến tích những ngày đã qua

    Một vùng thắm sắc cỏ hoa

    Vượt qua gian khổ, quê nhà đổi thay.

    Dòng sông trong vắt nơi đây

    Bao hồn liệt sĩ những ngày chưa xa

    “Mùa hè đỏ lửa” đi qua

    Tên “Thành Cổ” hát bài ca “Thành Đồng”

    Nghẹn ngào vục nước dòng sông

    Nghe như máu chảy ròng ròng kẽ tay!

    Nhẹ chân Thành Cổ hôm nay

    Xa quê mình Quảng Trị

    Mà triền miên

    Thao thức nỗi nhớ quê…

    Mảnh đất nghèo bên nớ bên ni

    Ru các anh.. vỗ về… yên giấc ngủ

    Thạch Hãn, Cổ Thành 81 ngày đêm lửa đỏ

    Ai ngang qua không ngả mũ cúi đầu…

    Đã qua rồi…

    Anh ở bên ni Hiền Lương đêm mong ngày đợi

    Em ở bên tê Bến Hải ngày đợi đêm trông

    Hai ta chung tắm một dòng

    Nước sông kia mát rượi … đôi lòng nóng ran…

    Tháng 7 sẽ nhiều hơn các đoàn đến thăm

    Về nghĩa trang Trường Sơn, Cổ thành Quảng Trị

    Thắp nén hương thơm viếng các anh hùng, liệt sĩ

    Gạt nước mắt vào trong để nhìn kỹ những dòng tên…

    Ơi quê mình chẳng thể nào quên

    Đất thép Vĩnh Linh … mẹ nuôi con trong lòng đất

    Bát nước chè xanh nặng tình người chân chất

    Quảng Trị mình giàu nhất những nghĩa trang…

    “Có nơi mô như ở quê mình

    Nên ai đi xa cũng hoài nỗi nhớ”

    Tên núi tên sông , đồi cây, ngọn cỏ

    Máu các chị các anh nhuộm đỏ đất này

    Trời vẫn xanh cao, đất vẫn dày

    Sống mặt tiền, chết cũng mặt tiền đấy

    Hãy dâng lên… những bông hoa vừa hái

    Và nghĩ nhiều đến nấm mộ vô danh..!

    [Tháng 7 Quê mình – Thanh Bình]

    Chùm thơ vui hay nhất về Quảng Trị – 5

    LỜI QUÊ

    Tác giả: Hồ Vi

    Mấy bửa ni rồi trời thiếu nắng

    Chừng chưa bưa lụt nước còn cao

    Khi hôm bộ đội hành quân tới

    Trấn thủ dầm phơi chật cả sào

    Mạ mi đem dủi ra ngoài rọng

    Kiếm ít đam cua ít của đồng

    Thêm đôi ba miếng anh em đỡ

    Của nhà quê kiểng buổi thu đông

    Bớ anh nội vụ khoan đi chợ

    Xa ngái đàng trơn bấm cực chân

    Xuồng bên chị Mót buôn tơi nón

    Anh nhảy mà đi được đỡ chừng

    Thương anh nỏ có, cầu anh mạnh

    Anh nện thằng Tây bể sọ dừa

    Thương anh cơ khổ mà nghèo quá

    Áo rơm lót ổ lạnh lùng khuya

    CÓ BUI KHÔÔNG?

    Tác giả: Văn Quang

    Khoeng tay, tréo cẳng, ả dòm ôông

    Mặt mụi tra khằng nỏ chộ dôông

    Tắn cắm sích mui còn méo miẹng

    Ròi bu ngá trôốc lại quào môông

    Bẻ bù lọi cuống hư diều trấy

    Dổ má đích cơn ngoẻo bộn vôồng

    Mệ mắng, de neng cười hả hả

    Eng coi dư ả có bui khôông?

    THƠ GIỌNG QUẢNG TRỊ

    Tác giả: Văn Viết Đế [Họa lại bài thơ vui tiếng Quảng Trị của ông Hoàng Hữu Nhất Nguyên]

    Phận tui xui rủi lấy lầm ôông

    Biết rứa chẳng thèm cấy với dôông

    Ăn uống nỏ hề cơm thịt cá

    Áo quần vài bộ vá vai môông

    Dà cựa mọt ăn kêu cọt kẹt

    Ngoài cươi mối dũi chạy từng vôồng

    Sòn sòn năm một con chục đứa

    Cực rứa trời cao có thấu khôông?

    THƠ VUI GIỌNG QUẢNG TRỊ

    Tác giả: Phan Văn Lộc [Họa lại bài thơ vui tiếng Quảng Trị của ông Hoàng Hữu Nhất Nguyên]

    Môốc trọ hết rồi ơi mấy ôông

    Răng còn cấy cấy với dôông dôông

    Thịt thà lép kép mồm som sém

    Neeng cỏ lung lay nỏ dám môông

    Ngá mẹng xúm chắc moi bớ hớ

    Coi chừng má bị chảy thành vôồng

    Mấy o Hoàng NGuyễn về tra tội

    Thì cứ một mạch nói nói khôông

    TIẾNG QUÊ

    Tác giả: Xuân Yên

    “Eng đi mô rứa” tiếng quê sơ

    “Ngoài nớ, trong ni” – chẳng bỏ “mô”

    Khi gặp tiếng chào nghe mát rọt

    Lúc cười giọng nói thoảng hương thơ!

    Vầng trăng Quảng Trị thời vang bóng

    Bằng hữu Sài Thành dạ ngóng thư

    Ô – Rí hai châu ngời sử sách

    Đậm tình luân lý thuở hoang sơ.

    RĂNG NỎ VỀ QUẢNG TRỊ

    Tác giả: Võ Mẹo

    Eng nhớ về thăm mấy đứa ni

    Tàu xe cũng dễ, khó khăn chi

    Bon bon mấy chốc mơ màng ngủ

    Dừng lại dăm lần tiếp tục đi

    Dà cửa đầu đây nóc đỏ thắm

    Roọng vườn bát ngát ló xanh rì

    Bạn bè xa ngái về thăm lại

    --- Bài cũ hơn ---

  • Mời Cảm Tác Qua Ảnh Cây Táo Bằng Thơ
  • Truyện Quả Táo Của Ai?
  • Em Trở Về Đúng Nghĩa Trái Tim Em – Vần Thơ Hay Nhất Của “Tự Hát” Xuân Quỳnh
  • Bài Số 55: Cây Trái Trong Vườn Bác
  • Tập Thơ Trái Tim Hồng Của Nguyễn Duy Đồng
  • --- Bài mới hơn ---

  • Bài Học “xương Máu” Rút Ra Từ Truyện Tấm Cám, Tây Du Ký, Tam Quốc
  • Nghe Kể Chuyện Cổ Tích Thế Giới
  • Các Truyện Cười Cổ Tích Mang Lại Cho Bạn Niềm Vui Cả Ngày
  • Chó Đá Biết Cười
  • Truyện Cổ Tích Thế Giới, Kho Tàng Truyện Cổ Tích Hay Nhất Trên Thế Giới
  • TRIẾT LÝ Ở HIỀN GẶP LÀNH VÀ ƯỚC MƠ CÔNG LÝ CỦA NHÂN DÂN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

                                                                                                    Lương Thị Tố Uyên

                                                                                                    Khoa Xã hội

    Trước hết, đây là niềm tin và mơ ước của nhân dân. Nó chi phối toàn bộ sự xây dựng và phát triển của các nhân vật chính diện, phản diện và lực lượng thần kì ở trong truyện cổ tích.

    Đối với các nhân vật chính diện [Thạch Sanh, cô Tấm, người em trong truyện Cây Khế…] tác giả dân gian không chỉ dừng lại ở sự phản ánh và cảm thông đối với những đau khổ, đắng cay, oan ức của họ mà còn đặc biệt quan tâm, tìm cách, tìm đường giải thoát cho họ để họ được đền bù xứng đáng. Nhờ vậy mà nhiều nhân vật chính diện trong truyện cổ tích đã được đổi đời, được đền bù thích đáng làm cho cả người kể lẫn người nghe đều hả hê, sung sướng [Sọ Dừa thi đổ trạng nguyên và lấy được con gái phú ông, Tấm trở thành hoàng hậu, Thạch Sanh lấy công chúa và lên làm vua…].

    Đối với các nhân vật phản diện [Lí Thông, mẹ con nhà Cám, người anh tham lam trong truyện Cây Khế…] thì tác giả dân gian không chỉ phản ánh, tố cáo, lên án sự tham lam, ích kỉ. độc ác, dã man của chúng mà còn tìm cách loại trừ, tiêu diệt chúng để cho những người lương thiện được sống yên vui. Vì thế hầu hết các nhân vạt phản diện trong truyện cổ tích đều dẫn đến kết cục bi thảm và bị trừng phạt thích đáng. Mức độ và hình thức thưởng phạt đối với các nhân vật chính diện và phản diện ở trong truyện cổ tích Việt được thực hiện có phân biệt, tương xứng với tài đức, tội trạng của từng nhân vật. Cô Tấm đẹp người, đẹp nết, chịu thương chịu khó, chịu nhiều thiệt thòi, được lấy vua trở thành hoàng hậu. Thạch Sanh có tài năng, mức độ, có nhiều công tích được lấy công chúa làm vua, Sọ Dừa thì đổ trạng. Người em [trong truyện Cây Khế] là người nghèo khổ, hiền lành, thật thà nhưng không có tài năng, công tích gì đặc biệt nên chỉ được Chim thần cho vàng [vừa đầy chiếc túi “ba gang”] để trở thành giàu có mà thôi. Đối với các nhân vật phản diện, sự trừng phạt cũng có sự phân biệt rỏ rệt. Lí Thông tham tài, tham sắc, tham danh vọng, địa vị, vong ân bội nghĩa, lợi dụng, lùa gạt, cướp công và hãm hại Thạch Sanh thì bị trời đánh hoá thành kiếp bọ hung, đời đời chui rúc nơi hôi hám. Người Anh [trong truyện Cây khế] ích kỉ, tham lam thì Chim thần cũng chỉ “chiều” theo tham vọng của hắn để cho hắn phải tự chuốc lấy cái chết nhục nhã mà thôi. Còn ở truyện Tám Cám thì sự trừng phạt nhân vật phản diện có phần đặc biệt so với nhiều truyện cổ tích khác. Và đây là một trong những chổ có vấn đề đã từng gây ra sự tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu. Người thì cho Tấm trừng trị mẹ con nhà Cám như thế là phải, là thích đáng. Người thì cho cách trả thù của Tấm  [giết Cám bằng nước sôi, rồi muối thành mắm…] như thế là quá quắt, trái với bản tính hiền lành vốn có của Tấm và cũng trái với truyền thống khoan dung, rộng lượng của dân tộc. Do đó có người đã đề nghị không nên đưa truyện Tấm Cám vào chương trình văn học dân gian trường phổ thông.

    Quả thực cách trả thù của Tấm đối với mẹ con nhà Cám là rất đặc biệt, khác với thông lệ của truyện cổ tích. Thông thưòng trong truyện cổ tích, các nhân vật chính diện ít khi trực tiếp trả thù các nhân vật phản diện. Thạch Sanh hoàn toàn tha bổng cho mẹ con Lí Thông; người em trong truyện cây khế không hề phàn nàn, oán trách người anh tham lam; Sọ Dừa và vợ chàng cũng không hề đả động gì đến tội trạng của hai người chị gái [con phú ông]… việc trừng phạt các nhân vật phản diện trong truyện cổ tích phần lớn là do các lực lượng thần kì [Trời, Phật, Thần linh…] thực hiện, hoặc do bản thân các nhân vật tự chuốc lấy. Trái lại, ở truyện Tấm Cám, các tác giả dân gian đã để cho Tấm trực tiếp trả thù và trả thù một cách quyết liệt, dữ dội đối với mẹ con nhà Cám khiến cho tính cách của Tấm phát triển thành hai phần, hai giai đoạn khác nhau và đối lập nhau rõ rệt. Giai đoạn đầu khi còn sống [lúc còn ở nhà với dì ghẻ và Cám cũng như khi đã vào cung vua làm hoàng hậu] Tấm rất hiền lành, chịu thương, chịu khó, thậm chí rất yếu đuối [chỉ biết khóc mỗi khi gặp khó khăn] và nhẹ dạ, cả tin [nên bị Cám cướp giật liên tiếp: cướp giỏ cá, cướp quyêng đi trảy hội, cướp chồng…]. Nhưng sau khi bị giết, trải qua nhiều kiếp [kiếp người, kiếp chim, kiếp xoan đào, kiếp khung cửi, kiếp thị] và trở lại làm người thì Tấm trở thành một người khác hẳn: đáo để, kiên quyết, chỉ tên vạch mặt kẻ thù đến nơi đến chốn và trừng trị chúng một cách không thương tiếc. Ở đây có sự kết hợp, hoà trộn giữa niềm tin và triết lí truyền thống “ở hiền gặp lành” của nhân dân và thuyết luân hồi, quả báo [“thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”] của đạo Phật. Vì thế mà có hai cô Tấm khác nhau rõ rệt. Cô Tấm thứ nhất [từ đầu cho đến khi trở thành hoàng hậu] về cơ bản đồng dạng với các nhân vật chính diện khác của truyện cổ tích [cuộc đời cũng gồm hai phần:  phần hiện thực và phần ước mơ, phần tối tăm và phần tươi sáng]. Cô Tấm thứ hai [từ khi trèo cau bị giết cho đến khi trở lại làm người trải qua nhiều kiếp khác nhau] chủ yếu là nhân vật của sự trả thù, báo ứng, không còn là nhân vật phổ biến, thông thường trong cổ tích nữa. Và đây chính là chỗ đặc biệt trong truyện Tấm Cám so với các truyện cổ tích khác. Với mức độ khác nhau, cả hai cô Tấm ấy đều phù hợp với triết lí “ở hiền gặp lành” và ước mơ công lí của nhân dân. Việc xây dựng cô Tấm thứ hai [hay giai đoạn thứ hai của nhân vật Tấm] cho thấy tác giả dân gian của truyện này có cái nhìn hiện thực xã hội rất sâu sắc và sự phản ánh ước mơ công lí của nhân dân rất triệt để.

    Tác giả không bằng lòng kết thúc truyện một cách “có hậu” ở việc Tấm lấy được vua và trở thành hoàng hậu [mặc dù truyện đến đây đã khá dài và có đầy đủ các bước phát triển như nhiều truyện cổ tích thần kỳ khác].

    Sự kiện bà hoàng hậu Tấm về nhà làm giỗ cha và bị mẹ con nhà Cám giết chết mở đầu cho phần thứ hai của truyện Tấm Cám, phản ánh sâu sắc và triệt để hơn xung đột quyền lợi trong xã hội phong kiến và khát vọng chính nghĩa thắng gian tà của nhân dân. Với phần thứ nhất truyện Tấm Cám chỉ mới nói được vấn đề “người hiền” có thể và cần phải được “gặp lành”. Với phần thứ hai, tác giả mới nói được rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn kinh nghiệm và lí tưởng sống của mình là: “người hiền” không dễ gì sống yên ổn với “điều lành” khi “kẻ ác” còn tồn tại, chưa bị loại bỏ.

    Nếu như ở phần thứ nhất kẻ cướp công của Tấm là Cám thì ở phần thứ hai, sự căm phẫn và trả thù của Tấm cũng chủ yếu hướng vào nhân vật Cám.

    Sẽ là một thiếu sót đáng kể nếu không nói đến các nhân vật thần kì, siêu nhiên, khi bàn về triết lí “ở hiền gặp lành” và ước mơ công lí của nhân dân ở trong truyện cổ tích.

    Khi khát vọng công lí và niềm tin “ở hiền gặp lành” chưa có điều kiện để thực hiện được nhiều trong đời sống thực tế, tác giả truyện cổ tích đã dùng các nhân vật thần kì, siêu nhiên để thực hiện ở trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng.

    Lực lượng thần kì, siêu nhiên ở trong truyện cổ tích Việt rất phong phú, đa dạng, bao gồm các nhân vật thần kì [như Tiên, Bụt, Thần linh, Diêm Vương], các con vật siêu nhiên [như Trăn Thần, Rắn Thần, Têy Tinh, Hồ Tinh…], các vật thiêng có phép lạ [như gậy Thần, Đàn Thần, Cung Thần, Niêu cơm Thần, chiếc áo tàng hình…].

    Lực lượng nảy sinh ra từ nhiều nguồn gốc khác nhau, như quan niệm thần linh trong thần thoại, sự tín ngưỡng của nhân dân, ảnh hưởng của các tôn giáo [đạo Phật, đạo Lão…], nhưng đã được nhào nặn lại theo quan niệm và lí tưởng thẩm mĩ của tác giả truyện cổ tích. Vì thế lực lượng thần kì trong cổ tích không giống với các vị thần trong thần thoại và các tôn giáo đã sản sinh ra chúng. Lực lượng thần kì trong truyện cổ tích không phải là hiện thân của các lực lượng tự nhiên như các vị thần [Thần Mưa, Thần Gió…] trong thần thoại mà ít nhiều đều mang tính xã hội, tính giai cấp. Tiên, Phật [hay Bụt] trong truyện cổ tích chỉ giúp những người nghèo khổ, lương thiện [như Tấm, Thạch Sanh…] chứ không giúp kể ác [như Cám, Lí Thông…]. Có khi nhân vật thần kì tỏ ra vô tư, trung lập, không thiên vị, nhưng cuối cùng vẫn gây ra những tác dụng ngược nhau đối với nhân vật chính diện và phản diện. Chẳng hạn con Chim thần trong truyện Cây khế đã nói với người em và người anh một câu như nhau [“Ăn một quả trả cục vàng – May túi ba gang mang đi mà đựng”] và đã đưa cả người anh lẫn người em đến đảo vàng ngoài biển xa. Nhưng sức Chim thần có giới hạn, nên không mang nỗi số vàng quá nhiều của người anh tham lam, khiến cho y pahỉ mất mạng. Cây đàn thần [trong truyện thạch Sanh] cũng chỉ phát huy được tác dụng kì diệu khi vào tay Thạch Sanh mà thôi [vua Thuỷ Tề có cây đàn thần mà vẫn phải chịu bó tay để cho yêu quái bắt Thái tử nhốt trong cũi sắt].

    Phần lớn các lực lượng thần kì trong truyện cổ tích đều chỉ xuất hiện khi nhân vật chính diện gặp tai nạn, bế tắc, cần sự giúp đỡ. Nhưng cũng có khi bản thân nhân vật chính diện mang trong mình yếu tố thần kì [ví dụ Thạch Sanh, Sọ Dừa, người vợ Cóc trong truyện lấy vợ Cóc], Thạch Sanh là người nhưng có nguồn gốc siêu nhiên [là thái tử con Ngọc Hoàng, đàu thai vào nhà họ Thạch, năm 13 tuổi đã được Tiên ông dạy cho các phép võ nghệ thần thông]. Sọ Dừa cũng có nguồn gốc phi thường [ẩn trong lốt sọ xấu xí, đáng sợ nhưng vốn là “người trời”, tài giỏi và chỉ một mình cô con út của phú ông sớm nhận ra điều kì diệu đó].

    Thạch Sanh đã hoạt động trong một không gian rất rộng, bao gồm bốn cõi [từ”cõi trời” đầu thai vào nhà họ Thạch làm người hạ giới, rồi từ cõi trần, xuống hang động, từ hang động xuống thuỷ cung và cuối cùng mới trở lại trần gian].

    Số lượng nhân vật trong truyện Thạch Sanh rất đông [trên 20 nhân vật và vật thần kì khác nhau], được phân làm hai tuyến [chính diện và phản diện]. Ở mỗi tuyến đều có nhân vật là người và nhân vật siêu nhiên, kì ảo. Tuyến chính diện gồm các nhân vật là người [Thạch Sanh, công chúa, vua [cha của công chúa] và cha mẹ Thạch Sanh]. Các nhân vật siêu nhiên [Ngọc Hoàng, Tiên Ông, vua Thuỷ Tề, Thái tử con vua Thuỷ Tề] và các nhân vật thần kì [Cung thần, Đàn thần, Niêu cơm thần]. Tuyến nhân vật phản diện cũng bao gồm các nhân vật là người [Lí Thông, mẹ Lí Thông, Quân 18 nước chư hầu] và các quái vật thần kì [Trăn Tinh, Đại Bàng, Hồ TInh].

    Thạch Sanh là nhân vật có nguồn góc siêu nhiên, là “con trời” nhưng đã đầu thai vào nhà họ Thạch và được trần gian hoá, xã hội hoá hoàn toàn [có cha mẹ, quê hương, có một cuộc đời phong phú với nhiều thân phận, công việc và kì tích khác nhau: trẻ mồ côi, người tiều phu, người ở dưới hình thức em nuôi, dũng sĩ diệt trừ yêu quái cứu người…].

          Có thể nói Thạch Sanh là con người đẹp nhất, phong phú và hoàn hảo nhất trong những nhân vật chính diện mà truyện cổ tích Việt Nam đã xây dựng.

                                                                                                    Đông Hà, tháng 4/2013

    --- Bài cũ hơn ---

  • Truyện Cổ Tích Tấm Cám Dưới Góc Nhìn Của Thi Pháp Học
  • Giáo Án Đọc Văn Tấm Cám
  • Nghệ Thuật Và Nội Dung Truyện Cổ Tích Tấm Cám
  • Mẹ Kể Bé Nghe:truyện Cổ Tích Tấm Cám
  • Văn Lớp 10: Tóm Tắt Truyện Tấm Cám Ngắn Gọn Hay Nhất
  • --- Bài mới hơn ---

  • Bài Thơ “quảng Nam” Trị Giá 700 Triệu Của Hoài Linh Được Phổ Nhạc
  • Quang Dũng Và Những Bài Thơ Bị Đốt
  • Câu Nói Hay Ở Sapa
  • Những Câu Thơ Thả Thính Hay Và Ngắn Gọn Nhất” Nghe Xong Yêu Liền” !!!
  • Khám Phá Chùm Thơ Hay Về Trà Độc Đáo
  • [QBĐT] – Nhà thơ Huy Cận trong bài Ca ngợi người phụ nữ Việt Nam đã viết: “Chèo mẹ Suốt vang sông, chị Khíu giành lại biển/ Gái Quảng Bình khí phách đọ Trường Sơn” để ca ngợi những tấm gương lao động và chiến đấu quên mình của phụ nữ Quảng Bình trong những năm tháng kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược.

    Đó là những câu thơ làm náo nức trái tim nhiều thế hệ. Nhưng “gái Quảng Bình” không chỉ tay cày, tay súng, mà còn là những con người có tâm hồn rộng mở. Nhiều thế hệ phụ nữ Quảng Bình đã làm thơ. Với họ, đó là những tiếng thầm thì của trái tim mình.

    Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ-nữ thi sỹ quê Quảng Bình trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bằng tất cả sự đằm thắm, dịu nhẹ và sâu sắc của mình đã sáng tác nhiều bài thơ đi cùng năm tháng.

    Dù thời gian mải miết trôi, người Quảng Bình vẫn không quên hình ảnh những cô gái mở đường trong bài thơ Khoảng trời hố bom của bà: “Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa/ Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom”. Để rồi: “Em nằm dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong đất/ Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng/ Những vì sao ngời chói lung linh…”. 

    Nhà thơ Trần Thị Thu Huề tại Ngày thơ Việt Nam “Hướng về biên cương Tổ quốc” năm 2022. Ảnh: Tiến Hành

    Em-khoảng trời con gái-khoảng trời nằm yên trong lòng đất, không thấy khói lửa chiến tranh, không thấy mịt mù tang tóc, chỉ thấy sự hóa thân tuổi thanh xuân vào Tổ quốc vĩnh hằng.  

    Một nữ sỹ người Quảng Bình không thể không nhắc đến là nhà thơ Lê Thị Mây, tác giả của nhiều bài thơ viết về người phụ nữ. Trong bài thơ Đôi chim trong lồng ngực có đoạn: “Sâu thẳm tự nơi anh tiếng hát rót vào em/ Tháng ba xinh tươi tháng ba nồng thắm/ Tuổi trẻ anh trên chiến trường thầm lặng/ Cũng rót vào em tiếng hát yêu thương…

    Rót vào em mãi mãi bài ca/ Có mùi cỏ cây cháy nồng ngoài trận địa/ Có mùi bùn non giữa đầm lầy truy kích/ Có mùi gỗ dầm lát bánh xe đêm…”. Chỉ một khổ ngắn, nhà thơ đã khắc họa rõ nét chân dung tình yêu đôi lứa thời kỳ cả nước xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ.  “Sâu thẳm tự nơi anh tiếng hát rót vào em” là tiếng hát về tình yêu đất nước. Người con gái hạnh phúc với tình yêu ấy.  

    Phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Quảng Bình cũng là những người vợ không hề tiếc nuối hạnh phúc riêng tư, lặng lẽ tiễn biệt người chồng ra trận: “Lặng lẽ tiễn chồng về nơi tiếng súng/ Lặng lẽ nhìn bóng núi khuất hoàng hôn/ Lặng lẽ sinh con đớn đau ruột thắt/ Lặng lẽ mẹ già ốm buốt mùa đông/ Lặng lẽ chờ chồng mỏi mòn con mắt/ Lặng lẽ bên con mười tám tuổi lại lên đường…”.

    Đó là những dòng thơ được trích từ bài Lặng lẽ của nhà thơ Đặng Thị Kim Liên. Bài thơ là lời tự sự lắng sâu nhưng không hề ẩn chứa chút gì của thở than hay tiếc nuối. Tâm trạng của người vợ, người mẹ trước chia xa, trước thiệt thòi diễn ra trong sự bình thản đến không ngờ.

    Nhưng những cụm từ “bóng núi khuất hoàng hôn”, “đớn đau ruột thắt”,  “ốm buốt mùa đông”, “mỏi mòn con mắt”… đủ cho ta thấu hiểu được những gì đang cồn cào trong nội tâm người phụ nữ. Có điều tất cả đều diễn ra trong lặng lẽ. Điều gì để những con người yếu đuối ấy vượt qua tất cả nỗi cô đơn, niềm thương nhớ và cả dằng dặc đợi mong kia nếu không phải là sự hy sinh vô điều kiện cho hòa bình của đất nước?  

    Nếu thế hệ các nhà thơ trưởng thành từ chiến tranh luôn sáng tác trong tâm thế thượng tôn Tổ quốc, ca ngợi sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữ, thì lớp tác giả nữ xuất hiện trong giai đoạn từ sau tái lập tỉnh lại hướng đến cái tôi cá nhân với những cung bậc tình cảm riêng tư đa chiều.

    Vẫn là những “người mẹ sớm chiều gánh nặng/ Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng”, nhưng người phụ nữ hôm nay đã dám bứt ra khỏi mọi ràng buộc nặng nề của ý thức hệ. Họ để cho trái tim mình lên tiếng. Hãy xem một người đàn bà có thân phận đa đoan làm thơ: “Bóng Thần Đinh ngã vào thung lũng/ Em quảy vừa một gánh đong đưa…” .

    Tác giả Trương Thị Cúc với những câu thơ không ngờ ấy đã nói hộ tiếng lòng nhiều người đàn bà khao khát yêu và được yêu. Hình ảnh quê hương và tâm trạng tác giả tưởng chẳng hề ăn nhập lại được kết nối tinh tế đến bất ngờ. Tác giả Trần Thị Thu Huề cũng đã có những câu thơ viết bằng hết thảy cảm nhận sâu sắc của mình “Gốc bần neo đậu con đò/ Bóng trăng rớt xuống, giọng hò bay lên”.

    Chỉ là cảnh làng quê mộc mạc và thân thuộc như ta vẫn gặp, thậm chí có lúc còn vô cảm lướt qua nhưng đi vào thơ bỗng trở nên lãng mạn và quyến rũ đến lạ. Đâu đó, thấp thoáng bóng dáng một tình yêu thơ mộng đang được nhen nhóm âm thầm. Chỉ có ánh trăng là hữu tình, đánh động cho giọng hò ai đó bay lên…

    Với cách cảm, cách nghĩ của người phụ nữ, cuộc sống trong thơ phái đẹp Quảng Bình luôn hiện ra thật dung dị nhưng lắng đọng. Không ồn ào, lên gân. Không cầu kỳ trình diễn. Các chị làm thơ là các chị đang thủ thỉ, tâm tình, đang giãi bày, chia sẻ, đang vỗ về, âu yếm tâm hồn nhau.

    Cứ nghĩ chị đang dỗ dành mình đấy nên không thể không rưng rưng. Nhắn cho ai đó, nếu buồn hãy tìm đọc thơ của Hiếu, mắt sẽ ướt nhưng lòng sẽ nhẹ. Thơ phái đẹp không cần gì hơn thế ngoài một tâm hồn trong trẻo và một tấm lòng đôn hậu. Chỉ thế thôi là thơ đã đi vào lòng người.

    Trong dòng chảy chung của thơ ca đất nước, những năm gần đây thơ Quảng Bình cũng xuất hiện nhiều khuynh hướng sáng tác mới. Nhiều tác giả nữ đã bắt nhịp được với xu thế của thời đại.

    Có thể kể đến Trần Thị Huê, Hoàng Thụy Anh, Hoàng Thúy. Không còn là những câu thơ dịu dàng, nữ tính và e ấp mà họ đã chuyển hướng thi pháp để cho ra đời những bài thơ theo lối cách tân, hiện đại và đi thẳng vào vấn đề. Trần Thị Huê viết: “Tôi gặp anh/ Anh xách tình đi nửa đêm qua bờ cát trắng/ Bàn chân in dấu có mười ngón đa tình/ Tôi học cách ghen mà không làm được…”.

    Tất cả được đưa vào thơ rất thật. Người phụ nữ không còn âm thầm, không còn ẩn ức nữa mà bộc lộ tâm trạng trực diện, không né tránh và không giấu giếm điều gì. Như thế sẽ bớt day dứt hơn chăng?! Cũng như thế ở Hoàng Thụy Anh “Người đàn bà sinh ra từ mưa” nhưng không thật thà như thơ Huê. Hoàng Thụy Anh với những câu thơ ướt đẫm mà lạ kỳ thay càng đọc càng thấy lửa ngùn ngụt cháy. Tôi gọi đó là lửa khát. Không có gì lạ, người phụ nữ vốn vậy, luôn tham lam tình cảm, chỉ là lâu nay không có ai nói ra thôi.

    Hoàng Thụy Anh nói hộ mọi người: “Em sẽ xé rách mọi khoảng cách/ buồn vui/ khổ đau hạnh phúc/ dối trá chân thành/ muôn trùng gần gũi/ đang nhảy múa nơi anh/ để anh thổn thức rực rỡ ấm nóng/ trên hình hài em/ trên nham thạch em/ suốt đời/ em tin như đã từng tin/ không ai dư thừa hồn nhiên mua hay trả góp dăm ba mớ trùng phức/ anh hãy tưới lên em/ một cách chân thành nhất có thể/ được không anh/ được không anh/được không anh”.

    Nếu Trần Thị Huê thật thà, Hoàng Thụy Anh tinh tế thì Hoàng Thúy là một giọng thơ hiền lành: “đôi khi chẳng biết lòng buồn hay vui/ chỉ thấy hạnh phúc mắc kẹt giữa bàn tay nhìn không ra năm ngón/ để lạc trái tim gầy và cả nỗi nhớ mong manh/ em muốn thương mình hơn sau những ngày chông chênh/ dẫu mùa đã khô khốc/ hoa cúc nào vừa chết trên nụ môi trinh nguyên/ Vẫn là những khóc, cười cứ đến rồi đi”. Đường đi của thơ bắt đầu từ trái tim và sẽ trở về rung cảm trái tim. 

    Người con gái trong thơ Hoàng Thúy mong manh hình hài, mong manh tình yêu và đa chiều tâm cảm. Nhưng cuộc sống cứ trôi như khóc cười đến rồi đi và tình yêu của em cũng vậy. Không có gì lạ, bản nguyên của cuộc đời là hạnh phúc và khổ đau. Vậy nên, em vẫn sẽ yêu như đã từng yêu dẫu cho “hoa cúc nào vừa chết trên nụ môi trinh nguyên”. Phải chăng, đã yêu thì không cần thương lượng?!

    Thơ phái đẹp Quảng Bình là tiếng thầm thì của trái tim. Hình ảnh người phụ nữ với mọi cung bậc tình cảm được các tác giả bày tỏ thông qua những cảm nhận tinh tế và sâu sắc. Có hy sinh và mất mát. Có hạnh phúc và khổ đau. Có khát khao dâng hiến và thất vọng chìm sâu.

    Nhưng vào thơ, tất cả hiện ra nhẹ nhõm và tinh khiết. Chỉ lắng lại rất dày trong người đọc sự trân trọng và những tình cảm mến yêu trong trẻo. Phụ nữ Quảng Bình trong thơ nữ Quảng Bình gan góc can trường, chịu thương, chịu khó và mênh mông yêu thương.

    Trương Thu Hiền

    --- Bài cũ hơn ---

  • Những Bài Thơ Hay Về Phật Khiến Tâm Hồn Của Bạn Bình Yên Và Thanh Tịnh Hơn
  • Câu Nói Hay Về Ô Tô
  • Tuyển Tập Những Bài Thơ Về Người Thợ Sửa Chữa Ô Tô
  • 3 Bài Thơ Về Xe Ô Tô Vừa Hay Vừa Đáng Yêu Ai Cũng Nên Đọc Thử
  • Stt Tương Tác Bán Hàng Online Đầu Tháng, Cuối Tuần Đều “Đắt Khách”
  • --- Bài mới hơn ---

  • Những Câu Nói Hay Về Tình Bạn Và Thầy Cô
  • Bạn Đã Ăn Bơ Đúng Cách Chưa Để Phát Huy Hết Tác Dụng Tuyệt Vời Của Bơ
  • Dịch Lại Bài Thơ “đợi Anh Về”
  • Thơ Về Cổ Loa, An Dương Vương Và Mỵ Châu
  • Phân Tích Truyện An Dương Vương Và Mị Châu
  • Những bài thơ hay về hoa: Hoa hồng, hoa lan, hoa đào, hoa mai, hoa dã quỳ, hoa tam giác mạch

    1.Bài thơ hay về hoa hồng: LONG LANH HOA HỒNG!

    Anh đang ở đâu rực rỡ ánh sao trời

    Xin hãy lắng nghe tiếng hoa hồng tỏa ngát

    Xin hãy nhìn bầu trời xanh bát ngát

    Bồng bềnh trôi một sắc thắm xanh màu!

    Một đóa hồng đỏ thắm nỗi nhớ nhau

    Trong sương sớm nồng nàn thơm hoa gọi

    Mặt trời về mỗi sớm chiều chói lọi

    Hương sắc ngời ngan ngát ở trong nhau!

    Bài thơ này là của một người con trai dành tặng cho người yêu của mình. Hoa hồng tượng trưng cho tình yêu sâu đậm, do vậy mà rất nhiều bạn nam tặng cho người yêu của mình hoa hồng để chứng tỏ tình yêu.

    2. Bài thơ hay về hoa lan: HOA NGỌC LAN

    Hoa lan có rất nhiều màu sắc, và ở bài thơ này đang miêu tả về hoa lan màu trắng “thơm như giọt sữa” tác giả dùng biện pháp nhân hóa rất hay. Chỉ với vỏn vẹn 4 câu thơ mà tác giả đã tả cụ thể được hình ảnh của hoa ngọc lan và qua đó gửi gắm đến người yêu của mình.

    3. Bài thơ hay về hoa đào: HOA ĐÀO NĂM NGOÁI

    Hoa đào là hoa xuất hiện nhiều nhất vào ngày tết. Cứ mỗi độ Tết đến Xuân về, hoa đào lại rực rỡ khoe sắc khắp đất trời xứ Bắc. Từ trong nhà, ngoài vườn và cả trên đường phố, người ta đều bắt gặp sắc hồng của loài hoa này.

    4. Bài thơ hay về hoa đào: BÁN HOA ĐÀO

    Hoa đào là loài hoa đặc trưng cho cái Tết và mùa xuân miền Bắc Việt Nam. Hoa đào được trồng ở hầu hết các tỉnh miền Bắc: Lạng Sơn, Lào Cai, Hà Nội,… Nhưng đẹp nhất, được yêu thích nhất vẫn là hoa đào Nhật Tân, Hà Nội. Gọi là hoa đào Nhật Tân vì giống hoa ấy được trồng ở làng Nhật Tân – một vùng đất ven sông Hồng của Hà Nội.

    5. Bài thơ hay về hoa mai: HOA MAI

    Hoa mai là biểu tượng truyền thống cho dân tộc Việt Nam. Hoa mai như một loài hoa được quý trọng nhất vào mỗi dịp lễ tết. mỗi quốc gia đều có một loại hoa đặc trưng và hoa mai là đặc trưng của Việt Nam. Và bài thơ này tác giả đã cho hoa “mai là đệ nhất”

    6. Bài thơ hay về hoa dã quỳ: MÙA HOA DÃ QUỲ

    Đường lên gió hát mây ru

    Tây Nguyên vàng chín mùa thu Dã quỳ

    Lắng nghe hoa nói điều gì

    Chênh chao vạt nắng thầm thì suối reo

    Trập trùng đèo dốc nghiêng treo

    Hoa lưng chừng núi, hoa leo giữa đồi

    Lung linh trong sắc hoa cười

    Chiều Thu sóng sánh vàng tươi đất trời

    Hoa dã quỳ còn có tên gọi khác là hoa cúc dại bởi một lẽ nó là cây thuộc họ cúc nhưng lại mang giá trị về y học thấp nhất. Hoa dã quỳ khi nở rộ nhìn thật đẹp, những cánh đồng hoa dã quỳ màu vàng óng ả như làm tăng thêm cái chói chang, rực rỡ. Trước đây muốn ngắm nhìn hoa dã quỳ nở du khách phải đi lên tận những vùng núi cao thế nhưng hiện nay, hoa dã quỳ đã rất phổ biến, được trồng ở nhiều nơi từ bắc vào nam

    7. Bài thơ hay về hoa tam giác mạch: NHỮNG CHIỀU TAM GIÁC MẠCH

    Nếu các bạn một lần đặt chân đến Hạ Giang vào dịp cuối thu, đầu đông các bạn sẽ có dịp chiêm ngưỡng hoa tam giác mạch. Hoa tam giác mạch tô điểm cho những phiến đá tai mèo một sắc hồng phơn phớt ấm áp, như mời gọi những kẻ lữ hành tới chiêm ngưỡng, khám phá vẻ đẹp say lòng người. Người ta bảo tam giác mạch là đặc sản riêng của vùng đất cực bắc Tổ quốc,

    8. Bài Thơ hay về hoa cúc: HOA CÚC VÀNG

    Bài thơ này ngụ ý của tác giả muốn dùng đóa hoa cúc vàng để tặng người yêu và thể hiện cảm xúc khi thấy người yêu bên đóa hoa cúc vàng. Hoa cúc được xem là quốc hoa của mùa thu. Người xưa coi cúc tà một trong bốn thứ cây hoa quý được ví như bốn người bạn thân [tứ hữu]: tùng, cúc, trúc, mai. Cúc tượng trưng cho tâm hồn thanh cao của những người quân tử muốn xa lánh vòng danh lợi vào luồn ra cúi.

    10. Bài thơ hay về hoa thiên lý: DƯỚI GIÀN THIÊN LÝ

    Tác giả miêu ta giàn hoa thiên lí với rất nhiều lợi ích như là dùng trong các món ăn làm cho món ăn thêm ngon và giàu dinh dưỡng hơn. Giàn hoa thiên lí nó vừa cho bóng mát, lại đẹp trang trí thêm khu vườn nhà và nó còn rất bổ ý tạo nên các món ăn ngon.

    11. Bài thơ hay về hoa xương rồng: HOA XƯƠNG RỒNG NỞ

    Có gì vời vợi nước mây

    Anh thành khách lạ qua đây ghé nhờ

    Bến quê còn nỗi hẹn hò

    Mình anh trở lại … con đò đã sang

    Tưởng như em mới bước ra

    Nghe đâu sang ngoại biếu bà bát canh.

    Hoa xương rồng nở… xanh xanh…

    12. Bài thơ hay về hoa huệ: HOÀI NIỆM HOA HUỆ

    13. Bài thơ hay về hoa anh đào: HOA ANH ĐÀO

    14. Bài thơ hay về hoa anh thảo: CÓ MỘT LOÀI HOA MANG TÊN ANH THẢO

    Hoàng hôn từ tốn buông màn

    Sương long lanh gọi ngày tàn trăng lên

    Giữa ngàn sao mọc êm đềm

    Hoa Anh Thảo muộn theo đêm trở về

    Như ẩn sĩ ngậm lời thề

    Trăng lên hoa nở chẳng hề đơn sai

    Hoa ơi hoa nở vì ai

    Lặng thầm nhan sắc đêm dài lẻ loi

    Để khi nắng sớm mai soi

    Lại từ tạ nhận thiệt thòi ra đi…

    15. Bài thơ hay nhất về hoa cỏ may: HOA CỎ MAY

    Cát vắng, sông đầy cây ngẩn ngơ

    Không gian xao xuyến chuyển sang mùa

    Tên mình ai gọi sau vòm lá

    Lối cũ em về nay đã thu

    Mây trắng bay đi cùng với gió

    Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ

    Đắng cay gửi lại bao mùa cũ

    Thơ viết đôi dòng theo gió xa

    Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may

    Áo em sơ ý cỏ găm dày

    Lời yêu mỏng mảnh như màu khói

    Ai biết lòng anh có đổi thay

    16. Bài thơ hay nhất về hoa bưởi: MÙA HOA BƯỞI THƠM NGÁT

    Chẳng phải vô tình em nhớ tháng ba

    Nhớ về anh nhớ mùa hoa bưởi

    Cánh hoa rơi lòng em bối rối

    Chút hương thầm làng bãi lan xa

    Chẳng phải vô tình em nhớ tháng ba

    Ngõ nhà anh đầy hoa xoan tím

    Nhớ bến sông thuyền ai ghé bến

    Hương bưởi quê mình níu khách sang sông

    Nhớ tuổi thơ em nhặt bông bưởi trắng

    Tháng ba này mẹ giã bánh trôi

    Anh lớn lên -đi vào quân ngũ

    Chúng mình mỗi đứa mỗi nơi

    17. Bài thơ hay về hoa anh đào: HOA ANH ĐÀO

    18. Bài thơ hay về hoa sen: HOA SEN

    19. Bài thơ hay về hoa quỳnh: HOA QUỲNH

    20. Bài thơ hay về hoa muống biển: HOA MUỐNG BIỂN

    21. Bài thơ hay về hoa dại: HƯƠNG HOA DẠI

    22. Bài thơ hay về hoa nhài: HOA NHÀI

    23. Bài thơ hay về hoa sữa: HOA SỮA

    Hà Nội đã thu rồi

    [Mười lăm năm tôi trở lại]

    Chút sóng sông Hồng còn đây

    Chút nắng hồ Gươm còn đó

    Lang thang dọc đường Nam bộ

    Hỏi thăm người phu xích lô

    Phố nào nhiều cây hoa sữa?

    Và tôi đã nhặt một bông hoa sữa

    Trên con đường Thanh niên

    Đêm Hà Nội

    Một mùa thu trong chừng có thể

    Dâng nỗi buồn không tên.

    24. Bài thơ hay về hoa sữa: HOA SỮA

    25. Bài thơ hay về hoa sung: HOA SÚNG TÍM

    --- Bài cũ hơn ---

  • Top 10 Bài Thơ Về Hoa Đào Ngày Tết Hay Nhất
  • Tiếp Tục Hoãn Phiên Sơ Thẩm Vụ Kiện ‘gánh Mẹ’, Đại Diện Lý Hải Nói Gì?
  • Ai Là Tác Giả Bài Thơ ‘tổ Quốc Gọi Tên Mình’?
  • Đề Tài Truyện Cóc Gọi Trời Mưa
  • Đừng Để Cha Mẹ Mất Rồi Mới Hối Hận Trong Bài Thơ Con Xin Lỗi Của Tác Giả Xuân Hùng
  • Bạn đang xem chủ đề Bài Thơ Hoa Sen Võ Quảng trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!

    Quảng Cáo

    Chủ đề xem nhiều

    Bài viết xem nhiều

    Những Bài Thơ, Lời Chúc Tết Canh Tý 2022 Ý Nghĩa Nhất

      Những bài thơ chúc tết Canh Tý 2022 hài hước, vui vẻ và cũng thật ý nghĩa gửi đến bạn bè, đồng nghiệp, sếp, ông bà, ba mẹ, … những người thân xung quanh bạn trong dịp tết nguyên đán mang lại niềm vui, sự may mắn cho cả 1 năm sắp tới. Những lời chúc tết 2022 hay nhất bằng thơ ý nghĩa:  Đầu năm xin chúc cả nhà ta Mạnh khỏe an khang tới mọi nhà Tiền vào như nước Sông Đà chảy Tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin Xin chúc cả nhà vui hạnh phúc Bình an vô sự một năm qua Xin...

    3 Bài Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác

    Share Facebook Twitter Pinterest BÀI LÀM VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH BÀI “VIẾNG LĂNG BÁC” – VIỄN PHƯƠNG LỚP 9 Năm 1976,  Bắc- Nam hai miền đã thống nhất, đất nước ta độc lập, hòa bình. Nhưng vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc thì đã về với cõi mây trắng. Cũng năm ấy, nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam ra thăm Bác và bài thơ “ Viếng lăng Bác” là nén tâm hương ông thành kính dâng lên Người. Mở đầu bài thơ là một câu thơ tự sự: Cách xưng hô của nhà thơ là “con” và “Bác”,...

    Truyện Cười Học Sinh #21

    Mùa tốt nhất cho táo Đang trong giờ học đầu tiên sau kỳ nghỉ hè tại một ngôi trường nhỏ. Bài học nói về các mùa trong năm. Cô giáo giảng: – “ Mỗi năm có bốn mùa, đó là: mùa xuân, mùa hạ, mùa thu và mùa đông. Mùa xuân trời ấm áp và muôn loài nảy nở sinh sôi. Mùa hè trời nóng nực, có rất nhiều rau và quả, ai cũng thích ăn hoa quả. Mùa đông trời lạnh và thường có mưa, đôi khi còn có tuyết rơi trên mặt đất.” Giảng đến đây, cô giáo nhìn một học...

    Bài Viết Về Mẹ Kính Yêu Của Em

    Bài viết về mẹ kính yêu của em Em sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương của bố mẹ. Nhưng người mà quan tâm và lo lắng cho em nhất không ai khác chính là mẹ. Mẹ đã hi sinh cả cuộc đời để nuôi nấng em nên người. Dù mẹ có xấu xí đi chăng nữa nhưng trong mắt em mẹ vẫn mãi là người đẹp nhất. Mẹ em năm nay đã ba mươi bảy tuổi rồi, nhưng vẫn còn rất trẻ. Dáng người mẹ hơi thấp và cân đối. Khuôn mặt mẹ có hình trái xoan, trông rất...

    Những Bài Thơ 4 Chữ Về Tình Yêu Hay Nhất Khiến Bạn Rung Động

    Bài 5 Anh về anh ốm tương tư Anh về thân rũ dật dờ ngày đêm Mong manh trút cạn nỗi niềm Trái tim thổn thức có thêm bóng người Thơ 4 chữ về tình yêu đơn phương CHỜ NGƯỜI NƠI ẤY Thơ: Nguyễn Nguyễn Em vẫn chờ anh nơi ấy xa xôi. Có về ko ? Nói em còn hy vọng. Đừng để em ngày ngày luôn trông ngóng. Anh ko về ! để em đợi hoài công. ĐÂU HẲN LÀ DANG DỞ Thơ: Tùng Trần Có lúc gần cũng có lúc xa xôi Bởi kề bên vẫn như người xa lạ...

    Thơ, Truyện Về Chủ Đề Thực Vật Lớp 3, 4 Tuổi

    1.1. Sự tích bánh chưng, bánh dầy Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng. Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là...

    Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Sưu Tầm 101 Status Hay Về Sự Cô Đơn Dành Cho Hội Độc Thân Đang Gây Sốt Mới Nhất

    Tuyển tập 101 status hay về sự cô đơn dành cho hội độc thân đang gây sốt trên mạng xã hội 1. TOP 10 Stt mưa cô đơn buồn não nề thấm đẫm nước mắt Mưa chính là một trong những nguyên nhân khiến nỗi buồn, nỗi cô đơn của bạn xuất hiện. Những cơn mưa khiến chúng ta luôn cảm thấy lạnh lẽo và cô đơn. Tại sao khi mưa nhiều người phải rơi lệ? Người ta thường bảo người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, nhìn mưa khiến ta có những suy ngẫm sâu sắc về...

    Những Câu Nói Hay Về Tình Bạn Chơi Xấu

    //vnbay.net › Nghĩ Suy › Bài Học Cuộc Sống 7 thg 10, 2022 – Stt Bạn Đểu, Những Câu Nói Hay Về Bạn Bè Chơi Xấu. Cuộc đời mỗi người, không phải ai cũng may mắn tìm được những người bạn tốt, chân … Những câu nói, status nói về những người bạn đểu cực thâm … Những câu nói hay về tình bạn chơi xấu Xếp hạng: 4,3 · ‎86 phiếu bầu Bạn đã truy cập trang này 3 lần. Lần truy cập cuối: 06/01/2021 Những câu nói hay về bạn bè chơi xấu gây sốt cộng đồng mạng Những Câu Nói Hay Về...

    Thơ Vui Đám Cưới Hay Nhất [ 1]

    Thơ vui đám cưới hay nhất Hôm nay đám cưới của em Họ hàng hang hốc đến xem rộn ràng Đáng nhẽ pháo nổ đùng đoàng Nhưng vì cấm pháo cả làng im re 8 giờ có 1 chiếc xe, cắm đầy hoa hoét le te đi vào Trẻ con vui tới ào ào, đứa thì xì lốp đứa vào bóp… Hôm nay đám cưới của emHọ hàng hang hốc đến xem rộn ràngĐáng nhẽ pháo nổ đùng đoàngNhưng vì cấm pháo cả làng im re8 giờ có 1 chiếc xe, cắm đầy hoa hoét le te đi vàoTrẻ con vui...

    50 Năm Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Xuân Mậu Thân 1968:

    Khai bút đầu xuân, làm thơ chúc Tết đã trở thành nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Sinh thời, cứ mỗi độ xuân về, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại có thơ chúc Tết gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước. Và đã trở thành thông lệ, đúng vào thời khắc giao thừa, đồng bào và chiến sĩ cả nước lại hồi hộp quây quần bên chiếc ra-đi-ô để nghe thơ chúc Tết của Bác. Điểm nổi bật trong các bài thơ chúc Tết của Bác Hồ là đều mang âm hưởng hào hùng, bố cục chặt...

    Video liên quan

    Chủ Đề