Sáng kiến kinh nghiệm môn tạo hình cho trẻ mầm non
TẠO HÌNH TRONG TRƯỜNG MẦM NON. Show
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại, mà nó cũng có những đặc điểm riêng biệt về cấu tạo sinh lý, do đó trẻ em cũng cần có những biện pháp chăm sóc thích hợp. Có người đã cho rằng: Trẻ em là một trang giấy trắng và ai muốn vẻ gì vào đó thì vẻ. Đó chính là một quan điểm thật sai lầm, vì thực tế khoa học đã chứng minh trẻ em cũng có những nhận thức riêng bên trong của mình, nhưng đòi hỏi trẻ phải tích cực tham gia vào hoạt động thì từ đó tâm lý của trẻ mới phát triển và bộc lộ ra bên ngoài. Trẻ mẫu giáo “chơi mà học, học mà chơi”. Trẻ rất hiếu động, tò mò, ham muốn học hỏi, tìm hiểu thế giới xung quanh. Trong khi chơi, trẻ thực sự học để lĩnh hội các khái niệm ban đầu hoặc các tri thức tiền khoa học. Biết được tầm quan trọng đó, là một người giáo viên chúng ta cần phải coi trọng việc tạo ra môi trường giáo dục trẻ bằng những hoạt động thiết thực, nhằm phát triển một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: Trí tuệ- Đạo đức- Thẩm mĩ- Thể lực. Từ đó, giúp trẻ hoàn thiện nhân cách, ngôn ngữ, tư duy, phát triển các kỹ năng thực hành, giao tiếp, ứng xữ. Đối với việc giáo dục phát trển nhân cách toàn diện cho trẻ em, hoạt động tạo hình có một vị trí rất quan trọng. Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động hấp dẫn nhất đối với trẻ mẫu giáo, nó giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiện một cách sinh động những gì chúng nhìn thấy trong thế giới xung quanh, những gì làm trẻ rung động mạnh mẽ và gây cho chúng những rung động xúc cảm, tình cảm tích cực. Hoạt động tạo hình là một hoạt động có đầy đủ điều kiện để đảm bảo sự tác động đồng bộ lên mọi mặt phát triển của trẻ em về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất và hình thành các phẩm chất kĩ năng ban đầu của con người như một thành viên trong xã hội biết tích cực, sáng tạo. Hiểu được tầm quan trọng đó, tôi luôn tìm tòi những bện pháp, phương pháp tốt nhất để giúp trẻ hoạt động tích cực trong lĩnh vực này. Sau khi khảo sát và thăm dò thì tôi nhận thấy những mặt khó khăm và thuận lợi như sau: 1. Khó khăn: – CSVC vẫn còn thiếu thốn. – Tài liệu tham khảo còn hạn chế. – Đa số trẻ vẫn chưa tích cực và chủ động trong học tập. Một số cháu không học qua MGB nên các kĩ năng vẻ- dán- nặn vẫn còn yếu. – Các bậc phụ huynh còn quá chú trọng đến việc làm ăn kinh tế ít quan tâm đến việc học tập của con nên khả năng tiếp cận nghệ thuật của trẻ chưa tốt. – Môi trường giáo dục trong gia đình chưa tốt cũng ảnh hưởng đến tâm hồn của trẻ khi cảm thụ trước cái đẹp. 2. Thuận lợi: – Được sự quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo của UBND xã, các cấp lãnh đạo, của ban giám hiệu nhà trường. – Giáo viên được quán triệt, tiếp thu, bồi dưỡng nội dung kế hoạch chuyên đề một cách đầy đủ, sử dụng nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương và đã thể hiện đồng bộ về chương trình đổi mới cho từng độ tuổi. – Sự quan tâm giúp đỡ của một số phụ huynh. Là một giáo viên mới về trường chưa được lâu, chưa học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong thực tế, nên vẫn không tránh khỏi những khó khăn trong công tác giảng dạy. Vì thế, bên cạnh học hỏi các kinh nghiệm của chị em trong trường tôi còn tìm tòi các kinh nghiệm qua sách báo, internets và học hỏi những kinh nghiệm của các trường bạn để tự trau dồi thêm những kiến thức cho mình. Từ đó, có những biện pháp giúp trẻ học tốt môn phương pháp tạo hình hơn. II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: Con người sinh ra không phải ai cũng đã có sẵn trong mình những năng khiếu thẫm mĩ, cũng không ai cũng có những tài năng bên mình, mà phải đòi hỏi thông qua giáo dục và hoạt động thì từ đó những tài năng và khả năng đó mới được bộc lộ và phát triển. Nhất là đối với trẻ nhỏ, việc học của trẻ không phải đơn thuần là đưa trẻ vào một khuôn phép chặt chẽ, mà học của trẻ ở đây thông qua chơi, “trẻ chơi mà học, học mà chơi”. Vì thế, đứng trước những thuận lợi và không ít những khó khăn đó là một giáo viên trẻ tôi cố gắng tìm tòi để lựa chọn những biện pháp, hình thức tổ chức thích hợp giúp tất cả trẻ đều hứng thú và tích cực tham gia hoạt động tạo hình. Như chúng ta đã biết, ngay từ nhỏ trẻ đã có phản xạ với cái đẹp bằng những biểu hiện như: hướng mắt về ánh sáng, thích ngắm những vật có màu sắc loè loẹt nổi bật, trẻ bắt đầu có ý thích ngắm nhìn các bức tranh, những hình thù ngộ nghĩnh và đa dạng, tuy nhiên chúng chưa thể nhận biết, phát hiện ra cái đẹp của những tác phẩm ấy. Điều đó có thể nói rằng, trẻ luôn có những xúc cảm rất đặc biệt với những sự vật hình tượng xung quanh, nó mang lại cảm xúc và ấn tượng mạnh đối với trẻ thôi thúc trẻ muốn khám phá và muốn sáng tạo ra cái đẹp. Tuy nhiên đối với trẻ nhỏ, sự kiên trì và khả năng chú ý của chúng chưa được tốt nên cũng dễ dẫn đến sự nhàm chán và không hào hứng với công việc được giao trong một thời gian ngắn, và chính người lớn chúng ta cũng không thể nào ép buộc trẻ hoàn thành nhiệm vụ được, xuất phát từ những đặc điểm đó để hướng dẫn trẻ đi vào một hoạt động tạo hình, tôi không yêu cầu trẻ thực hiện ngay. Vì như thế sẽ làm cho một giờ hoạt động khô khan và không đạt ở trẻ sự hứng thú tích cực, mà đặc biệt với sự áp dụng chương trình giáo dục mầm non mới nó đòi hỏi một giờ hoạt động phải nhẹ nhàng và chủ động trên trẻ nhiều hơn trong đó người giáo viên chỉ là người định hướng cho trẻ. Cùng với trẻ xem tranh minh hoạ trong các tác phẩm dành cho thiếu nhi. Hướng dẫn trẻ trả lời câu hỏi của cô về nội dung tranh. Cho trẻ làm quen với các đồ chơi dân gian, các đồ chơi đặc trưng cho văn hoá địa phương phù hợp với nhận thức của trẻ. Cho trẻ làm quen với các phương thức diễn đạt trong các tác phẩm nghệ thuật khác nhau ( màu sắc, âm thanh, hình dáng, chuyển động,điệu bộ) để từ đó phân biệt các loại hình nghệ thuật thông qua hình tượng nghệ thuật. Bên cạnh đó tôi cũng đã tiến hành tạo môi trường nghệ thuật trong lớp học sạch sẽ và đẹp mắt, trong phòng có nhiều đồ chơi đẹp có màu sắc sặc sỡ được bố trí gọn gàng, phù hợp và đẹp mắt. Ngoài ra, chỉ cho trẻ thấy được vẻ đẹp của các phòng được trang trí rất đẹp bởi các mảng tranh được vẻ trên tường hay là các mảng màu sơn trên tường và những vật dụng trang trí. Đây cũng là một trong những biện pháp quan trọng bởi vì xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ là trực quan sinh động thì thu hút và hấp dẫn trẻ, thúc đẩy trẻ hoạt động tích cực tốt hơn, để đạt được điều đó tôi cho trẻ xem nhiều tranh, nhiều tác phẩm tạo hình có giá trị như tranh vẽ, hay xem băng đĩa có các cảnh quan đẹp rõ nét. Đồng thời hướng dẫn trẻ quan sát để nhận thấy cái đẹp đơn giản nhất trong những tác phẩm đó. Bên cạnh đó, tôi còn cho trẻ hoạt động tạo hình mọi lúc, mọi nơi như giờ hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ nhặt lá rơi rồi tạo nên những con vật dễ thương mà trẻ thích, qua đó giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh môi trường. Những sản phẩm do trẻ làm tôi cho trẻ giữ lại để từ đó trẻ hiểu được từ những lá cây rụng ngoài thiên nhiên cũng có thể tạo nên những con vật ngộ nghĩnh và dễ thương, đồng thời thông qua tác phẩm của con mình mang về nhà từ đó phụ huynh biết được năng khiếu của trẻ để qua đó tôi có thể phối hợp với phụ huynh để bồi dưỡng những trẻ có năng khiếu về tạo hình. Trong những buổi sinh hoạt chiều hay là ở hoạt động góc, tôi đã cho các cháu cùng quan sát những bức tranh, sản phẩm đẹp của các bạn trong lớp và ở lớp bạn, thông qua đó, tôi khuyến khích trẻ phát triển ngôn ngữ, phát triển khả năng cảm thụ thẩm mỹ, phát triển hứng thú của trẻ đối với hoạt động tạo hình, khiến trẻ hưởng ứng ngay mỗi khi cô cho trẻ vẻ, nặn, cắt dán giấy. Được quan sát nhiều, trí tưởng tượng của trẻ tăng, trẻ có điều kiện tích luỹ, làm phong phú vốn hiểu biết của trẻ về nghệ thuật, đó chính là nền tảng để phát triển tính sáng tạo của trẻ. Bên cạnh chuẩn bị cho trẻ những tiền đề làm phong phú vốn hiểu biết, thì khả năng lôi cuốn trẻ đi vào hoạt động cũng rất quan trọng. Để lôi cuốn được trẻ tham gia vào hoạt động thì người giáo viên cần phải tìm tòi những sáng kiến mới, những thủ thuật sư phạm và từ đó dùng ngôn ngữ của mình để truyền đạt tới trẻ một cách sinh động và lôi cuốn. Điều đó muốn nói đến khả năng ứng xữ của người giáo viên cũng như ngôn ngữ và phong cách đứng lớp thật tự tinh, dí dõm, vui vẻ, ngộ nghĩnh gây sự chú ý của trẻ vào hoạt động. Đặc biệt, người giáo viên cũng phải có khả năng tạo hình và tạo ra những tác phẩm đẹp, vì trẻ học đa số dựa trên sự bắt chước là chủ yếu, vì thế đòi hỏi người giáo viên cũng phải đưa ra những hình mẫu đẹp mắt và mang tính nghệ thuật cao. Trong một tiết hoạt động tạo hình tôi cũng có thể tích hợp lồng ghép các bài hát hay những bài thơ, câu đố hoặc trò chuyện cùng trẻ để làm cho giờ hoạt động diễn ra một cách nhẹ nhàng hơn. VD: Học bài “ Xé dán trang trí thiệp chúc mừng” tôi tạo một tình huống nhân ngày lễ của các chú bộ đội thì cô cháu chúng mình hãy cùng trang trí những tấm thiệp chúc mừng đẹp nhất gửi đến các chú. Với tình yêu của các cháu nhỏ dành cho các chú bộ đội, với ước mơ “ mai sau con lớn lên con sẽ làm chú bộ đội” ( ước mơ thật bé thơ đó) thì cách dẫn dắt vào hoạt động đó sẽ làm cho trẻ hào hứng hơn và sẽ làm tấm thiệp một cách say sưa và cố gắng hơn. Qua thực tế đã cho thấy, khi sử dụng một hình tượng hay một tình huống, một câu chuyện nhỏ để giới thiệu trẻ đi vào hoạt động trọng tâm thì trẻ có hứng thú với hoạt động và kết quả là sản phẩm từ trẻ làm ra có hiệu quả nghệ thuật cao hơn. Tuy nhiên, để đạt được kết quả đó tôi phải chọn cách đưa ra tình huống phải phù hợp với nội dung tiết dạy, phù hợp với chủ điểm cũng như các tình huống trên trẻ trong tiết dạy hôm đó, và đặc biệt tránh việc đưa ra tình huống lấn chiếm quá nhiều thời gian hoạt động chính. VD: Bài “Cắt dán áo quần” cô kể cho các cháu nghe câu chuyện trận lũ lụt ở Miền Trung vừa qua đã quét sạch nhà cửa, ruộng vườn của các bác, nhiều bạn nhỏ đã không có cơm ăn và áo mặc các con ạ. Nhìn mọi người thật đáng thương đúng không? Vậy chúng ta phải làm gì để giúp đỡ mọi người và các bạn nhỏ nào? À đúng rồi, chúng ta hãy cùng cô cắt và may nên những chiếc áo và chiếc quần để gửi đến cho các bạn nhỏ ở vùng lũ lụt nhé! Và thế là trẻ nào cũng cố gắng cắt dán những chiếc áo và những chiếc quần thật đẹp. Việc tạo hứng thú cho trẻ cũng được thể hiện qua việc chuẩn bị đồ dùng học liệu mang tính thẩm mỹ, khoa học, có tính giáo dục cao và đặc biệt là phù hợp với trẻ và nội dung hoạt động. Vì thế ở các giờ hoạt động tạo hình cũng như các hoạt động khác tôi rất chú trọng về việc chuẩn bị đồ dùng cho mình như: vật mẫu, tranh mẫu phải đẹp và có màu sắc nổi bật, bố cục rõ nét và đặt ở nơi trẻ dễ quan sát, đội hình trẻ ngồi phù hợp đảm bảo cho tất cả trẻ đều được quan sát. VD : Bài “Nặn con thỏ” đối với dạng bài này tôi phải chuẩn bị vật mẫu của mình to hơn trẻ nhiều đồng thời cũng chuẩn bị một số vật mẫu nhỏ để cho trẻ quan sát kĩ hơn, chuẩn bị 1 bàn xoay để trẻ có thể quan sát tất cả các hướng của chú thỏ và tôi cho trẻ ngồi đội hình vòng cung. Thông qua việc đàm thoại về màu sắc và cách chọn màu, cũng như cách chia tỉ lệ đất giúp trẻ thực hiện tốt hơn bài làm của mình. Thông qua đó tôi cũng lồng hép nội dung giáo dục nhằm phát triển tình cảm đạo đức cũng như tình cảm xã hội ở trẻ. Từ những cảm xúc tạo hình, trẻ bắt đầu cảm nhận, phân bệt hình dạng và thể hiện hình dáng của các vật mẫu, phát triển các thao tác tạo hình, đồng thời là khả năng tri giác bằng mát. Trẻ được bồi dưỡng khả năng điều khiển bằng mắt các thao tác của mình càng tốt bao nhiêu thì càng có khả năng truyền đạt các hình dáng của các vật mẫu chính xác bấy nhiêu. VD : Khi hướng dẫn cho trẻ quan sát gà mái và gà con cùng đang đi kiếm ăn trong vườn cô hỏi trẻ “Bạn nào cho cô biết con gà nào là gà con? Từ đó tôi giúp cho trẻ xác định có cơ sở chung để tạo hình những con vật cùng nhóm, để biết cách thể hiện các con vật đó ở các tình huống khác nhau. Hoạt động tạo hình còn có thể được thực hiện trên các tiết học của các lĩnh vực hoạt động khác, ở các tiết học này có thể giải quyết bổ sung một số nhiệm vụ của hoạt động tạo hình, bởi vậy trong các hoạt động của những tiết học đó xen vào một số yếu tố của hoạt động mang tính tạo hình. Trong các buổi đón trẻ, hay những giờ rãnh rỗi tôi cung cấp cho trẻ các thông tin về các đối tượng miêu tả, trao đổi, cùng hoạt động với trẻ để nắm bắt hiểu biết. VD: Trong tiết làm quen với tác phẩm văn học “ Ba cô gái” hoạt độngcuối cùng cô cho trẻ tô màu 3 cô gái và nói lên cảm nhận của bản thân trẻ về 3 cô gái. Trong một buổi dạo chơi xung quanh trường cô cho trẻ ngắm những chậu hoa và hỏi trẻ “ con thích chậu hoa nào nhất nào? Con nhìn xem bông hoa này có màu gì? Trông những cánh hoa của nó ra sao? Khi mặt trời nhô lên thì cánh hoa trông khác biệt như thế nào?… ” để chuẩn bị biểu tượng cho bài “ vẽ chậu hoa ” ngày mai thì chính việc làm này sẽ giúp trẻ thể hiện lại được những nét độc đáo riêng của mình thông qua việc quan sát tận mắt, mà không tạo ra một cách máy móc và dựa trên ý tưởng sẵn có của người khác. Ngoài việc giúp trẻ lĩnh hội những kiến thức thực tế để làm giàu vốn kinh nghiệm cho bản thân, thì bên cạnh đó tôi cũng luôn chú trọng nhiệm vụ, nội dung và phương pháp hướng dẫn giúp trẻ thực hiện các thao tác tạo hình một cách tốt nhất đối với từng thể loại và từng nội dung hoạt động phù hợp với khả năng trên từng trẻ. * Đối với tiết mẫu: Đây là một hình thức hoạt độn rất quan trọng không thiếu được, bởi lẽ nó có vai trò là nền tảng, là môi trường bồi dưỡng ở trẻ óc quan sát, khả năng phân tích, nhận biết các đặc điểm đa dạng về hình thái, khả năng cảm thụ tính thẩm mỹ và nét độc đáo của các sự vật, hiện tượng xung quanh. Vì vậy việc làm của cô phải chính xác, hình mẫu phải đảm bảo cần cho trẻ tìm hiểu và phân tích các đặc điểm cơ bản của hình mẫu, vừa làm vừa giải thích rõ ràng, kết hợp giữa lời nói và động tác tuy nhiên tránh việc làm mẫu quá lâu sẽ làm mất hứng thú tạo hình của trẻ. * Hoạt động tạo hình theo đề tài cho sẵn: Đây là hình thức tạo hình mang tính tự do ít phụ thuộc vào mẫu. Ở hình thức này cô trao đổi với trẻ về nội dung đề tài, giúp trẻ phát triển trí nhớ hình tượng. Dạy trẻ biết lựa chọn đối tượng thể hiện phù hợp với đề tài đã cho, và tạo sản phẩm theo ấn tượng của trẻ; củng cố những kiến thức kĩ năng đã học. Dạy trẻ những phương thức tạo hình riêng biệt để tạo ra một đề tài có kết cấu chặt chẽ mạch lạc. thông qua đó nó sẽ phát trển về năng lực thể hiện màu sắc đường nét. Hình thức này thể hiện ở ý tưởng của trẻ là chủ yếu vì thế tôi chỉ là người gợi ý và định hướng cho trẻ, khuyến khích trẻ nói lên ý tưởng của mình là chính. * Hoạt động tự chọn: Dưới hình thức hoạt động này, trẻ được chủ động tích cực, tự lựa chọn và thể hiện nội dung miêu tả ( đề tài cụ thể ) mà mình thích theo dự định tạo hình của cá nhân. Đối với trẻ nhỏ đôi lúc sự định hình chưa được rõ ràng mơ hồ và dễ mất đi nhanh chóng. Hiểu được những hạn chế đó trên trẻ, tôi luôn có những phương pháp để định hướng các đề tài tự chọn trong phạm vi những kinh nghiệm, những xúc cảm, tình cảm mà trẻ đã được trãi nghiệm. Từ đó phát huy những khả năng thế mạnh ở trẻ một cách tự nhiên. Bên cạnh những định hướng, những phương pháp giúp trẻ học tốt môn tạo hình, thì có một điều không thể thiếu được, đó chính là sự khích lệ động viên kịp thời của cô giáo đối với những sản phẩm mà trẻ làm ra, hay đối với những trẻ chưa làm tốt hay chưa hoàn thành xong sản phẩm của mình thì một lời khích lệ sẽ làm cho trẻ cố gắng hơn nữa trong giờ hoạt động lần sau. Việc nhận xét sản phẩm của giáo viên đối với sản phẩm của trẻ cũng rất quan trọng, nó giúp cho trẻ rút được những kinh nghiệm để làm tốt hơn vào lần sau, cũng như bước đầu hình thành khả năng nhận xét đánh giá tác phẩm nghệ thuật trên bản thân trẻ. Biết rõ điều đó trong các giờ tạo hình tôi luôn biết cách động viên khích lệ trẻ đúng lúc và cũng khéo léo nêu ra những hạn chế còn trên trẻ để không làm trẻ tự thấy thoả mãn ở khả năng bản thân của mình để tiếp tục cố gắng hơn nữa. Bên cạnh đó, trong các giờ hoạt động tôi luôn đặt những câu hỏi như “ Con thấy thích sản phẩm nào nhất? Vì sao con lại thích sản phẩm đó nhất? Để làm nên sản phẩm này thì con phải làm như thế nào?” để hình thành ở trẻ những tiền đề đánh giá, nhận xét sản phẩm. Tuy nhiên, việc đánh giá sản phẩm của trẻ cũng cần phải chính xác, phù hợp với cách nhìn, cách nghĩ cũng như cách cảm nhận của trẻ đối với tác phẩm nghệ thuật của mình. Khi đánh giá sản phẩm tạo hình của trẻ tôi luôn căn cứ vào các điểm sau: + Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi: Ở mỗi lứa tuổi đều có một mức độ khả năng tạo hình khác nhau, vì thế để đánh giá được khả năng của trẻ thì chúng ta phải nhìn vào khả năng của trẻ từng độ tuổi làm được gì. + Bên cạnh đặc điểm tâm sinh lý thì cần phải dựa vào mục tiêu đặt ra trong giờ hoạt động cũng rất quan trọng. Không nên quá ôm đồm quá nhiều mục tiêu trong 1 giờ hoạt động quá mà cần đưa ra những mục tiêu phù hợp và từ đó dựa vào những mục tiêu đó để đánh giá cái gì trẻ đã đạt được và chưa đạt được. + Dựa vào nội dung của hoạt động tạo hình để đánh giá năng lực của trẻ, cũng như sự tiến bộ dần của quá trình từ đầu năm học cho đến cuối năm để thấy được sự chuyển biến rõ rệt ở khả năng tạo hình trên trẻ. Khi nhận xét việc khen chê cũng phải khéo léo, lời lẽ nhận xét sản phẩm phải gây cho trẻ niềm vui sướng vì những gì chúng đã tạo nên, phải nhấn mạnh những thành công sáng tạo, những ý định tạo tình thú vị của trẻ, phải chỉ cho trẻ thấy sự gống nhau giữa sự vật với hình ảnh được miêu tả và giúp cho trẻ thể hiện tình cảm, thái độ trước kết quả hoạt động. Bằng lời nói của mình tôi rèn luyện cho trẻ khả năng nhận xét kết quả hoạt động của trẻ, nhận ra những thiếu sót và có hướng sửa chữa những thiếu sót ấy. Cùng với những hoạt động chung hằng ngày hay hoạt động mọi lúc mọi nơi, thì ngoài ra trong trường cũng tổ chức các hoạtt động phong trào vui chơi, đón lễ hội, thông qua đó trẻ được quan sát cách trang trí, vẽ đẹp của các ngày lễ hội, hay cuộc thi vẽ tranh trong trường để từ đó tôi tìm hiểu được năng khiếu của mỗi trẻ từ đó có hướng bồi dưỡng kịp thời. Ngoài ra, hằng ngày tôi cũng có 1 cuốn sỗ nhật ký hằng ngày để theo dõi trẻ từ đó phát hiện ra năng khiếu ở mỗi trẻ để bồi dưỡng thêm. VD: Cháu Xuân Hưng có khả năng vẽ và tô màu, tuy nhiên cháu vẽ và tô cẩn thận cho nên sản phẩm của cháu hoàn thành chậm. Từ đó tôi có hướng giúp cháu nâng dần mức độ tiến hành nhanh hơn bằng những mẹo nhỏ như khi tô màu nếu trên bức tranh có nhiều chỗ cần tô mãng màu đó thì sẽ tô cho hết màu đó xong đổi lấy màu kác và tiếp tục tô như thế. Bên cạnh sự tác động hỗ trợ của nhà trường, cô giáo, thì một thành phần không thể thiếu đó chính là các bậc phụ huynh. Muốn cho con em phát triển một cách hài hoà và toàn diện thì sự kết hợp hài hoà giữa nhà trường và gia đình cũng rất quan trọng, nó giúp cho trẻ ngày càng được tiến bộ hơn và phát triển năng lực hơn khi được rèn luyện thường xuyên và đồng bộ. Ở các buổi họp phụ huynh cũng như những lần đón- trả trẻ tôi cũng đã trao đỗi với phụ huynh về tình hình học tập cũng như khả năng của trẻ và tầm quan trọng của bộ môn tạo hình đối với trẻ cho phụ huynh thấy rõ, để từ đó có hướng phối hợp cùng nhà trường giúp trẻ học tốt hơn bằng cách mua sắm các sách tô màu, vẽ, bút màu, đất nặn… để luyện tập thêm cho trẻ trong thời gian ở nhà. VD: Nhân ngày mồng 8/3 các con có muốn gửi đến mẹ và bà những bó hoa tươi thắm không nào? Bây giờ cô cùng các con hãy cắt dán những bông hoa thật đẹp đểmang về tặng cho bà và mẹ của mình nhé. ( Cô cho trẻ mang sản phẩm của mình tặng mẹ khi ra về) Với thực tế đa số phụ huynh là những người buôn bán, tầm hiểu biết của họ vẫn còn ở mức độ đơn giản và chưa chú trọng đến việc học của con trẻ, đối với họ trẻ mầm non chỉ biết hát và đọc thơ thế là đủ, thì việc lôi cuốn sự tham gia phối hợp của phụ huynh mang một hiẹu quả cao rất khó. Vì thế, để cho họ thấyđược nănglực thật sự của đứa trẻ thì trong lớp tôi cũng tạo ra những mãng để trưng bày sản phẩm của trẻ cũng như triển lãm những bức tranh đẹp, thu hút sự chú ý của các bậc phụ huynh, từ đó có thể tiếp cận trao đổi thông tin một cách thân thiện, và thường xuyên thăm hỏi cách thức phụ huynh hướng dẫn cho trẻ ở nhà để nắm được những khó khăn họ mắc phải để cùng nhau gỡ những vướng mắc đó, còn về phần cô sẽ hiểu sâu thêm một số đặc điểm của trẻ hơn để có hướng khắc phục. III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Với những biện pháp như trên tôi đã vận dụng vào tình hình thực tế một cách hợp lí và kết quả mang lại cho trẻ trong giờ hoạt động tạo hình đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ: – Gần cuối năm học trẻ lớp tôi có những chuyển biến rõ nét, hầu hết các tiết tạo hình 100% trẻ đều hoàn thành sản phẩm. – Tôi đã chọn ra những cháu có năng khiếu để bồi dưỡng thêm và kết hợp với phụ huynh có hướng bồi dưỡng năng khiếu của trẻ. – Một số cháu tuy chưa học qua MGB nhưng cũng đã theo kịp các bạn trong lớp và thậm chí có khả năng tạo hình tốt hơn một số bạn đi trước. – Góc tạo hình đã có nhiều tranh của nhiều cháu và các sản phẩm bằng đất nặn làm cho phụ huynh phấn khởi và yên tâm hơn. Vì thế mà phụ huynh đã có những cách nhìn nhận tốt hơn về năng lực của con em mình. Từ đó, có những đóng góp tích cực đối với các hoạt động của lớp, sưu tầm đồ dùng, đồ chơi giúp đỡ và phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để giúp trẻ ngày càng tiến bộ hơn. IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Qua việc tạo môi trường cho trẻ hoạt động tạo hình với một số biện pháp và kết quả đạt được, bản thân tôi rút ra được bài học kinh nghiệm sau: – Cần cho trẻ hoạt động trong môi trường nghệ thuật phong phú. – Giáo viên phải có khả năng tìm tòi, sáng tạo ra những cái mới để tạo ra những sản phẩm đẹp mắt mang tính thẩm mĩ cao và phù hợp với nhận thức của trẻ, qua đó thu hút sự chú ý của trẻ và tạo nguồn cảm hứng cho trẻ làm theo. – Cho trẻ tiếp xúc với các sản phẩm công mỹ nghệ, các bức tượng, phù điêu. Tìm kiếm các loại tranh phong cảnh, tranh đồ hoạ và tranh dân gian cho trẻ quan sát, từ đó làm giàu vốn biểu tượng của trẻ hơn. – Giáo viên phải biết sử dụng đồ dùng trực quan linh hoạt, đúng lúc tránh lạm dụng, ôm đồm. – Biết tích hợp lồng ghép nhẹ nhàng chuyên đề vào các hoạt động mọi lúc mọi nơi. – Giáo viên phải biết phối hợp chặt chẽ với phụ huynh. – Luôn tìm tòi học hỏi qua sách báo, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua chị em đồng nghiệp. – Luôn tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên đề thông qua dự giờ đồng nghiệp và việc tiếp thu chuyên đề do nhà trường tổ chức. – Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động tổng hợp mang tính nghệ thuật: ngày hội, lễ, hoạt động sân khấu. Ngoài ra, tổ chức các cuộc dạo chơi trong thiên nhiên, tạo điều kiện phát triển ở trẻ óc thẩm mỹ, sáng tạo. – Sử dụng các đò dùng hằng ngày có các yếu tố trang trí, có chất lượng thẩm mĩ cao: màu sắc tươi sáng, hình dáng sinh động, bắt mắt và gây hứng thú cho trẻ. Trẻ em để lĩnh hội một tri thức đầy đủ và toàn diện thì đòi hỏi ở trẻ có một trạng thái tâm lý thoải mái và an toàn. Vì vậy, là một cô giáo Mầm non chúng ta cần phải biết yêu thương, đùm bọc, che chở và tôn trọng trẻ, từ đó trẻ thấy mình thực sự được an toàn và nó tích cực tham gia vào hoạt động và lĩnh hội tri thức một cách trọn vẹn. Nhờ đó mà trẻ rèn luyện kỹ năng tạo hình và phát huy được tính sáng tạo, chủ động tích cực theo cách riêng của mình. Lúc này chúng ta mới thực sự đưa hoạt động tạo hình của trẻ đạt đến mức độ hoạt động Nghệ Thuật. Đó là: “ Nghệ thuật của trẻ thơ” hoạt động lấy trẻ làm trung tâm. Trong tất cả các lĩnh vực hoạt động ở trường Mầm non lĩnh vực nào cũng quan trọng, đó là yếu tố giúp trẻ phát triển nhân cách một cách hài hoà và toàn diện giúp trẻ bước vào đời. Vì vậy chúng ta phải hết sức quan tâm để nâng cao chất lượng giáo dục ở bậc học, tạo một môi trường lành mạnh, một tâm thế tốt cho trẻ có những hứng thú khi đến trường và thực sự mang tính chất là một trường học thân thiện. Trên đây là những biện pháp giúp trẻ học tốt bộ môn tạo hình mà bản thân tôi tự đúc rút ra. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi sự thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo để sáng kiến của tôi được hoàn thành tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. sáng kiếnkinhnghiệm bảo vệ môi trường mầmnon sang kien kinh nghiem mam nonhay sang kien kinh nghiem mam nonnam 2013 sang kien kinh nghiemam nhacmam non sang kien kinh nghiem mam nonnam 2011 sang kien kinh nghiem mam non24-36 thang sang kien kinh nghiem mam non2012 sang kien kinh nghiem mam nonlop 3 tuoi Gửi bởi Hà Vũ in SKKN mầm non sáng kiến kinh nghiệm Hoạt động tạo hình ở trường Mầm non
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.4 KB, 14 trang ) phần I: mở đầu xúc. Thẩm mỹ và tính kiên trì bền bỉ, khéo léo nay rât quan trọng bởi tình yêu đối với cái đẹp là bậc cao của con ngời tình cảm đó không phải là bẩm sinh, không có sẵn trong mỗi con ngời từ khi lọt lòng mẹ. Một em bé sẽ không có đợc tình yêu cái đẹp nêu chúng ta không tạo điều kiện để em bé đó đợc tiếp xúc vơi nhiều cái đẹp xung quanh, không làm cho những đặc điểm sinh động, phong phú của các sự vật hiện tợng lọt vào các giác quan của trẻ để trẻ dễ chịu. Nếu chúng ta không biết khêu gợi ở các em về cảm xúc tốt lành về con ngời và làm thức dạy trong em những gì thân thiết gần gũi khi tiếp xúc với cái đẹp. - ở trờng Mầm non từ nhiều năm nay, hoạt động tạo hình là một môn học chính, bao gồm nhiều hoạt động nh: vẽ, nặn, cắt, xé, dán. Đây là một môn học đ- ợc ngành học rất quan tâm và đạt thành chuyên đề cho những năm học sau. - Ngành giáo dục - Đào tạo rất quan tâm tới hoạt động tạo hình đã chỉ đạo cho ngành học mấm non đi sâu vào chuyên đề này. Mở các cuộc thi: Giáo viên giỏi chuyên đề tạo hình và các cuộc thi Bé khéo tay các cấp cho trẻ. Đặc biệt đã thực hiện trong bộ môn này trong chơng trình bồi dỡng chuyên môn nghiệp vụ. Vì thế trờng Mầm non số I đã rất quan tâm, đầu t về cơ sở vật chất trang thiết bị tài liệu, bồi dỡng đội ngũ giáo viên, vận động phụ huynh giúp đỡ về cơ sở vật chất để thực hiện môn hoạt động tạo hình. Xong kết quả ở một số tiết cha cao. Trẻ thực hiện ở mức độ khá giỏi ít, thực hiện đạt yêu cầu còn nhiều. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp tôi chọn đề tài này để nghiên cứu, mong muốn qua thực hiện tìm ra đợc những phơng pháp, biện pháp hay, tích cực góp phần nâng cao chất lợng giáo dục trong trờng Mầm non. II. Mục đích nghiên cứu 2 - Tôi quyết định chọn đề tài này với mục đích bớc đầu tìm hiểu thực trạng của hoạt động tạo hình và áp dụng các phơng pháp trong việc dạy tạo hình để nâng cao chất lợng dạy hoạt động tạo hình ở trẻ mẫu giáo. Từ đó vận dụng những những kiến thức có sẵn và qua học hỏi để nghiên cứu và áp dụng phơng pháp vào môn tạo hình nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh phù hợp với mục đích giáo dục và trình độ nhận thức của trẻ nhà trẻ . Iii. Nhiệm vụ nghiên cứu 1. Nghiên cứu lý luận. - Tìm hiểu cơ sở lý luận về sự hứng thú và đặc điểm nhận thức của trẻ về phơng pháp dạy hoạt động tạo hình và xếp hình. 2. Nghiên cứu thực nghiệm - Thực trạng của việc áp dụng các phơng pháp trong môn tạo hình và hứng thú của trẻ với môn học. 3. Nghiên cứu việc ứng dụng: - Đề xuất các biện pháp thông qua việc nghiên cứu, đánh giá đúng để rút ra kết luận, tìm ra đợc những biện pháp hay, phơng pháp dạy tích cực, tác động tốt đến trẻ góp phần nâng cao chất lợng giảng dạy và phát huy hết khả năng ở trẻ. IV. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tợng nghiên cứu: Hoạt động tạo hình cho học sinh mầm non lớp 5 - 6 tuổi . 2. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 5 - 6 tuổi - Trờng Mầm non số 1 - Thị trấn Than Uyên V- Các phơng pháp nghiên cứu: - Phơng pháp điều tra, khảo sát thực nghiệm. - Phơng pháp nghiên cứu lý luận. - Phơng pháp so sánh. - Phơng pháp thống kê. 3 - Phơng pháp ứng dụng thực nghiệm giáo dục. - Phơng pháp đánh giá kết quả. phần iI: Nội dung I - cơ sở lí luận của đề tài. 1. Vài nét về nghệ thuật tạo hình. - Nghệ thuật tạo hình là môn gọi chung cho một nhóm tạo hình sáng tác nghệ thụât, nhằm tái hiện hiện thực cuộc sống, con ngời và thiên nhiên, đợc cảm thụ bằng các giác quan và sự cảm nhận tinh tế bằng màu sắc, đờng nét thông qua chủ đề sáng tạo nhất định, cải tạo nó theo quy luật của sáng tạo, gửi gắm vào đó tâm hồn của ngời nghệ sỹ tạo ra những giá trị thẩm mỹ cho xã hội. Chúng đợc tồn tại trong không gian và thời gian. Là một trong những con đờng làm phong phú sự tiếp xúc của con ngời với hiện thực nhằm tìm hiểu hiện thực thế giới khách quan. - Hoạt động tạo hình là một loại hình nghệ thuật hấp dẫn đối với trẻ. Đã đ- ợc xếp vào trong chơng trình học tập của trẻ ở trờng mầm non. Đó là phơng tiện quan trọng trong giáo dục thẩm mỹ và có tác dụng to lớn trong việc hình thành nhân cách cho trẻ ở lứa tuổi mầm non. Phát triển ở trẻ khả năng cảm thụ và cảm xúc thẩm mỹ. Bồi dỡng thị hiếu thẩm mỹ, hình thành tình yêu với cái đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống, con ngời và nghệ thuật, phát triển trí nhớ, trí tởng tợng, sáng tạo của trẻ. Có thể nói không có trẻ nào lại không thích ngắm nhìn những bức tranh, những đồ vật trang trí đẹp. Đặc biệt trẻ thích tự ngắm nhìn những sản phẩm do chính trẻ làm nh vẽ hay nặn ra còn ngời, con vật hay những đồ vật và tự cho là đẹp. Chúng ta thờng hay bắt gặp những Hoạ sỹ tí hon say sa ngồi hàng giờ, chúng vẽ la liệt khắp nơi nh trên giấy, trên bảng, trên tờng, trên nền nhà bằng các phơng tiện nh phấn, than, bút chì, bút sáp Và qua những sản phẩm thể hiện t duy còn đơn giản, nông cạn, đờng nét nguệch ngoạc, méo mó, cho ta thấy 4 nhận thức t duy của trẻ còn hạn chế. Nhng ta thấy trong các tác phẩm của trẻ đã bộc lộ tính t duy của trẻ và đem đến cho chúng ta sự bất ngờ thú vị bởi cái ngộ ngĩnh, ngây thơ đáng yêu trong những đờng nét nguệch ngoạc màu sắc loè loẹt ấy chính là bớc khởi đầu của sự tạo ra cái đẹp. - Nguồn cảm hứng vẽ đẹp trong thiên nhiên, trong xã hội và tình yêu cuộc sống đã giúp trẻ có đợc những xúc cảm, tình cảm tốt. Trên cơ sở đó trẻ bộc lộ những t tởng, tình cảm, trí nhớ, trí tởng tợng sáng tạo bằng những đờng nét hình học đơn giản có tính khái quát cao. Sản phẩm của trẻ đợc tạo ra bằng nguồn cảm hứng say mê sáng tạo. Tất cả những cảm xúc tình cảm ở trẻ đều đợc phản ánh, thể hiện rõ rệt qua các sản phẩm của mình. Bởi trong tâm trí trẻ mọi sự vui buồn, hờn giận, yêu gét, đều đợc thể hiện rõ ràng, vì thế sản phẩm của trẻ bộc lộ rõ ấn tợng cảm xúc và cách nhìn nhận với lôgíc riêng của trẻ đối với vẻ đẹp đa dạng, phong phú của thế giới xung quanh. Vì vậy hoạt động tạo hình trong trờng mầm non có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ trong hoạt động tạo hình là sự khai thác những mặt mạnh của loại hình nghệ thuật. Để giáo dục cho học sinh đặc biệt là giáo dục trẻ nhỏ về cách nhìn nhận đánh giá cái đẹp, sự say mê, sáng tạo ra cái đẹp, có lẽ không một loại hình nghệ thuật nào mà kích thích đợc tính sáng tạo của trẻ bằng hoạt động tạo hinh. Trẻ luôn say mê hứng thú nhng cha có ý thức đầy đủ trong việc sáng tạo ra cái đẹp trong sảm phẩm của mình một cách đầy đủ. Do đó trẻ cần đợc hớng dẫn hoạt động tạo hình ngay từ lúc còn nhỏ. Mà việc đầu tiên là việc tạo điều kiện để trẻ xem nhiều tác phẩm có giá trị. Những bức tranh là biểu hiện tập trung vẻ đẹp cuộc sống quanh ta đợc ngời nghệ sỹ chắt lọc và thể hiện một cách tinh tế trong tác phẩm. Xem tranh đẹp giúp cho việc hình thành trong tâm hồn trẻ nhỏ những tình cảm thiết tha đối với thiên nhiên và con ngời. 2, Các phơng pháp hớng dẫn tạo hình trong trờng mầm non: a) Phơng pháp trực quan: 5 - Là phơng pháp cho trẻ quan sát trực tiếp đối tợng bằng các giác quan nh tri giác, xúc giác; giúp trẻ tri giác đầy đủ hoàn thiện khắc sâu trí nhớ về sự vật hiện tợng. a1) Sử dụng tranh mẫu: Tranh mẫu đợc sử dụng nhiều trong dạy vẽ, cắt, dán, xé dùng tranh để cho trẻ quan sát, tranh mẫu phải có kích thớc phù hợp, đẹp và nội dung phù hợp với yêu cầu giáo dục trẻ. - Khi sử dụng tranh mẫu cô phải treo nửa tầm quan sát của trẻ, cô phải phân tích tranh, nhân vật, hình thức thể hiện, bố cục, mầu sắc Cô có thể cùng trẻ đàm thoại để tìm hiểu, khái quát cảm xúc của trẻ về bức tranh. a2) Sử dụng mô hình mẫu: Thờng đợc sử dụng nhiều nhất trong các tiết học nặn, thì những mẫu nặn cho trẻ quan sát đó chính là mô hình. Mô hình mẫu cũng có thể sử dụng cho các loại hình tạo hình thù nh xâu hạt, xếp hình, gấp, đan giấy, có thể dùng giới thiệu cho bài vẽ mô hình mẫu là sự mô phỏng lại hình khối, mầu sắc của vật thể bằng nhiều chất liệu khác nhau. Ví dụ: - Đất nặn, gỗ, nhựa, vải mô hình mẫu tuỳ theo yêu cầu của từng bài và ở từng đối tợng mà chúng ta đơn giản cách điệu từ những hình khối cơ bản ghép lại hay giữ nguyên vật thật. Không nên sử dụng mô hình quá nhỏ, khi sử dụng vật mẫu nơi có đủ ánh sáng và vừa tầm quan sát của trẻ. a3) Thao tác mẫu của cô: Chủ yếu sử dụng trong thể loại hoạt động tạo hình theo đề tài. Mục đích giúp trẻ nắm đợc các chức năng để thể hiện, tạo hình và phơng pháp thể hiện sản phẩm. Cô thao tác phải chính xác, rõ ràng, thuần thục, trong thể hiện mẫu khi trình bầy kỹ năng cô phải làm chậm, dứt khoát và phải có lời phân tích diễn giải. Những kỹ năng ôn cô có thể gọi trẻ trình bầy lại thao tác nhanh hơn. - Một số kỹ năng khó hoặc mới, một số biểu tợng khi thấy cần thiết nhng cô phải thao tác nhanh và không cần phân tích kỹ. Khi làm thao tác cô phải để trẻ nhìn rõ, sắp xếp chỗ ngồi sao cho hợp lý hoặc cô có thể dùng mặt bảng để làm thao tác. VD: Nặn, dán mẫu: 6 a4) Sử dụng vật thật: Trong các tiết học cô có thể sử dụng vật thật cho trẻ quan sát, giúp cho trẻ tri giác một cách cụ thể cấu trúc của vật thể đó và có biểu tợng thực của nó. Thờng cô chỉ sử dụng trong phần giới thiệu bài cho trẻ để gây cảm xúc thật. ở ngoài tiết học cô có thể cho trẻ quan sát vật thât để trẻ quan sát. b. Phơng pháp sử dụng lời nói. b1) Phơng pháp thuyết trình giảng giải: Là phơng pháp dùng lời nói để gợi mở, dẫn dắt phân tích giải thích giúp trẻ nắm bắt đợc những vấn đề cần truyền đạt. ở phơng pháp này thông tin dợc truyền đạt bằng lời nói đến ngời lĩnh hội thông tin. Trong các tiết học ở trờng mầm non phơng pháp này đợc dùng để giới thiệu bài gợi cảm xúc, giải thích theo thiên nhiên hay giải thích theo các mẫu. b2) Phơng pháp vấn đáp: Là phơng pháp một ngời đặt ra câu hỏi để ngời khác suy nghĩ trả lời theo từng câu hỏi. Phơng pháp này sử dụng tìm hiểu khai thác hoặc kiểm tra đối tợng và đợc sử dụng trong các tiết dạy ở trờng mầm non. VD: - Khai thác khả năng quan sát, khả năng t duy, nhận biết của mình theo gợi ý của cô giáo, câu hỏi của cô phải ngắn gọn dễ hiểu, phù hợp với trẻ, không nên đặt ra những câu hỏi chung chung. Khi đặt ra câu hỏi thì cô cần phải chuẩn bị trớc câu trả lời,khi trẻ trả lời cha chính xác cô có thể giúp trẻ trả lời. b3) Phơng pháp đàm thoại. Cô cùng trẻ trao đổi nội dung đề tài, cần sắp xếp bố cục mầu sắc để tạo ra một sản phẩm đẹp . Cô có thể dùng hệ thống các câu hỏi có tính chất gợi ý giúp cho trẻ suy nghĩ và tự trình bầy ý tởng của mình. Trong quá trình đàm thoại, cô luôn phải tôn trọng ý kiến của trẻ, khi trẻ cha hiểu hết vấn đề cô có thể gợi ý cho trẻ. Khi trẻ đa ra những ý tởng vợt qua khả năng của trẻ thì cô giúp trẻ chuyển hớng sang đề tài khác phù hợp với trẻ hơn. Khi diễn ra quá trình trao đổi giữa cô và trẻ trẻ có thể đa ra câu hỏi để cô giáo giải thích về những vấn đề mà trẻ cha hiểu. Với phơng pháp này sẽ giúp trẻ t duy tốt hơn về môn tạo hình. 7 c. Phơng pháp luyện tập ( Thực hành ). Là phơng pháp hớng dẫn trẻ rèn luyện những kỹ năng thao tác, cảm xúc t duy để trẻ có thể hoàn thành tốt sản phẩm của mình. Phơng pháp: + Rèn luyện kỹ năng quan sát: Trớc hoặc trong khi học bao giờ cũng phải quan sát các sự vật hiện tợng, mầu săc nhằm giúp trẻ tri giác các đối tợng nhằm giúp trẻ có trí tởng tợng về hoạt động tạo hình. + Cô giáo hớng dẫn trẻ trong quá trình quan sát: Quan sát từ tổng thể đến chi tiết về hình dạng, cấu tạo, mầu sắc sau đó cô đa ra câu hỏi nhằm giúp trẻ t duy tốt hơn. + Rèn luyện thao tác kỹ năng tạo hình: Để có sản phẩm đẹp cô giáo phải giúp các em để các em có thêm trí tởng tợng về sản phẩm mình vẽ cả về kỹ năng, kỹ xảo. Trớc hết thao tác hớng dẫn mẫu của cô phải chính xác rõ ràng, dễ hiểu, đặc biệt là trong thể loại tạo hình mẫu. Trẻ nắm đợc trình tự công việc và các thao tác thể hiện trên cơ sở đó trẻ tự rèn luyện, tìm ra cách thể hiện một cách sáng tạo độc lập. Trong quá trình trẻ luyện tập cô luôn gợi ý khuyến khích trẻ tuyệt đối không làm hộ trẻ. Tạo điều kiện cho trẻ làm ở mọi lúc mọi nơi: Trong tiết học, giờ ra chơi d) Phơng pháp đánh giá kết quả: - Thờng ở cuối mỗi giờ học cô giáo bao giờ cũng phải tiến hành nhận xét đánh giá giờ học và sản phẩm của trẻ. d1) Nhận xét sản phẩm: Đây là một bớc rất quan trọng trong một tiết học tạo hình vì nó thể hiện bằng những sản phẩm cụ thể. Cô giáo cần lu ý những vấn đề sau: + Hình thức tổ chức đánh giá nhận xét cô rèn cho trẻ tự giới thiệu sản phẩm của mình và nhận xét bài của bạn thông qua sự gợi ý của cô giáo. ở thể loại theo mẫu không cần trẻ giới thiệu sản phẩm của mình và thể loại đề tài và đặc biệt ở thể loại theo ý thích cô nên khuyến khích cho trẻ tự giới thiệu bài của mình. 8 + Nội dung nhận xét đánh giá: Nội dung chủ đề t tởng của sản phẩm, hình ảnh hình tợng thể hiện bố cục, màu sắc kỹ năng, sự sáng tạo. d2) Nhận xét đánh giá kết quả giờ học: - Thờng đợc thực hiện sau khi nhận xét sản phẩm của trẻ cô cần nhận xét một số mặt sau: ý thức học tập, kết quả sản phẩm kết quả của từng cá nhân và của cả lớp. II. Thực trạng các tiết dạy hoạt động tạo hình của trờng mầm non: 1. Đặc điểm tình hình của lớp: - Là một lớp học thuộc trờng Mầm Non số 1 - Thị trấn Than Uyên. Tổng số 37 trẻ, chia ra: Nam = 18, Nữ = 19. - Giáo viên: Hai giáo viên trên 1 lớp, trình độ: Cao đẳng: 01, Trung cấp 01, thực hiện giảng dạy theo chơng trình đổi mới. - Nhà trờng đã đợc trang cấp các trang thiết bị về cơ sở vật chất nh bàn ghế, sách vở, giấy vẽ và các đồ dùng để thực hiện chơng trình nh đất nặn, bút vẽ màu, bảng vẽ khá đầy đủ. 2. Kết quả nghiên cứu về hoạt động tạo hình: - Để nhận định rõ về vấn đề này tôi đã tiến hành điều tra kiến thức của trẻ trong các giờ tạo hình: Theo mẫu, ý thích từng loại: Vẽ, nặn, xé, dán, qua thực tế tôi thấy: Trẻ rất hứng thú học nhng kết quả còn có những mặt hạn chế. Vì vậy bản thân tôi phải tìm kiến thức mới lạ, sáng tạo có hiệu quả cao trẻ hứng thú học hơn. a) Đối với các tiết dạy theo mẫu: Để có biện pháp nâng cao chất lợng của các tiết dạy theo mẫu phải thờng xuyên cho trẻ làm quen tác phẩm tạo hình một cách khoa học giúp trẻ hiểu đợc nội dung của tác phẩm, làm phong phú vốn biểu tợng cho trẻ vì thế cô cần cho trẻ quan sát nhiều mở rộng tầm nhìn và vốn hiểu biết cho trẻ. Trong các giờ dạy theo mẫu cô giáo sử dụng phơng pháp trực quan hình tợng cho trẻ quan sát cẩn thận tranh mẫu qua đó đồ dùng của cô rất phong phú để sử dụng nh thế nào có thể phát huy hết tác dụng của mẫu cô cần có sự 9 truyền đạt hấp dẫn lôi cuốn trẻ, đặc biệt là các thủ thuật gây hứng thú có tác dụng kích thích trẻ tập trung vào bài học. 3. Đối với các tiết dạy tạo hình theo ý thích: - Đây là loại bài mà trẻ dùng cách kiến thức kỹ năng sẵn có để thể hiện những ý tởng thông qua sản phẩm của mình. Từ ý thức của trẻ cô khuyến khích và gợi ý cho trẻ hình dung đợc những biểu tợng và tìm ra những kỹ năng thể hiện sản phẩm. Đối với loại tiết này vai trò của giáo viên rất quan trọng. Ví dụ 1: Nặn theo ý thích . - Cô gợi cho trẻ trí nhớ kể về những gì trẻ đã đợc học qua những giờ nặn mẫu hoặc đã thấy, quan sát đợc ở ngoài giờ học. Những nhận xét này của trẻ rất quan trọng bở vì trẻ càng nhận xét tinh vi bao nhiêu càng gợi cho trẻ cảm xúc thực sự từ đó trẻ sẽ sáng tạo có t duy tốt hơn. - Trong giờ học này nếu nh sự gợi mở, dẫn dắt của cô không khéo, không sáng tạo sẽ không gây cho trẻ tính tích cực sáng tạo và sản phẩm làm ra rất đơn giản. Đối với tiết dạy này sự gợi ý của cô là rất ít cô cho trẻ xem một số mẫu và yêu cầu trẻ nặn lại - nh vậy trẻ sẽ không nghĩ ra đợc cái gì khác ngoài những vật mẫu mà cô cho xem nên dù phơng pháp có tiến hành đầy đủ các bớc nhng lời dẫn dắt của cô tẻ nhạt khô khan thì dẫn đến trẻ làm việc không có hiệu quả, không có hứng thú sản phẩm làm ra không có tính sáng tạo. Ví dụ 2: Vẽ theo ý thích: - Với loại bài này cô sẽ nói chuyện với trẻ về những điều trẻ thích: Cây cối, hoa quả, con vật Hớng trẻ nói về màu sắc hình dáng của chúng theo ý hiểu của trẻ. Khuyến khích trẻ làm những kỹ năng vẽ đơn giản, phù hợp với bài nh những nét xiên, nét thẳng, nét cong để tạo nên bức tranh đẹp và tạo nên cho bức tranh. Sản phẩm của trẻ muôn hình muôn vẻ cô gợi ý cho trẻ nói lên ý định của mình thể hiện trên bức tranh đó đồng thời cô cần khen ngợi động viên kịp 10 thời. Nhìn chung tiết học tạo hình theo ý thích đòi hỏi cô dẫn dắt một cách khéo léo linh hoạt. Ví dụ 3: Xé dán theo ý thích: - Trẻ đã hoàn thành sản phẩm của mình cô hỏi về ý tởng của trẻ trong bức tranh, nội dung bức tranh mà trẻ thể hiện khuyến khích trẻ đặt tên cho bức tranh của mình để động viên khuyến khích trẻ cô giáo phải có nghệ thuật khéo léo, động viên trẻ sáng tạo theo ý thích của mình. 4. Vài nét về sự hứng thú của học sinh. - Khi ta nói một học sinh thật sự có hứng thú với hoạt động tạo hình là ta đã thừa nhận trẻ có ý thức và hiểu rõ ý nghĩa của môn học đối với bản thân mình qua quá trình tiếp xúc với đối tợng học thì bản thân trẻ mới thấy đợc ý nghĩa của môn học từ đó tạo cho trẻ có đợc sự say mê hứng thú và trở thành nhu cầu. Khi đó sẽ trở nên bền vững và sâu sắc ở lứa tuổi mầm non. Hứng thú không bao giờ hình thành xuất phát từ việc thấy ý nghĩa của việc học tập thích thú theo quan niệm của trẻ và theo sự cảm nhận của trẻ. Nh vậy chúng ta thấy: - Với trẻ tạo hình không phải là một việc nặng nhọc mà tạo hình sẽ giúp trẻ thoải mái, vui vẻ, trẻ đợc hoạt động tạo hình sẽ xuất hiện những ý tởng mới phát minh mới. Sự hứng dẫn của cô tác động đến trí tuệ tình cảm của trẻ góp phần làm cho tâm hồn của trẻ thêm phong phú. Hoạt động tạo hình tạo ra sự thoải mái vui vẻ ở trẻ gây không khí đoàn kết, làm cho trẻ không bị ức chế trong quá trình lâu dài. Học sinh sẽ đực củng cố kiến thức Học mà chơi, chơi mà học . iii- Những kết quả điều tra khảo sát thực trạng: - Qua thời gian dạy học và khi trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp và trực tiếp hớng dẫn trẻ tôi nhận thấy. 11 + So với các môn học khác nh: âm nhạc, môi trờng xung quanh khả năng học tạo hình của trẻ không cao hơn. Do môn tạo hình đòi hỏi trí thông minh, tởng tợng sáng tạo và sự khéo léo kiên trì khi thực hiện. + Đa số trẻ thờng thích môn tạo hình vì sản phẩm do chính trẻ tạo ra. Iv. Các giải pháp: - Hớng dẫn trẻ hoạt động taọ hình thông qua các tiết học ở trờng mầm non và qua kinh nghiệm thực tê dự các loại tiết học tôi thấy: - Nhìn chung giáo viên đều nắm vững nội dung phơng pháp và chơng trình dạy, xong việc vận dụng các phơng pháp, thủ pháp vào trong các tiết dạy hiệu quả còn cha cao giáo viên đã chú ý làm thế nào để nâng cao chất lợng của trẻ nh- ng do một số yếu tố chủ quan và khách quan nên kết quả giờ học còn ở mức độ khác nhau, có cô giáo có năng khiếu tạo hình nhng khả năng ngôn ngữ và s phạm lại hạn chế, cô làm đẹp, trình bày đẹp các mẫu, biết nhìn nhận đánh giá sản phẩm của trẻ nhng cô không biết cách trình bày sao cho trẻ hiểu, không giải thích đợc rõ ràng từng thao tác hay yêu cầu của cô. Giáo viên có trình độ chuyên môn vững thờng biết tìm ra cho mình những thủ thuật vào phong cách dạy riêng, lôi cuốn thu hút trẻ. Những giáo viên này thờng kết hợp rất khéo léo các phơng pháp, thủ pháp và tích hợp đợc nhiều nội dung trong khi học nh Toán, Văn học, Môi trờng xung quanh nên kết quả đạt đợc rất khả quan. - Cô giáo cần có sự chuẩn bị chu đáo luyện tập kỹ càng bình tĩnh, tự tin, có sự ứng xử linh hoạt của cô bên cạnh đó cơ sở vật chất cũng là một yếu tố không nhỏ từ những đồ dùng, đồ chơi sẵn có sẽ làm cho sự chuẩn bị của cô về đồ vật và các giờ học thêm phong phú sinh động. Phần iii: Kết luận và kiến nghị - Qua thực tế nghiên cứu và giảng dạy tôi thấy hoạt động taọ hình là một phơng pháp - hình thức tổ chức dạy học, góp phần phát huy tính tích cực của trẻ. Bởi học sinh mầm non mang tính đặc trng Học mà chơi, chơi mà học . Tiết tạo hình giúp trẻ phát huy tính sáng tạo vốn có của trẻ. 12 Tóm lại: - Cô giáo là ngời trực tiếp đào tạo thế hệ con ngời mới xã hội chủ nghĩa. Mỗi ngời giáo viên chúng ta đều phải cố gắng hết mình ở mọi lĩnh vực, mọi hình thức, hãy không ngừng say mê học hỏi những kiến thức mới lạ, tìm tòi sáng tạo, cố gắng trau dồi các kinh nghiệm giảng dạy sao cho bài dạy ngày càng hay hơn, chất lợng tiết dạy ngày càng tốt hơn. Đáp ứng đợc nhu cầu của xã hội ngày càng đổi mới và tiến bộ nhằm chuẩn bị cho trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con ngời mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1. Kết luận: - Sau khi thực hiện sáng kiện đổi mới mặc dù còn nhiều hạn chế cần phải rút kinh nghiệm và tiếp tục nghiên cứu để ứng dụng vào thực tiễn lớp học. Tôi nhận thấy việc đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cho bản thân tôi củng cố thêm lòng nhiệt huyết thêm yêu trẻ. Đợc sự động viên của Ban Giám hiệu, của tổ chuyên môn, Tôi có thêm niềm phấn khởi để tiếp tục học hỏi nghiên cứu, tìm ra đợc những hình thức mới để tránh sự nhàm chán, lặp lại, trong các tiết dậy. Thực hiện chơng trình đổi mới, học sinh không còn thấy khó khăn, gò bó trong các môn học, nhất là môn giáo dục tạo hình, mà tạo cho trẻ thấy yêu thích bộ môn hơn. Khi thực hiện sáng kiến, học sinh của lớp do tôi phụ trách tự tin, nhanh nhẹn, hoạt bát hơn, trẻ đợc phát triển ngôn ngữ t duy, rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay, từ đó trẻ hứng thủ với các môn học khác, và thích khám phá thế giới gần gũi xung quanh trẻ hơn. 2. Kiến nghị: 2.1 Đối với học sinh: - Cần phải rèn luyện ở mọi lúc mọi nơi - Cần có đồ dùng sáng tạo của cô 2.2 Đối với Phụ huynh: - Hiểu sâu sắc hơn về ngành học mầm non 13 2.3 Đối với các cấp, các ngành có liên quan: - Tăng cờng cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục cho các trờng mầm non, nhằm nâng cao chất lợng dạy và học cho học sinh. - Quan tâm giúp dỡ tạo điều kiện để việc thực hiện chuyên đề giáo dục tạo hình, cũng nh các chuyên đề khác ở trờng mầm non đạt chất lợng cao. Trên đây là một số kinh nghiệm, mà bản thân tôi đã đúc rút đợc trong quá trình giáo dục tạo hình cho học sinh mầm non, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và trình bày còn nhiều hạn chế, rất mong đợc sự đóng góp của các đồng nghiệp về kinh nghiệm, để chuyên môn của tôi đợc hoàn thiện hơn./. Than Uyên, ngày 12 tháng 10 năm 2008 Ngời viết Bùi Thị Phơng Hồng 14 SKKN Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo nhỡ học tốt môn tạo hình
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.56 KB, 26 trang ) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3.7. Tích hợp tạo hình thông qua hoạt động góc…….………… 16 3.8. Hướng dẫn trẻ học tạo hình mọi lúc, mọi nơi……………… 18 3.9. Dạy trẻ tạo hình thông qua hướng dẫn trẻ làm đồ chơi…….… 18 3.10 Bồi dưỡng các đối tượng yếu kém và có năng khiếu tạo hình 19 4. Kết quả đạt được……………… …………………… 20 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận………………………… ………………………… 21 2. Kiến nghị………… …………………………… …………………………22 PHỤ LỤC Tài liệu tham khảo……………………… ……………… ………………….23 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài: Phát triển thẩm mỹ là một trong năm lĩnh vực giáo dục toàn diện cho trẻ Mầm non. Trong đó hoạt động tạo hình đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp phát triển cho trẻ về mọi mặt như: thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ, thể lực và lao động. Hoạt động tạo hình là một hoạt động học tập mang tính nghệ thuật, ở đó trẻ sử dụng ngôn ngữ đặc trưng riêng của nó: màu sắc, hình khối, đường nét, bố cục để phản ánh, miêu tả, từ đó giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh và phản ánh thế giới thông qua các hình tượng nghệ thuật. Hoạt động tạo hình trong trường mầm non với mục đích giúp trẻ nhận ra vẻ đẹp của các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ, từ đó giáo dục trẻ biết ứng xử với cái đẹp, làm nảy sinh cho trẻ nhu cầu tái tạo và sáng tạo ra cái đẹp. Cũng như các hoạt động khác, hoạt động tạo hình cung cấp cho trẻ các biểu tượng về sự vật hiện tượng, phát triển thể lực cho trẻ, giáo dục đạo đức và kỹ năng giao tiếp xã hội, kỹ năng lao động cho trẻ. Trẻ mầm non có tâm hồn nhạy cảm với thế giới xung quanh bởi thế giới xung quanh chứa đựng bao điều mới lạ hấp dẫn. Trẻ thường tỏ ra dễ xúc cảm với cảnh vật xung quanh, trẻ dễ bị cuốn hút trước cảnh vật có nhiều màu sắc. Một bông hoa đẹp, một bức tranh sinh động, một đồ chơi ngộ nghĩnh cũng có thể gây cảm xúc cho trẻ. Với đặc điểm như vậy nên năng khiếu nghệ thuật thường được nảy sinh ngay từ tuổi ấu thơ. Trẻ biết đánh giá, khái quát, phản ánh ấn tượng của bản thân không phụ thuộc vào thực tế. Trẻ rất thích sử dụng màu sặc sỡ mang tính chất phản ánh biểu tượng, mỗi sản phẩm của trẻ mang một nội dung, một tên gọi khác nhau. Trong thực tế việc tổ chức các hoạt động tạo hình đã mang lại hiệu quả tới việc phát triển cho trẻ. Song phương pháp đó chưa thực sự đáp ứng và đem lại kết quả mà tôi mong đợi. Các phương pháp hoạt động tạo hình đang được sử dụng còn mang tính áp đặt. Giáo viên thường chú ý đến sản phẩm trẻ làm ra, ít chú ý đến kỹ năng tạo hình, quá trình làm ra sản phẩm; giáo viên thiếu sự linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức hoạt động tạo hình. Mặt khác sự hứng thú, kĩ năng tạo ra sản phẩm tạo hình của trẻ chưa cao, nhiều trẻ chưa biết đặt tên sản phẩm làm ra. Nhận thức rõ trách nhiệm to lớn của giáo viên mầm non trong giai đoạn phát triển hiện nay “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII), là một giáo viên mầm non tôi với mong muốn làm như thế nào để trẻ có thể học tốt môn tạo hình, tôi đã nghiên cứu và đưa vào vận dụng “Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo nhỡ học tốt môn tạo hình”. 2. Mục đích của đề tài: Đề xuất và lý giải một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo nhỡ học tốt môn tạo hình. 3. Bản chất cần được làm rõ của đề tài: Nghiên cứu cơ sở lý luận về khả năng tạo hình của trẻ và thực trạng khả năng tạo hình của trẻ. Nghiên cứu đưa ra các giải pháp để giúp trẻ mẫu giáo nhỡ học tốt môn học tạo hình. 4. Chọn đối tượng cho quá trình nghiên cứu: Biện pháp giúp trẻ mẫu giáo nhỡ học tốt môn tạo hình 5. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan nhàm xây dựng cơ sở lý luận cho việc viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm. - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu về phương pháp dạy tạo hình cho trẻ. - Phương pháp phỏng vấn: Xây dựng phiếu phỏng vấn trẻ về khả năng tạo hình. - Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động tạo hình của trẻ, qua đó cũng đánh giá được khả năng tạo hình của trẻ. - Phương pháp toán học: Sử dụng phương pháp toán học để đánh giá kết quả, tính phần trăm. 6. Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu: Bài sáng kiến lấy đối tượng là học sinh mẫu giáo 4 tuổi A Trường Mầm non Liên Châu – Yên Lạc – Vĩnh Phúc. 7. Phạm vi, kế hoạch nghiên cứu: Nghiên cứu trong phạm vi trường, thời gian từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 12 năm 2012. PHẦN II: NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: 1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo nhỡ trong hoạt động tạo hình: Ngay từ tháng đầu tiên của cuộc đời, nhu cầu tiếp nhận ấn tượng từ thế giới bên goài của trẻ đã được này sinh, trẻ thường chăm chú tìm hiểu thế giới xung quanh, lắng nghe những âm thanh, tiếng động mạnh ở bên ngoài. Dần dần lớn lên khả năng tiếp nhận những những ấn tượng từ thế giới bên ngoài ngày càng tốt hơn. Trẻ đã bắt đầu sử dụng đôi bàn tay, ngón tay để tạo ra sản phẩm, tất nhiên đằng sau đôi bàn tay là hoạt động cuat bộ não. Trẻ mẫu giáo nhỡ hoạt động của bàn tay, ngón tay linh hoạt và khéo léo, khả năng quan sát ghi nhớ và chú ý đã có chủ định, các đặc điểm đặc trưng hình thành ở trẻ tương đối đầy đủ (hình dáng, màu sắc…), lứa tuổi này đang trong giai đoạn phát triển tư duy trực quan hành động và tư duy trực quan hình tượng. Mọi hoạt động diễn ra xung quanh trẻ đều là những đối tượng gây sự chú ý cho trẻ và kích thích trẻ bắt chước theo do nhu cầu tìm tòi khám phá ở trẻ cao. Tuy nhiên khả năng của trẻ còn hạn chế, trẻ dễ dao động đặc biệt trong hoạt động nặn, vẽ, … quan sát tranh ảnh… Khả năng nhận thức của trẻ mẫu giáo nhỡ: Về cảm giác, tri giác: Ở lứa tuổi này trẻ bước đầu có thể làm chủ tri giác của mình, biết tập chung tri giác của mình theo sự hướng dẫn của người lớn, biết kiểm tra kết quả tri giác của mình và đã có khả năng điều chỉnh tri giác theo hướng đúng. Về ghi nhớ: Mẫu giáo nhỡ ghi nhớ có chủ định bắt đầu hình thành và phát triển. Về tư duy: Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh và chiếm ưu thế, trẻ giải quyết các hiện tượng tư duy bằng hành động cụ thể của mình trên cơ sở trẻ được tích lũy các hình ảnh, biểu tượng ở xung quanh trẻ. Trong tư duy đã bước đầu suy luận nhưng chỉ dựa vào các biểu tượng, các kinh nghiệm cụ thể, vì vậy có thể trẻ suy luận chưa chính xác chưa đúng. 1.2. Kỹ năng của trẻ mẫu giáo nhỡ trong hoạt động tạo hình: Khi sinh ra không phải ai cũng có những năng khiếu bẩm sinh, nhất là trong lĩnh vực nghệ thuật (tạo hình). Những hoạt động tạo hình của trẻ do người lớn giáo dục và môi trường sống xung quanh ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tài năng của trẻ. Hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo nhỡ mang tính thụ động, kỹ năng thực hiện các bài tập còn vụng về chưa chính xác, sản phẩm thể hiện theo ý thích chủ quan, thía độ của trẻ “thực hiện theo ý nghĩ” mang tính chất vui chơi. Vì vậy để trẻ có kỹ năng tạo hình cần có sự hướng dẫn của cô giáo nhàm phát triển và rèn luyện những kỹ năng cơ bản cho trẻ. Kỹ năng là yếu tố rất quan trọng để giúp trẻ tạo ra sản phẩm một cách tự tin, có kỹ năng trẻ có khả năng điều khiển điều chỉnh hành động để thực hiện kế hoạch đã định. Tuy vậy kỹ năng của trẻ mẫu giáo nhỡ phát triển còn ở mức độ trung bình, để thuận tiện cho việc phát triển ở giai đoạn lứa tuổi sau thì trước hết trẻ phải trang bị tốt kỹ năng cơ bản và hành thạo ở giai đoạn lứa tuổi này. 1.3. Vai trò của hoạt động tạo hình với sự phát triển của trẻ: Môn dạy trẻ hoạt động tạo hình đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp trẻ: - Phát triển trí tuệ: Mở rộng vốn hiểu biết của trẻ; quá trình tâm lý nhận thức của trẻ; mở rộng vốn từ, cách dùng từ cho trẻ. - Giáo dục đạo đức: hình thành cho trẻ những hành vi, thói quen trong giao tiếp, những hành vi chuẩn mực xã hội. - Giáo dục thẩm mỹ: Hoạt động tạo hình giúp trẻ nhận biết cái đẹp, thèm khát cái đẹp, qua đó chúng ta giáo dục trẻ biết ứng xử thẩm mỹ với cái đẹp, để rồi ta dạy cho trẻ cách tạo ra cái đẹp. - Lao động: thông qua hoạt động tạo hình trẻ biết các tạo ra các sản phẩm, sử dụng, giữ gìn các sản phẩm. - Thể lực: qua hoạt động tạo hình các cơ nhỏ của trẻ được hoạt động và phát triển. Chính vì thế là một giáo viên mầm non tôi muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc “Giúp trẻ mẫu giáo nhỡ học tốt môn tạo hình. 2. Thực trạng hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo: 2.1. Thuận lợi: - Có sự quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn của ban giám hiệu về tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ. - Luôn nhận được sự giúp đỡ, những kinh nghiệm của đồng nghiệp. - Về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học môn tạo hình. - Nhà trường có môi trường cảnh quan sư phạm đẹp góp phần rất lớn cho trẻ quan sát, từ đó cung cấp cho trẻ những biểu tượng thể hiện sự hiểu biết của mình về thế giới xung quanh. - Bản thân tôi có trình độ đại học sư phạm, nhiều năm được phân công dạy lớp mẫu giáo nhỡ nên đã đúc rút được một số kinh nghiệm từ việc từ việc dạy trẻ môn tạo hình. 2.2. Khó khăn: - Trang thiết bị đồ dùng dạy học chưa phong phú, chưa hấp dẫn trẻ. - Nguyên vật liệu thiên nhiên trong hoạt động tạo hình còn nghèo nàn. - Nhận thức của một số phụ huynh học sinh về môn học chưa đúng. - Số trẻ trong lớp vẫn chưa đồng đều về chất lượng, số ít cháu còn nhút nhát trong khi thể hiện ý tưởng của mình. 2.3. Kết quả khảo sát chất lượng học sinh: Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng cho trẻ lúc ban đầu để nắm bắt được khả năng tạo hình của trẻ. Nội dung khảo sát Số trẻ Tỷ lệ % - Trẻ hứng thú tham gia HĐTH 22/30 73,3 - Trẻ tạo được sản phẩm theo yêu cầu của cô 21/30 70 - Trẻ có kỹ năng khi tham gia hoạt động tạo hình. 20/30 66,7 - Trẻ đặt tên được sản phẩm của mình 15/30 50 Xuất phát từ những thực tế trên tôi đã đề ra một số biện pháp thực hiện sau. 3. Biện pháp thực hiện: Qua khảo sát ban đầu như trên, tôi thấy kết quả trên trẻ chưa cao là điều tôi cần phải suy nghĩ làm thế nào để dạy trẻ đạt hiệu quả cao và tạo cho trẻ học một cách thoải mái, tự tin, không gò bó, trẻ luôn hứng thú trong giờ học. Tôi tiến hành thực nghiệm. 3.1. Xây dựng nề nếp học tập trong giờ học trên lớp. Nề nếp của trẻ là bước đầu của một tiết học, nếu chúng ta không đưa trẻ vào nề nếp thì giờ học không đạt kết quả cao. Khi trẻ có nề nếp tốt cùng với sự hướng dẫn khoa học của cô ngay ban đầu trẻ đã say mê với giờ học, luôn thể hiện cảm xúc, trí tưởng tượng cho hoạt đông nghệ thuật. Tôi đã rèn luyện nề nếp bằng cách: Xếp xen kẽ cháu mạnh dạn với cháu nhút nhát, cháu nam xen cháu nữ. Chia tổ, đặt tên cho tổ “tổ chim xanh, tổ bướm trắng, tổ ong nâu” và bầu ra tổ trưởng để tổ trưởng giúp cô quán xuyến, nhắc nhở thành viên của mình. Tôi luôn động viên trẻ trong tiết học, uốn nắn tác phong ngồi học cho trẻ, trẻ ngồi đúng tư thế, không nói chuyện, không nói leo, nói phải xin phép cô, nói rõ ràng, mạch lạc, đủ câu, …Với những biện pháp trên trẻ đã có thói quen tốt trong việc xây dựng nề nếp học tập. 3.2. Tích lũy vốn kinh nghiệm về tạo hình cho trẻ: Tạo điều kiện để trẻ thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh để từng bước cung cấp các biểu tượng phong phú về đối tượng cho trẻ tự khám phá bằng cách huy động sự tham gia của các giác quan, các quá trình tâm lí khác nhau để lĩnh hội các khía cạnh khác nhau của sự vật. Tạo cơ hội để trẻ khám phá đối tượng (quan sát, nghe, hỏi, tiếp xúc và miêu tả) và tự diễn đạt nhận thức cảm xúc của mình về đối tượng. Tận dụng các thời điểm hợp lí trong ngày cho trẻ tiếp xúc như được ngắm nghía, chăm sóc, vuốt ve, âu yếm với các con vật gần gũi (thỏ, mèo, gà con…) chơi với các đồ vật, tri giác tranh ảnh nghệ thuật. Đồng thời thông qua hoạt động ngoài trời trẻ được chơi với lá cây nên tôi tận dụng luôn các lá cây đó giúp trẻ sáng tạo thể hiện các sản phẩm tạo hình để làm giàu vốn kinh nghiệm cho trẻ và kết hợp rèn luyện các kỹ năng về tạo hình cho trẻ. Trong quá trình cung cấp biểu tượng về đối tượng tạo hình tôi chỉ cho trẻ thấy được những nét đặc trưng nổi bật , những cái đẹp lý thú gần gũi trẻ. Đồng thời giúp trẻ phân tích, so sánh tổng hợp tìm ra những đặc điểm riêng, chung của những đồ vật cùng nhóm, cùng loại. Từ đó giúp trẻ tìm ra phương thức thể hiện trong những tình huống khác nhau. Ví dụ : vẽ “Vườn hoa” có bông cao, bông thấp, bông cánh tròn, bông cánh nhọn, bông mầu vàng, bông màu đỏ… Nếu trẻ đã được ngắm vườn hoa trong thực tế thì khi tạo hình trẻ sẽ biết sử dụng phối hợp các kỹ năng vẽ nét cong, nét cong tròn khép kín, nét xiên, nét thẳng và tô màu để vẽ vườn hoa sinh động và đẹp hơn. 3.3. Xây dựng môi trường để phát huy tính tích cực, khả năng sáng tạo của trẻ. Đặt và xắp xếp các vật liệu sao cho trẻ có thể thấy rõ và lấy được dễ dàng để thực hiện hoạt động tạo hình vào bất cứ lúc nào trẻ thích và có thể trưng bày các sản phẩm của mình. Tạo môi trường nghệ thuật xung quanh trẻ như: bầy đồ chơi đẹp, xắp xếp các nguyên vật liệu, đồ dùng một cách hợp lý đẹp mắt,…Từ đây tạo cho trẻ cảm giác thích thú và mong muốn được tái tạo.Trang trí tạo môi trường nghệ thuật để gây cảm xúc, gây ấn tượng cho trẻ về nghệ thuật tạo hình. Với môi trường trong lớp: Các mảng chính trong lớp như mảng chủ điểm, các tiêu đề của các góc. Để gây ấn tượng cho trẻ tôi thường sưu tầm, thiết kế các hình ảnh ngộ nghĩnh đáng yêu, có màu sắc đẹp, bố cục hợp lí và có tên thật gần gũi với trẻ. Với môi trường trong lớp: Các mảng chính trong lớp như mảng chủ điểm, các tiêu đề của các góc. Để gây ấn tượng cho trẻ tôi thường sưu tầm, thiết kế các hình ảnh ngộ nghĩnh đáng yêu, có màu sắc đẹp, bố cục hợp lí và có tên thật gần gũi với trẻ. Ví dụ: Mảng chủ điểm thường ở vị trí chính để trẻ dễ nhìn dễ thấy. Nội dung của mảng chủ đề thường tổng hợp các hình ảnh về chủ điểm: Như chủ điểm trường Mầm non: Có hình ảnh ngôi trường, đu quay, cầu trượt…có cô giáo cùng bé đi dạo… + Các góc hoạt động như: Góc gia đình tôi đặt tên là “ Gia đình của bé” trong đó có hình ảnh Mẹ và bé mặc tạp dề nấu cơm, có đồ dùng dụng cụ chế biến. Hay góc xây dựng tôi lấy tên “Kỹ sư xây dựng” có hình ảnh các bé đang chuyển các vật liệu xây dựng, đang làm các bác thợ xây dựng từ các hình ảnh ngộ nghĩnh ở phía trên mảng tường. Còn phía mảng tường tôi thường tôi dán các túi mở làm bằng nhựa trong để trẻ trưng bày sản phẩm do chính tay trẻ làm gài vào làm tranh trang trí cho góc đó. Để phát huy tối đa tác dụng của môi trường hoạt động sau khi chuyển chủ điểm ta cần thay đổi nội dung chủ điểm mới. Tôi đã cùng trẻ thảo luận và đặt tên cho chủ điểm mới và tên của góc chơi của mình. Nội dung của các góc tôi giới thiệu cho trẻ về các sản phẩm bằng các ngôn ngữ nghệ thuật để tích luỹ cho trẻ có vốn hiểu biết về nghệ thuật và say mê nghệ thuật. Từ đó kích thích lòng ham muốn thích tham gia tạo sản phẩm nghệ thuật để có sản phẩm trang trí lớp học của mình. Ví dụ: Ở mảng hoạt động tạo hình. Tôi giới thiệu đây là góc để các con hoạt động tạo hình. Chúng mình hãy cùng chọn một cái tên thật hay để đặt cho nó nhé. Nào ai có ý kiến cô gợi ý các tên như sau: Hoạ sĩ nhí, bé khéo tay, bé tập làm hoạ sĩ, hoạ sĩ tí hon…Cho trẻ thảo luận và lựa chọn nếu trẻ nào nghĩ được tên khác hay hơn cô có thể chọn làm tên góc hoạt động. Bây giờ ngôi nhà này đã có tên rồi, bây giờ cô muốn mỗi bạn hãy làm thật nhiều những sản phẩm để trang trí cho góc chơi của chúng mình đẹp hơn nhé. Từ lời gợi mở như vậy đã kích thích trẻ tạo ra sản phẩm mới. Để gây hứng thú cho trẻ trong góc tạo hình thì tuỳ theo từng chủ điểm tiến hành mà tôi có thể chuẩn bị mảng cung cấp kiến thức, các nguyên vật liệu phù hợp và phong phú về chủng loại. Ví dụ: Giấy màu, tranh ảnh cũ, báo tạp chí sáp màu, màu nước, đất nặn, vải vụn, len sợi, rơm rạ, lá cây, cỏ hạt dưa, vỏ trứng… Ở đây nguyên vật liệu thì giáo viên luôn để ở trạng thái mở giúp trẻ dễ lấy để sử dụng khi vào hoạt động. Nơi trưng bày sản phẩm của trẻ, tôi bố trí mỗi trẻ có một ô để trẻ được trẻ tự tay cầm sản phẩm cài vào ô của mình. Ở đây trẻ được quan sát toàn bộ sản phẩm của mình và của bạn, trẻ có thể tự so sánh, nhận xét và học thêm được ý tưởng của những bạn có sản phẩm đẹp, sáng tạo. Từ kết quả đó sẽ kích thích lòng ham muốn say mê học tạo hình của trẻ. 3.4. Phương pháp hướng dẫn phải dựa vào trẻ lấy trẻ làm trung tâm: Trong giờ học nói chung và giờ học tạo hình nói riêng hãy để trẻ tự thể hiện, cô luôn là người động viên, khuyến khích trẻ sáng tạo. Trẻ cần được động viên để thể hiện ý muốn, tình cảm, cảm xúc và những hiểu biết của trẻ đối với sự vật, trẻ muốn được lựa chọn. + Cái trẻ muốn làm (nội dung) + Làm thế nào để đạt được (quá trình) + Cái hoàn thành sẽ như thế nào (kết quả, sản phẩm) Mong muốn của trẻ cần được tự thể hiện với những phương tiện tạo hình khác nhau. Sự thể hiện mang tính cá nhân, bởi vì trẻ luôn tiếp cận theo đặc tính riêng của mình. Chẳng hạn sau chuyến đi thăm quan “vườn hoa trong trường” một nhóm trẻ được khuyến khích hoạt động tạo hình, một trẻ vẽ trường vườn hoa, 5 trẻ khác nặm những bông hoa, trẻ thì xé dán hoa Mỗi trẻ tự lựa chọn bằng cách được phản ánh bằng xé dán, vẽ, lắp ghép và các hình thức khác nhau để thực hiện cái có ý nghĩa đối với cá nhân trẻ. Tăng cường các câu hỏi gợi ý giúp trẻ củng cố và áp dụng những kinh nghiệm đã lĩnh hội trong các hoạt động khác nhau, động viên trẻ suy nghĩ, thăm dò, tìm cách giải quyết vấn đề của trẻ. Hãy để tự trẻ miêu tả những gì trẻ biết và có thể làm. Ví dụ: “Hãy cho cô biết vì sao”, “Nếu như vậy thì sao”, “Vì sao con lại biết”, “con có suy nghĩ gì”, “con làm như thế nào”, “ Hay có cách nào khác để”,… Không lạm dụng các sản phẩm mẫu và làm mẫu, càng ít làm mẫu và càng ít sử dụng vật mẫu sẽ càng kích thích trẻ tư duy và tìm kiếm cách thể hiện. Thực tế cho thấy các sản phẩm mẫu sẽ làm tê liệt các cảm xúc đã có trước của trẻ, làm giảm tính tích cực hoạt động trí tuệ của trẻ, vì các hoạt động cần thiết để tạo hình đã được làm mẫu đầy đủ, trẻ luôn ghi nhớ, bắt trước. Nếu có trường hợp yêu cầu làm mẫu, phải gợi ý chứ đừng nên làm ngay. Bắt đầu xé từ đâu, xé hình gì, xé như thế nào,… Tạo tình huống để trẻ làm giúp. Ví dụ: “Để đất mềm ra chúng ta làm như thế nào?”. Trong khi làm mẫu tôi luôn coi trọng quan điểm của trẻ, làm cho trẻ phát triển khả năng so sánh, phân tích, suy nghĩ về nhiệm vụ. Động viên kích thích trẻ tự tìm, tự sáng tạo trong khi thể hiện. 3.5. Sử dụng nguyên vật liệu tạo hình: Khi thực hiện hoạt động tạo hình, nguyên vật liệu không thể thiếu được. Vậy để hoạt động tạo hình có hiệu quả, việc sử dụng nguyên vật liệu tạo hình là vô cùng quan trọng. Nguyên vật liệu là những loại đồ dùng, dụng cụ dễ kiếm. Có thể trẻ tự kiếm như lá cây, phế liệu hư, vỏ hộp, thùng catong, quần áo cũ, bông, vải vụn,… Chúng có thể được sản xuất như: giấy, hồ dán, kéo, … Sự đa dạng của nguyên vật liệu tạo hình để lựa chọn để khuyến khích khả năng sáng tạo của trẻ. Hoạt động tạo hình phải thể hiện qua mầu sắc như: tô, cắt, dán, vẽ, nặn, … Để đảm bảo khi sử dụng nguyên vật liệu tạo hình tôi cần cân nhắc những điểm sau: + An toàn (không nhọn, không có cạnh sắc, không độc hại,…) + Rẻ tiền (những nguyên vật liệu mua ở địa phương) + Dễ kiếm: Ví dụ: vỏ ốc, hến, hạt na, bưởi, len, …) + Dễ bảo quản hay cất giữ + Dễ cầm: (phù hợp với tầm tay của trẻ) + Dễ cung cấp kinh nghiệm bao gồm cả giác quan. + Dễ sửa chữa + Tạo cơ hội để lựa chọn và sắp xếp nguyên vật liệu + Luôn quan sát sự tưởng tượng và sử dụng trí nhớ linh hoạt Vì từng đồ dùng, đồ chơi còn nhiều hạn chế tôi luôn huy động trẻ tìm kiếm nguyên vật liệu, phế thải có sẵn ở địa phương. Ví dụ: Bằng những hạt gạo, hạt đỗ, rơm, rạ, lá cây, vỏ hến, giấy vụ, … tôi có thể tạo ra nhiều con vật nghộ nghĩnh, sinh động, những bức vẽ, các đề tài khác nhau. 3.6. Tích hợp dạy tạo hình thông qua các môn học khác: Tích hợp là phương pháp đòi hỏi ở giáo viên sự sáng tạo linh hoạt và khéo léo khi vận dụng, qua tích hợp kiến thức tạo hình đến với trẻ rất nhẹ nhàng không gò ép mà lại hiệu quả. Song quá trình vận dụng tích hợp, cần lựa chọn nội dung phù hợp, logic, tránh quá trình hoạt động trở lên rời rạc, chắp vá. - Môn làm quen với toán: tôi tận dụng vở bé làm quen với biểu tưởng toán để rèn trẻ kĩ năng tạo hình. Ví dụ: Cho trẻ trang trí hình vuông và hình chữ nhật trong vở bé làm quen với các biểu tượng toán,… - Môn văn học: Ví dụ sau khi học xong bài thơ “cây dừa” cho trẻ vẽ cây dừa. - Môn làm quen với chữ cái. Ví dụ: trẻ tô màu vào chữ in rỗng, vào vở tập tô. - Môn làm quen với môi trường xung quanh: Ví dụ cho trẻ vẽ các con vật, các loại quả hay các phương tiện giao thông, và người thân trong gia đình,…. 3.7. Tích hợp dạy tạo hình thông qua hoạt động góc: Bên cạnh việc tích hợp dạy tạo hình qua môn học khác, giáo viên có thể rèn kỹ năng tạo hình của trẻ thông qua giờ hoạt động góc. Qua hoạt động góc giúp trẻ được củng cố và làm quen kiến thức mới làm tăng thêm vốn kiến thức, kỹ năng hơn trong giờ hoạt động chung. Ví dụ: Với chủ đề: “Thế giới động vật” ở góc tạo hình tôi nặn một số con vật (gà, thỏ, mèo, trâu, voi…) bày ở giá hoặc tranh một số con vật bằng các thể loại như vẽ, xé dán, tô màu…để cung cấp kiến thức cho trẻ. Khi trẻ vào góc chơi tôi thu hút gợi ý trẻ quan sát những sản phẩm đó: Ví dụ: + Đây là con gì? Cô nặn như thế nào? + Đây là bức tranh gì? Tranh làm bằng gì? Khi thực hiện các đề tài “ Nặn con vật, vẽ con gà…” trẻ đã có vốn kiến thức hiểu biết qua các sản phẩm thì trẻ sẽ tự tin hơn và thực hiện tốt hơn. Hoặc ví dụ: Với chủ đề: “Thế giới thực vật” đề tài “Các loài hoa” tôi chuẩn bị một số tranh vẽ, xé, chấm màu về các loại hoa làm tranh cung cấp kiến thức cùng với các nguyên vật liệu phù hợp với tranh tôi cung cấp cho trẻ… Khi trẻ vào góc chơi tôi gây hứng thú tạo tình huống cho trẻ bằng cách: - Đố trẻ cô có bức tranh gì? - Các bông hoa được làm như thế nào? Sau đó cho trẻ kể về bức tranh đó cuối cùng cô khái quát về một số đặc điểm chung cơ bản của một số loại hoa đó và chất liệu cô đã sử dụng để làm. Với những nhóm trẻ chưa thể hiện được cô có thể hướng dẫn trẻ một cách tỉ mỉ hơn về cách (Vẽ, xé, chấm màu…) hoặc cô kết hợp làm chung với trẻ về bức tranh đó kết hợp với lời động viên khuyến khích giúp trẻ có tâm thế hơn. Như vậy với đề tài về “Hoa” khi giáo viên tiến hành cho trẻ thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau sẽ tạo cho trẻ cảm giác thoả mái, không gò bó, chán nản giúp trẻ sẽ tích cực hoạt động sâu hơn trong góc chơi từ đó đối tượng cô định cung cấp hoặc củng cố cho trẻ sẽ dần dần được hình thành trong tâm trí của trẻ. Từ đó sẽ giúp trẻ phát triển khả năng, kỹ năng về tạo hình. Không những chỉ có góc tạo hình mới phát huy khả năng tạo hình của trẻ mà ở các góc chơi khác giáo viên cũng có thể rèn luyện kỹ năng về tạo hình cho trẻ. Cụ thể: + Góc học tập: Trong góc học tập luôn có nội dung cung cấp cho trẻ cung cấp về toán và môi trường xung quanh thông qua các môn học đó giáo viên thiết kế lựa chọn các trò chơi, nội dung để củng cố cung cấp cho trẻ. Từ đó giáo viên có thể lồng ghép rèn luyện kỹ năng tạo hình cho trẻ. Ví dụ: Với nội dung toán: “Tô màu theo yêu cầu của cô” thì giáo viên kết hợp rèn luyện cho trẻ kỹ năng cầm bút và kỹ năng tô màu. Ví dụ: Với nội dung môi trường xung quanh: Cô cho trẻ được cắt dán tranh ảnh, đồ dùng, con vật theo chủ đề tiến hành, cô kết hợp rèn luyện kỹ năng cầm kéo, cắt và phết hồ cho trẻ. + Góc sách: Là một góc yên tĩnh nhất, khi vào góc sách trẻ được xem các loại sách, tô vẽ, làm tranh chuyện, kể chuyện sáng tạo cùng cô kể về các đồ dùng có liên quan tới chủ đề đang thực hiện thì giáo viên củng có thể nhẹ nhàng đưa kiến thức, kỹ năng hoạt động tạo hình rèn thêm cho trẻ. Ví dụ: Cô hướng dẫn trẻ tô tranh truyện, hướng dẫn cách tô màu cho bức tranh thêm đẹp, vẽ tranh về các nhân vật trong câu truyện… Như vậy ở trong mỗi góc chơi, nhóm chơi chỉ có một nhóm trẻ hoặc một cá nhân tham gia hoạt động sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên muốn rèn trẻ cá biệt yếu kém hoặc củng cố kỹ năng cho trẻ. Từ đó giúp trẻ phát triển hơn về khả năng tạo hình. 3.8. Hướng dẫn trẻ học tạo hình mọi lúc, mọi nơi Trẻ được làm quen với môi trường xung quanh khi đi dạo chơi trẻ được ngắm nhìn vật thật, đựơc sờ nắm, khi cho trẻ họat động ngoài trời cô có thể phát phấn để trẻ có thể vẽ lên nền. Ví dụ: trẻ dùng phấn để in cánh hoa, lá hoa, vẽ những biểu tượng mà trẻ thích. Khi hoạt động ngoài trời tôi yêu cầu trẻ lượm lá khô, cành khô để làm vật liệu cho trẻ hoạt động tạo hình. + Giờ sinh hoạt chiều: Ví dụ: tôi cho trẻ kể về những con vật mà trẻ thích và cho trẻ vẽ những con vật đó. + Ở các hoạt động góc: Góc học tập trẻ có thể chơi dậy vẽ, nặn, xé, dán. Góc nghệ thuật trẻ: Ví dụ: Một nhóm trẻ có thể tạo nên một bức tranh xé dán “ Ngôi nhà của bé”. Bên cạnh dạy tạo hình ở lớp tôi thường gợi ý cho trẻ tạo hình ở nhà bằng cách trao đổi với phụ huynh để cùng nhắc nhở, động viên trẻ, hướng dẫn trẻ thực hiện một vài bài tập ở nhà như vẽ tranh theo đề tài, nặn theo mẫu, vẽ theo ý thích, hay xé dán một hình ảnh nào đó, theo các đề tài mà trẻ đã được làm quen ở lớp. 3.9. Dạy tạo hình qua hướng dẫn trẻ làm đồ chơi: Như chúng ta đã biết hoạt động làm đồ dùng đồ chơi với trẻ là dạng hoạt động tạo hình đặc biệt. Trong sản phẩm nó chứa đựng tâm hồn, cảm hứng, ngôn ngữ riêng để biểu đạt tình cảm của người sáng tạo ra. Vì vậy tôi đã tận dụng các học liệu có sẵn để dạy trẻ làm đồ chơi. Ví dụ: Dạy trẻ làm đồ chơi bằng các loại lá cây. Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ nhặt các loại lá ở sân trường, cô chuẩn bị một ít lá xanh các loại để vào giờ hoạt động tạo hình hoặc hoạt động góc hướng cho trẻ làm. Ví dụ: Chủ đề bản thân cho trẻ làm nhà tạo mẫu làm ra các trang phục ngộ nghĩnh bằng lá cây (chủ yếu là lá vàng và lá khô). Dạy trẻ tự xé hoặc sắp xếp những chiếc lá thành bộ sưu tập thời trang giành cho trẻ. Chủ đề phương tiện giao thông: dạy trẻ làm những chiéc tàu, thuyền buồm… Chủ đề thế giới động vật: Dạy trẻ lấy cái bồng bèo tây làm con gà, cái đuôi là lá bèo, chân gà là 2 cái tăm cắm vào hay cái bồng dài làm con chó. Lá chuối làm con mèo. Lá dừa làm chong chóng, con châu chấu, bẹ bắp ngô lá chuối khô làm búp bê… Hay tận dụng giấy gói quà sinh nhật và những hạt sỏi hoặc cắt xốp ra cho trẻ gói kẹo (sản phẩm này trẻ vừa làm đồ chơi ở góc bán hàng, vừa làm đồ dùng học toán: so sánh kẹo to kẹo nhỏ, so sánh số lượng nhiều – ít, phân biệt kẹo màu xanh – màu đỏ – màu vàng …). Hay vỏ hạt dưa, giấy màu vụn, vỏ trấu, cọng rơm cho trẻ cùng trang trí hình ảnh cùng cô làm chủ điểm. Tận dụng giấy báo cũ, giấy in phô tô…cho trẻ vo giấy, mỗi trẻ một ít xếp chồng lên nhau có sự giúp đỡ của cô (dùng hồ gắn kết giấy vo lại để tạo thành hòn non bộ trang trí ở góc tạo hình rất đẹp). Tận dụng giấy thừa, các tờ lịch cũ cô giúp trẻ đóng thành các quyển sách, sau đó cho trẻ sưu tầm tranh ảnh cắt hoặc xé dán vào, mỗi trẻ cảm nhận cái đẹp riêng về quyển sách mình được cô giúp đỡ làm, từ đó có cảm hứng sáng tạo ra những câu chuyện kể cho cô và các bạn nghe. Cách làm này có tác dụng rất tích cực trong quán trình hình thành tình cảm thẩm mỹ và phát triển ngôn ngữ độc thoại của trẻ mẫu giáo. 3.10. Bồi dưỡng các đối tượng yếu kém và có năng khiếu tạo hình: Ngoài việc giảng dạy trên tiết học, tôi còn thường xuyên chia đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu để tập luyện ở mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ 1: Những trẻ yếu tôi thường hướng dẫn cho trẻ xem tranh và gợi ý cho trẻ vẽ những bức tranh từ đơn giản đến phức tạp. Ví du 2: Đối với trẻ nhút nhát, tôi thường phối hợp với gia đình động viên trẻ vẽ về những bức tranh mà trẻ yêu thích để tặng ông bà, cha mẹ. Những trẻ khá, giỏi tôi gợi ý, yêu cầu cao hơn để trẻ phát huy khả năng sáng tạo. Ví du: Trẻ đang vẽ ô tô gợi hỏi “Con sẽ vẽ ô tô chạy ở đâu?” Đường đồng bằng hay miền núi, trên bầu trời có gì? 4. Kết quả thực hiện: Sau khi tiến hành các biện pháp trên, qua khảo sát đã thu được kết quả: Nội dung khảo sát Trước khi chưa áp dụng biện phấp Sau khi áp dụng biên pháp Tỷ lệ % tăng so với trước Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % - Trẻ hứng thú tham gia hoạt động tạo hình 22/30 73,3 27/30 90 16,7 - Trẻ tạo được sản phẩm theo yêu cầu của cô 21/30 70 25/30 83,3 13,3 - Trẻ có kỹ năng khi tham gia hoạt động tạo hình. 20/30 66,7 24/30 80 13,3 - Trẻ đặt tên được sản phẩm của mình 15/30 50 21/30 70 20 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Qua quá trình nghiên cứu và thực tế ở lớp, tôi đã rút ra cho mình những bài học bổ ích giúp tôi có nhiều kinh nghiệm hơn khi cho trẻ hoạt động tạo hình. - Điều đầu tiên là tạo cho trẻ một nề nếp khi tham gia vào các hoạt động nói chung, hoạt động tạo hình nói riêng, quan trọng hơn nữa là chuẩn bị vốn tri thức cho trẻ. - Làm đồ dùng kết hợp tham mưu bổ xung ý kiến nâng cao cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của trẻ, tạo môi trường tốt cho trẻ được hoạt động. - Lên kế hoạch tìm kiếm nguyên vật liệu phế thải để làm đồ dùng, đồ chơi, tuyên truyền kết hợp giữa gia đình và nhà trường. - Đưa môn học tạo hình, lồng ghép vào các hoạt động và các môn học khác. - Trong quá trình đổi mới phương pháp giáo dục thường xuyên lấy trẻ làm trung tâm, cô giáo là người gợi mở dẫn dắt trẻ. - Quá trình giảng dạy cô phải quan tâm đến khả năng từng trẻ để có biện pháp bồi dưỡng phù hợp. - Ngoài chuyên môn vững cô còn phải gần gũi, thân thiện, hiểu và cùng trẻ thể hiện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, thoải mái và đạt hiệu quả cao trong giờ học. Từ việc áp dụng các biện pháp trên vào giảng dạy đạt kết quả tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: 1. Xây dựng môi trường hoạt động tạo hình phong phú phù hợp với đặc điểm thực tế của lớp để phát huy tính tích cực, khả năng sáng tạo của trẻ. 2. Tích lũy vốn kinh nghiệm về tạo hình cho trẻ: 3. Phương pháp hướng dẫn phải dựa vào trẻ lấy trẻ làm trung tâm. 4. Sử dụng nguyên vật liệu tạo hình. Sưu tầm, làm đồ chơi sáng tạo cho trẻ hoạt động từ một số nguyên liệu sẵn có trong thiên nhiên để dạy trẻ. 5. Tích hợp dạy tạo hình thông qua các môn học khác: 6. Tích hợp dạy tạo hình thông qua hoạt động góc là biện pháp rèn kỹ năng tạo hình rất hiệu quả, chú ý rèn luyện kỹ năng cho trẻ, cần tiến hành từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. 7. Hướng dẫn trẻ học tạo hình mọi lúc, mọi nơi là cách dạy trẻ hoạt động tạo hình rất nhẹ nhàng, trẻ được học mà như không học. 8. Bồi dưỡng các đối tượng yếu kém và có năng khiếu tạo hình: 9. Xây dựng nề nếp học tập trong giờ học trên lớp. 10. Phối kết hợp với phụ huynh và nhà trường để có sự giáo dục đồng bộ. 2. Kiến Nghị: Để nâng giúp trẻ học tốt môn học tạo hình, tôi xin kiến nghị một số vấn đề sâu đây: - Đề nghị nhà trường, các cấp và ngành giáo dục quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho môn học tạo hình; vì giáo dục mầm non có đặc thù riêng là: Trẻ lĩnh hội kiến thức bằng đồ dùng trực quan cụ thể. - Đề nghị các cấp ngành giáo dục tăng cường bồi dưỡng chuyên môn về môn học tạo hình để giáo viên kịp thời cập nhập với sự thay đổi của hời đại. - Đề nghị nhà trường và địa phương tạo điều kiện về kinh phí cho cán bộ, giáo viên trường mầm non đi thăm quan, học tập những đơn vị mầm non điển hình về chất lượng để giáo viên học tập kinh nghiệm của họ. Trên đây là một số kinh nghiệm về tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mẫu giáo. Rất mong được sự góp ý của hội đồng sư phạm, lãnh đạo các cấp để bản sáng kiến được hoàn thiện hơn. Liên châu ngày tháng năm Người viết sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Oanh Skkn một số biện pháp giúp trẻ 5 6 tuổi học tốt môn tạo hình
I. PHẦN MỞ ĐẦU Tải về bản full Skkn một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn tạo hình( trẻ 4 5 tuổi)
Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn tạo hình( trẻ 4-5 tuổi) Tải về bản full Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn tạo hìnhHoạt động tạo hình là một hoạt động học tập mang tính nghệ thuật, giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh và phản ánh thế giới thông qua các hình tượng nghệ thuật, trong các hình thức hoạt động mang tính nghệ thuật. » Xem thêm Sáng kiến kinh nghiệm về một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn tạo hình sẽ giúp giáo viên có thêm nhiều tư liệu hơn để chăm sóc và dạy dỗ trẻ tốt hơn. » Thu gọn Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
|