Tâm lý học xã hội Trần Quốc Thành PDF

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

78
666 KB
4
133

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 78 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI Tác giả: TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN LỜI NÓI ĐẦU Tâm lý học xã hội là một ngành của Tâm lý học và mang đậm hơi thở của đời sống xã hội. Lịch sử Tâm lý học xã hội cho thấy, những vấn đề nổi bật của các giai đoạn xã hội lịch sử đều được phản ánh trong Tâm lý học xã hội ở các mức độ khác nhau. Không ít những vấn đề mang tính cấp thiết của xã hội được tiến hành nghiên cứu trong Tâm lý học xã hội ngay từ khi chúng bắt đầu xuất hiện. Những nghiên cứu về phong cách lãnh đạo và công bằng xã hội những năm 1930 - 1940; về sự a dua vào những năm 1950, về sự xâm kích những năm 1960; về giới tính, về dân tộc những năm 1960 - 1970; về chủng tộc những năm 1980 và về những vấn đề Tâm lý xã hội xuyên văn hóa vào những năm 1990 đến nay là sự phản ánh sắc nét những diễn biến và sự kiện lịch sử xã hội. Đồng thời với tính thời sự, những vấn đề mang tính cơ bản và ổn định của Tâm lý học xã hội như vấn đề nguồn gốc của các hành vi xã hội, các quy luật và các cơ chế của sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội, bản thân các hiện tượng tâm lý xã hội với các đặc điểm và diễn biến của nó ngày càng được quan tâm. Như một quy luật, xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được mở rộng và nâng cao thì nhu cầu tìm hiểu bản chất của các quá trình xã hội mà con người tham gia vừa là chủ thể và khách thể càng lớn. Chính vì những lý do như vậy mà sự quan tâm đến Tâm lý học xã hội ngày càng nhiều hơn. Đối với những người làm công tác giảng dạy, việc tiếp cận những vấn đề của Tâm lý học xã hội là hết sức có ý nghĩa. Bởi vì, dù là có ý thức hay không có ý thức, công việc của họ gắn liền với các hiện tượng tâm lý xã hội, chịu sự chi phối của các quy luật tâm lý xã hội. Hơn nữa, nhiều khi chính người làm công tác giảng dạy lại phải chủ động để tạo ra một số hiện tượng tâm lý xã hội trong công việc của mình như làm việc với nhóm sinh viên, đồng nghiệp hay phải đối diện với các hiện tượng tâm lý xã hội cần giải quyết như dư luận xã hội, bầu không khí tập thể... Tuy vậy, đây là công việc khó khăn vì chính sự đa dạng và da chiều của các hiện tượng tâm lý xã hội không cho phép có được các khái quát khoa học dễ dàng. Bên cạnh đó, việc thiếu vắng các nghiên cứu trong lĩnh vực này ở Việt Nam, cũng như sự non trẻ của bộ môn khoa học này ở nước ta chắc chắn làm cho việc biên soạn khó đáp ứng được đòi hỏi của người đọc. Tài liệu khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Vì vậy, các tác giả rất mong được sự đóng góp ý kiến để có thể chỉnh sửa, bổ sung giúp tài liệu trở nên có ích và đầy đủ hơn. Các tác giả Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI Chương 3. NHÓM XÃ HỘI Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ Chương 5. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI VÀ SỰ XÂM KÍCH Chương 6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI TÀI LIỆU THAM KHẢO Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC Nội dung cơ bản: - Bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội: hiện tượng tâm lý xã hội, bản chất, chức năng, phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội; - Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội: các quan điểm về đối tượng của Tâm lý học xã hội, đối tượng của Tâm lý học xã hội, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội; Lịch sử hình thành của Tâm lý học xã hội: các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội, Tâm lý học xã hội ra đời như là khoa học độc lập, các hình thái đầu tiên của Tâm lý học xã hội; Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học: quan hệ của Tâm lý học xã hội với các khoa học khác; - Phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội. I. BẢN CHẤT CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI 1. Các hiện tượng tâm lý xã hội là gì? Khi nói tới đời sống tâm lý của con người, người ta thường đề cập đến các hiện tượng xúc cảm, tình cảm, đến các quá trình nhận thức như tư duy, tưởng tượng đến ý chí, nhu cầu, động cơ thúc đẩy con người thực hiện các hoạt động này hay hoạt động khác. Các hiện tượng tâm lý đó gọi là tâm lý cá nhân, tức là các hiện tượng tâm lý thuộc về từng cá nhân, mang sắc thái riêng của mỗi cá nhân. Các hiện tượng tâm lý đó là sự phản ánh nội dung đời sống xã hội, là sự phản ánh mang tính chất cá nhân riêng lẻ. Các hiện tượng tâm lý cá nhân đó được nghiên cứu một cách tương đối độc lập với nhóm xã hội có cá nhân đó. Tuy vậy, trong đời sống, con người liên tục tham gia vào các nhóm xã hội: gia đình, trường học, bạn bè, đồng nghiệp... Trong quá trình đó, cá nhân tác động qua lại với những cá nhân khác, biểu lộ thái độ đánh giá, mong muốn của bản thân và của người khác, nhận biết người khác, ảnh hưởng và bị ảnh hưởng của người khác. Tâm lý của cá nhân khi đó một mặt chịu sự quy định của nhóm xã hội và sự tương tác xã hội, mặt khác điều chỉnh hành vi của bản thân cho phù hợp với yêu cầu và tình huống tương tác. Hệ quả tất yếu là làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý chung ở nhiều cá nhân trong một nhóm trong một cộng đồng, trong cả một dân tộc, thậm chí trong nhiều dân tộc. Đó là các hiện tượng tâm lý xã hội. Như vậy, tâm lý xã hội không phải là tổng đơn giản, cơ học của các hiện tượng tâm lý cá nhân. Nó là các hiện tượng tâm lý chung của nhiều người diễn ra trong các nhóm xã hội, khi con người hoạt động, giao tiếp, tác động qua lại với nhau, được quy định bởi sự tác động qua lại và nhóm xã hội. Tâm lý học xã hội là khoa học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội đó. Một cách đơn giản, có thể hình dung các hiện tượng tâm lý xã hội là các hiện tượng tâm lý nảy sinh khi cá nhân tác động qua lại với các đối tượng xã hội khác: Cá nhân Nhóm xã hội. Cá nhân Cá nhân [trong nhóm xã hội]. Nhóm Nhóm. Trong các quá trình tương tác đó, cá nhân nhận biết, đánh giá hành vi của mình và người khác như thế nào, cá nhân chịu sự chi phối và chi phối các cá nhân khác ra sao, các mối quan hệ như quan hệ liên nhân cách, sự hấp dẫn lẫn nhau và sự xung đột diễn ra như thế nào trong các nhóm... Các hiện tượng tâm lý xã hội đó diễn ra không phải một cách ngẫu nhiên mà theo các quy luật nhất định. Tâm lý học xã hội chịu trách nhiệm phát hiện các quy luật chi phối hành vi và hoạt động của con người khi con người tham gia vào nhóm xã hội cũng như các đặc trưng tâm lý của chính các nhóm xã hội đó. Như vậy, Tâm lý học xã hội nghiên cứu các quy luật và cơ chế của các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong các tương tác xã hội. 2. Bản chất và chức năng của các hiện tượng Tâm lý xã hội Trước khi đề cập đến bản chất của hiện tượng tâm lý xã hội, điều đầu tiên chúng ta phải khẳng định rằng: cá nhân không tồn tại tự nó, tách rời với những cá nhân khác. Cá nhân tồn tại phát triển trong các mối quan hệ xã hội và chính vì thế mỗi cá nhân là “tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” [C. Mác]. Tham gia vào hệ thống các mối quan hệ xã hội khác nhau tức là cá nhân tham gia vào các nhóm xã hội. Các nhóm đó hiện diện mọi nơi và chính là môi trường xã hội của cá nhân. Đó có thể là gia đình - một dạng nhóm đặc biệt, lớp học, cơ quan, bạn bè... Tâm lý học xã hội gọi chung đó là các nhóm xã hội. Hoạt động trong các nhóm xã hội đó cá nhân tác động đến các cá nhân khác đồng thời chịu sự tác động của các cá nhân khác. Sự tác động qua lại đó ảnh hưởng đến hành vi cá nhân và làm nảy sinh những hiện tượng tâm lý chung. Đó là các hiện tượng tâm lý nhóm, rộng hơn gọi là các hiện tượng tâm lý xã hội. Nói như vậy để thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong môi trường xã hội, trong sự tác động qua lại giữa các thành viên. Do vậy bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội phải gắn liền với sự tác động qua lại này. Từ những phân tích trên có thể thấy rằng tâm lý xã hội là những hiện tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình tác động qua lại, giao tiếp và hoạt động cùng nhau của các cá nhân trong nhóm. Các hiện tượng tâm lý xã hội đó điều chỉnh, điều khiển hoạt động cùng nhau của các thành viên và của nhóm xã hội. Mặt khác cũng phải thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có quan hệ đặc biệt và khó có thể tách rời với các hiện tượng tâm lý cá nhân. Các hiện tượng tâm lý xã hội không tồn tại lơ lửng đâu đó ngoài cá nhân mà chúng hiện diện ở cá nhân, thúc đẩy cá nhân hành động, ví dụ sự a dua, sự hoảng loạn, các trào lưu, thị hiếu... Việc nhận biết các hiện tượng tâm lý xã hội cũng chỉ có thể diễn ra trên cơ sở của nhiều cá nhân. Tuy vậy các hiện tượng tâm lý đó không hoàn toàn là các hiện tượng tâm lý cá nhân có thể kiểm soát mà nó từ “bên ngoài” thâm nhập vào cá nhân, vừa được biểu hiện với sắc thái của cá nhân vừa có tính tương đồng với các cá nhân khác trong cùng mối quan hệ tương tác. Có thể coi mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội là mối quan hệ giữa cái chung và riêng. Các hiện tượng tâm lý xã hội hiện diện trong đời sống hàng ngày của chúng ta nhưng không phải lúc nào chúng cũng được nhận biết. Cá nhân có thể bị chi phối bởi các hiện tượng tâm lý xã hội một cách vô thức hay có ý thức. Học tập, rèn luyện để phát huy truyền thống đó là hành động có ý thức, nhưng bắt chước hành vi của người khác, theo trào lưu nhiều khi lại là vô thức. Bị ảnh hưởng của định kiến xã hội trong khi nhìn nhận đánh giá người khác, dân tộc khác mà nhiều khi cá nhân không nhận biết, trong khi hoàn toàn có ý thức thuyết phục người khác làm theo điều mình mong muốn. Nói cách khác, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối tâm lý của cá nhân và qua đó chi phối hoạt động sống của cá nhân. Ở phạm vi lớn hơn, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối các mối quan hệ xã hội trong các nhóm, các cộng đồng hay các dân tộc và cả xã hội loài người. Từ sự thân thiện hay xung đột giữa các cá nhân trong một nhóm xã hội, từ sự định kiến hay đồng nhất hóa với một dân tộc hay một cộng đồng, cá nhân thiết lập quan hệ với các cá nhân khác, nhóm thiết lập quan hệ với nhóm khác. Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu khía cạnh tâm lý xã hội của các tầng lớp, các dân tộc nhằm tạo ra các cơ sở cho việc thiết lập và vận hành các mối quan hệ giữa các nhóm đó một cách hiệu quả. Rõ ràng, các hiện tượng tâm lý xã hội đóng vai trò chi phối, ảnh hưởng đến các mối quan hệ đó. Như vậy, có thể thấy các hiện tượng tâm lý xã hội có chức năng định hướng, thúc đẩy và điều khiển, điều chỉnh hoạt động của cá nhân. Hoạt động của các nhóm xã hội, thông qua đó tác động đến các quá trình xã hội. 3. Phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội Các hiện tượng xã hội và các hiện tượng tâm lý xã hội không đồng nhất, nhưng cũng không tồn tại độc lập, tách rời. Hiện tượng xã hội: bất kì hiện tượng nào nảy sinh trong đời sống xã hội của con người, liên quan đến đời sống xã hội của con người đều được gọi là các hiện tượng xã hội. Đó có thể là các hiện tượng tôn giáo, giáo dục, văn hóa, khoa học, đạo đức, chính trị, giai cấp, giới tính... Có những hiện tượng xã hội có ở mọi thời kì trong lịch sử của loài người, cũng có những hiện tượng xã hội chỉ có ở một giai đoạn xã hội nhất định. Các hiện tượng xã hội nảy sinh, biến đổi và chuyển hóa theo những quy luật nhất định. Có những quy luật phổ quát cho nhiều hiện tượng xã hội, nhưng cũng có những quy luật mang tính đặc thù cho một lĩnh vực xã hội nào đó. Do vậy nghiên cứu các hiện tượng xã hội đòi hỏi sự tham gia của nhiều khoa học khác nhau. Mỗi khoa học tập trung nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể nhưng sự giao thoa là điều tất yếu Tâm lý xã hội chính là minh chứng cho sự giao thoa của các hiện tượng xã hội và tâm lý xã hội. Các hiện tượng xã hội chính là nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội, ví dụ chiến tranh, khủng hoảng, khủng bố... sẽ tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội nhất định như tâm trạng lo lắng của xã hội, tâm trạng phản đối chiến tranh. Như vậy, các hiện tượng tâm lý xã hội là sự phản ánh các hiện tượng xã hội. Các hiện tượng xã hội diễn ra theo các quy luật xã hội, nhưng bất kì một hiện tượng xã hội nào cũng có mặt tâm lý xã hội của nó, bởi lẽ chủ thể của các hiện tượng xã hội chính là con người với ý thức, tinh thần của mình. Đó cũng là điều mà V.Wundt trong tác phẩm Tâm lý học dân tộc - một tác phẩm sớm trong lịch sử của Tâm lý học xã hội đã khẳng định: Một góc nhìn quan trọng mà nhờ đó có thể xem xét tất cả các hiện tượng liên quan đến đời sống cùng nhau của con người đó là góc nhìn Tâm lý học. Cũng cần thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có tính độc lập tương đối với các hiện tượng xã hội. Với tư cách là các hiện tượng thứ phát, các hiện tượng tâm lý xã hội có thể tồn tại lâu hơn và tương đối bền vững, trong khi các hiện tượng xã hội lại dễ thay đổi. Các hiện tượng tâm lý xã hội diễn ra trong cộng đồng lại có tác động điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong cộng đồng đó và thông qua đó tác động ngược trở lại đến các hiện tượng xã hội. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI 1. Các quan điểm về đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội Giống như mọi khoa học. Tâm lý học xã hội cần phải xác định rõ đối tượng nghiên cứu của mình. Cũng không phải là ngoại lệ, khi trong lịch sử phát triển của Tâm lý học xã hội, vấn đề đối tượng của khoa học này đã là vấn đề của nhiều cuộc tranh luận. Vấn đề xác định đối tượng của Tâm lý học xã hội lại càng trở nên khó khăn hơn bởi tính chất giao thoa và sự đa dạng của các vấn đề mà nó nghiên cứu. Có thể điểm qua những quan điểm khác nhau về đối tượng của Tâm lý học xã hội như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lý đám đông như tâm lý tầng lớp, cộng đồng xã hội, bao gồm: truyền thống đạo đức, tập quán; nghiên cứu các tập thể, các quan điểm xã hội. Những nghiên cứu sớm trong lịch sử Tâm lý học xã hội đều tập trung vào đối tượng đám đông. Các tác phẩm của G.Tard về tâm lý dân tộc, của G.Lebon về tâm lý đám đông là minh họa cho quan điểm này. Quan điểm thứ hai cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu nhân cách: đặc điểm loại hình, vị trí, các mối quan hệ liên nhân cách trong đời sống xã hội. Quan điểm này xuất phát từ nghiên cứu nhân cách, đặt các nhân cách trong mối quan hệ liên nhân cách. Cơ sở lý luận của nó chính là bản chất xã hội và giá trị xã hội của nhân cách. Quan điểm thứ ba: nghiên cứu cả các quá trình tâm lý đại chúng, cả vị trí của cá nhân trong nhóm; những thay đổi hoạt động tâm lý của cá nhân trong nhóm do ảnh hưởng của sự tác động qua lại, các đặc điểm nhóm, các khía cạnh tâm lý của các quá trình xã hội. Các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm này tập trung vào việc nghiên cứu suy nghĩ, hành vi xã hội của cá nhân, tri giác xã hội, sự ảnh hưởng xã hội đối với các cá nhân. 2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội Các quan điểm nêu trên cho thấy: đối tượng của Tâm lý học xã hội là rất rộng và phải xác định từ hai phía - cá nhân và nhóm xã hội. Từ đó, ngày nay một cách phổ biến, đối tượng của Tâm lý học xã hội được xác định như sau: - Các hiện tượng tâm lý chung của nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình giao tiếp và tác động qua lại giữa các cá nhân. - Cái chung, đặc trưng, cái bản chất trong tâm lý nhiều người trong các nhóm xã hội nhất định. - Những đặc trưng tâm lý cơ bản của các loại nhóm xã hội được tạo nên từ sự tác động qua lại. - Các quy luật nảy sinh hình thành, vận động và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội và sự tác động qua lại. Cách xác định như vậy cho phép bao quát một diện rộng các vấn đề mà Tâm lý học xã hội cần giải quyết. Đồng thời nó định hướng cho việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý không phải đơn thuần của cá nhân mà là các hiện tượng tâm lý nảy sinh trong đời sống xã hội của con người. Từ cách xác định như vậy, trong quá trình phát triển của Tâm lý học xã hội, hàng loạt các phân ngành ra đời và tập trung sâu hơn vào các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể như tâm lý học tôn giáo, tâm lý học dân tộc, tâm lý học giới tính... 3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội * Nghiên cứu lý luận: Với tư cách là một bộ môn khoa học giao thoa, sử dụng nhiều tri thức khoa học từ các ngành khoa học liên quan, đồng thời tập trung vào việc nghiên cứu các hiện tượng rất phức tạp, Tâm lý học xã hội muốn khẳng định được vị trí của nó trong hệ thống các khoa học thì không thể coi nhẹ việc nghiên cứu lý luận. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận tập trung vào các nội chính như sau: - Xác lập hệ thống các khái niệm khoa học riêng của Tâm lý học xã hội, đặc biệt thống nhất nội hàm của các khái niệm dùng trong lĩnh vực này giữa các nhà khoa học và phân biệt các khái niệm đó với các khái niệm gần hoặc có liên quan trong các lĩnh vực khác. Việc sử dụng các khái niệm của các khoa học giao thoa với nội hàm không xác định làm đánh mất bản chất tâm lý xã hội của khái niệm cũng như tạo ra sự lẫn lộn trong việc trao đổi và phản biện khoa học. Điều đó làm giảm giá trị khoa học của các nghiên cứu. - Phát hiện các quy luật của sự nảy sinh, hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội, các quy luật của sự tác động qua lại giữa người với người trong các nhóm, các quan hệ xã hội. Cụ thể: phát hiện những điều kiện chủ quan, khách quan của sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội, những hình thái biến động, các cơ chế diễn ra các hiện tượng đó. Đóng góp của Tâm lý học xã hội đối với khoa học khác và đối với đời sống xã hội chính là ở nội dung này. Trên cơ sở các quy luật được phát hiện, Tâm lý học xã hội có thể góp phần lý giải các hiện tượng lâm lý xã hội nảy sinh, dự báo xu hướng của các hiện tượng đó và chỉ ra cách thức tác động đến các hiện tượng tâm lý xã hội. - Xây dựng, thiết kế các phương pháp nghiên cứu đặc thù để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. Trong các phương pháp đã có, Tâm lý học xã hội khá mạnh với việc sử dụng các phương pháp thực nghiệm để làm bộc lộ các quy luật và các cơ chế của các hiện tượng tâm lý xã hội tuy vậy trong xu hướng nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội ở phạm vi rộng lớn như tâm lý tộc người, tôn giáo, xuất hiện những khó khăn nhất định về phương pháp nghiên cứu. * Nghiên cứu thực tiễn: Có thể nói những vấn đề thực tiễn ngày càng được đặt ra hết sức đa dạng trước Tâm lý học xã hội và các chuyên ngành hẹp của nó. Việc ứng dụng các quy luật chung của Tâm lý học xã hội vào các lĩnh vực hẹp hơn trong đời sống xã hội liên tục làm nảy sinh các chuyên ngành mới với các vấn đề nóng hổi và phức tạp. Tâm lý học dân tộc đang rất được chú ý trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa với các vấn đề thực tiễn cần giải quyết: làm thế nào để gìn giữ bản sắc dân tộc, sự đồng nhất về văn hóa và tâm lý dân tộc có vai trò thế nào trong quá trình hội nhập? Tâm lý học tôn giáo với các vấn đề về niềm tin tôn giáo, tình cảm tôn giáo trong thời kì có sự tác động qua lại mạnh mẽ của các tôn giáo khác nhau sẽ như thế nào? Tâm lý học giới tính lại đối đầu với các vấn đề nóng bỏng: đâu là nguyên nhân tâm lý xã hội của các hiện tượng đồng giới? Hệ quả của các phong trào đồng giới đối với đời sống xã hội nói chung? Đặc trưng tâm lý xã hội của các nhóm đồng giới?... Cũng như vậy, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học tổ chức và công nghiệp cũng đang đứng trước các vấn đề thực tiễn hết sức cấp bách. Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn vừa là một nhiệm vụ xã hội đặc ra với Tâm lý học xã hội nói chung và các chuyên ngành của nó nói riêng vừa là nhiệm vụ bên ngoài, vừa là sự thúc đẩy bên trong của chính Tâm lý học xã hội. Giải quyết được các nhiệm vụ đó sẽ tạo ra sự phát triển cho chính Tâm lý học xã hội và khẳng định vị trí của Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học và trong đời sống xã hội. III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI 1. Các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội Việc chỉ ra những dấu mốc cơ bản trong lịch sử của Tâm lý học xã hội nhằm tới hai mục đích. Thứ nhất, người nghiên cứu có được bức tranh chung về tiến trình ra đời và phát triển của Tâm lý học xã hội với tư cách là một ngành khoa học. Thứ hai, quan trọng hơn, nó giúp chỉ ra được bản chất của Tâm lý học xã hội, về các vấn đề Tâm lý học xã hội giải quyết, về sự phát triển trong các quan niệm về đối tượng của Tâm lý học xã hội. Cũng giống như nhiều bộ môn khoa học khác, các tư tưởng riêng lẻ đề cập đến các hiện tượng tâm lý xã hội đã xuất hiện từ thời kì cổ đại, dưới hình thức chung nhất là các tư tưởng và các học thuyết triết học. Nguồn gốc của các tư tưởng đó chính là các hiện tượng tâm lý xã hội trong cuộc sống có thể được quan sát thấy như: sự cuồng loạn hay hoảng loạn của đám đông, sự thăng hoa trong các lễ tế thần, sự a dua theo các ý tưởng của đa số, sự tôn sùng của các cộng đồng đối với thủ lĩnh, với tô tem... Tất cả các hiện tượng tâm lý xã hội đó trong cuộc sống đã đặt các nhà triết học, các nhà tư tưởng trước những câu hỏi lớn: Điều gì thúc đẩy con người cùng tiến hành các hành động như vậy? Cái gì chi phối hành vi của một nhóm, một cộng đồng người? Trả lời các câu hỏi đó, các nhà triết học đã đưa ra những ý tưởng đầu tiên về các hiện tượng tâm lý xã hội. Rất nhiều nhà nghiên cứu đều nhìn thấy sự tồn tại của các tư tưởng Tâm lý học xã hội trong lòng các lý thuyết triết học cổ đại. Các ý tưởng về “tâm lý dân tộc” - sự khác biệt trong tâm lý của dân tộc này với dân tộc khác, các “bản năng đám đông” có thể tìm thấy trong các công trình của Arixtốt hay Platon. G.Allport cho rằng người đặt nền móng cho các vấn đề của Tâm lý học xã hội là Platon. Nói cách khác, các mầm mống của Tâm lý học xã hội đã được gieo từ thời kì cổ đại, trên chính mảnh đất là cuộc sống xã hội của con người. Xã hội ngày càng phát triển hơn, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, việc điều chỉnh hành vi xã hội cùng ngày càng trở nên cần thiết hơn. Cùng với sự đòi hỏi ngày càng cao, càng mang tính cấp thiết của xã hội và sự phát triển của các khoa học khác nhau, Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập. 2. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập Theo quan điểm của Anđrêeva, khi xem xét vấn đề tâm lý học trở thành một khoa học độc lập như thế nào cần phải chú ý đến ba yếu tố: 1] Các yêu cầu đối với việc giải quyết các vấn đề Tâm lý học xã hội, xuất hiện trong các ngành khoa học giáp ranh khác nhau mà bản thân các khoa học đó chưa giải quyết được; 2] Các quá trình chuẩn bị phân tách các vấn đề Tâm lý học xã hội bên trong hai bộ môn “mẹ” chủ yếu: tâm lý học và xã hội học; 3] Đặc điểm của các dạng tri thức Tâm lý học xã hội độc lập đầu tiên - Đây là các động lực trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của Tâm lý học xã hội như là một ngành khoa học độc lập. Giai đoạn giữa thế kỉ XIX là giai đoạn một loạt các bộ môn khoa học, trong đó có các bộ môn khoa học xã hội, đạt được những tiến bộ đáng kể. Ví dụ, ngôn ngữ học đã có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu lớn lao. Năm 1859, M.Laxarus [1824 1903] và nhà ngôn ngữ học G.Steinthal [1823 - 1893] sáng lập tạp chí “Tạp chí tâm lý học dân tộc và ngôn ngữ” tại Đức. Vấn đề giao lưu ngôn ngữ và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc được quan tâm. Thế nhưng Ngôn ngữ học không thể giải quyết được các vấn đề như sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc bằng các phương tiện của mình. Cũng như vậy, các khoa học khác như Nhân chủng học, Dân tộc học, Khảo cổ học đến thời điểm đó đã tích luỹ được rất nhiều dữ kiện. Trong tất cả các nghiên cứu này xuất hiện một hiện thực cần được tính đến: các đặc điểm tâm lý của một số các nhóm dân tộc, mối liên hệ của các sản phẩm văn hóa và truyền thống, các lễ nghi... Đó chính là lý đo mà nhà tâm lý học xã hội người Mỹ T.Shibutani kết luận rằng Tâm lý học xã hội đã trở thành một lĩnh vực độc lập một phần vì các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau không thể giải quyết được các vấn đề nảy sinh - có liên quan đến Tâm lý học xã hội [Shibutani,

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Video liên quan

Chủ Đề