Thế nào là một hệ thống pháp luật tốt

01[56]/2010

Mục lục

  • 1.Nhận xét chung
  • 2.Một số định hướng phát triển nguồn của luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
  • 3.Đánh giá tính phù hợp Hiến pháp của hệ thống pháp luật
  • 4.Tài liệu tham khảo

Về hệ thống pháp luật Việt Nam và một số định hướng đổi mới, hoàn thiện

ĐÀO TRÍ ÚC

01[56]/2010 - 2010, Trang 3-11

Ngày đăng:

  • Trích dẫn
  • Share

    • Twitter
    • Facebook
    • Zalo

TÓM TẮT

không có


ABSTRACT:

no

TỪ KHÓA: không có,

KEYWORDS: no,

Trích dẫn:

×

ĐÀO TRÍ ÚC, Về hệ thống pháp luật Việt Nam và một số định hướng đổi mới, hoàn thiện, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, 01[56]/2010, Trang 3-11

//tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=58a74d65-7e5d-4556-ad8c-9b1fc631302a

Đăng ký để tải miễn phí Đăng ký

Bài viết đã được lưu vài tài khoản.

×

Vui lòng vào mục "Quản lý tài khoản" -> "Bài viết đã lưu" để có xem tiếp ngay lần đăng nhập sau.

1. Nhận xét chung

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị BCH TW Đảng về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, các Nghị quyết Trung ương và Nghị quyết Đại hội lần thứ IX và lần thứ X của Đảng đã đề ra nhiều chủ trương lớn với một hệ thống các giải pháp đồng bộ vừa có tính đột phá đối với những vấn đề bức xúc; vừa có tính chiến lược lâu dài, tạo cơ sở quan trọng cho việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật đi vào chiều sâu. Việc thực hiện Nghị quyết 48 - NQ/TW nói trên của Bộ Chính trị đòi hỏi sự cố gắng rất lớn, đồng bộ và bền bỉ không những của các cơ quan pháp luật, đội ngũ cán bộ tư pháp mà cả bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị.

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN được Đảng và Nhà nước ta đề lên thành một quy tắc hiến định ở Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 [sửa đổi năm 2001] là quan điểm có tính phương pháp luận cho toàn bộ quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn tiếp tục đổi mới và trong suốt cả thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nhờ đó, trong quá trình đổi mới hệ thống pháp luật, chúng ta đã nỗ lực bảo đảm nguyên tắc dân chủ XHCN nhằm làm cho pháp luật nước ta thật sự là những đại lượng bình đẳng, công bằng, phản ánh được lại ích của các giai tầng xã hội, các nhóm dân cư, trong đó Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến nhóm xã hội bị thiệt thời, cần có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, của xã hội như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, cư dân vùng sâu, vùng xa, người già, người cô đơn không nơi nương tựa, v.v... Quan điểm điều chỉnh pháp luật đó đến lượt nó đòi hỏi sự đổi mới một cách căn bản quy trình xây dựng chính sách và pháp luật nhằm khắc phục triệt để cơ chế xây dựng pháp luật thiên về phản ánh lợi ích bộ, ngành, dành sự thuận lợi cho cơ quan quản lý Nhà nước, đẩy sự khó khăn cho nhân dân, cho các doanh nghiệp. Chính cơ chế đó đã dẫn đến việc trình và ban hành các dự án Luật, Pháp lệnh, Nghị định kém chất lượng, khó đi vào cuộc sống, vì nhân dân không chấp nhận các quy định được đưa ra một cách áp đặt.

Sự thừa nhận và thực hiện các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự thượng tôn pháp luật trong đời sống xã hội và thực thi pháp luật trên thực tế. Đó chính là lý do của việc tiến hành cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật. Tư duy được hình thành và củng cố trên nền tảng tư tưởng pháp quyền chính là tư duy thực tiễn, lấy việc thực hiện và bảo đảm lợi ích của xã hội, của con người làm thước đo hiệu quả của pháp luật.

Sự thừa nhận các giá trị pháp quyền phổ biến là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng và thực hiện các nguyên tắc pháp lý trong quá trình hội nhập quốc tế, là bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế.

Sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta đã xây dựng được một số luật tạo khung pháp luật cho phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN; chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh doanh và tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và đảm bảo đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội đã từng bước được xác lập. Nhìn chung các thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã bước đầu hình thành. Cơ chế xin cho trong các quy định mang tính hành chính, mệnh lệnh điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng, đã được giảm thiểu; nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm” trong hoạt động kinh doanh từng bước được xác lập.

Công tác soạn thảo, tham định và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dần dần đi vào nề nếp, theo một quy trình thống nhất do luật định; các tổ chức, công dân chịu sự tác động trực tiếp của văn bản đã được tạo điều kiện tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ngày càng đông đảo và thực chất hơn. Chất lượng văn bản pháp luật được cải thiện một bước quan trọng.

Hoạt động kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được triển khai trên diện rộng và đang trở thành một trong những nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Hoạt động pháp điển hóa bước đầu được chú trọng, một số lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội đã được điều chỉnh bằng bộ luật, luật và pháp lệnh; đã từng bước phân định rõ hơn chức năng lập pháp và chức năng hành pháp của Nhà nước.

Hoạt động thông tin, phổ biến và giáo dục pháp luật có sự chuyến biến tích cực, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng về thông tin pháp luật của công dân, tổ chức, góp phần từng bước nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân.

Các cơ sở dữ liệu pháp luật bước đầu được hình thành, “Công báo” tăng số lượng và kỳ phát hành phục vụ hoạt động quản lý nhà nước và đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân.

Giáo dục pháp luật được đưa vào trường học. Hầu hết các xã, phường, thị trấn trong cả nước có Tủ sách pháp luật, bước đầu phát huy tác dụng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và hòa giải được đẩy mạnh. Trung tâm trợ giúp pháp lý được thiết lập ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Tổ chức và hoạt động của các Tổ hòa giải ở cơ sở được kiện toàn, phát huy tác dụng tích cực trong việc giáo dục pháp luật cũng như giải quyết các vi phạm pháp luật nhỏ và tranh chấp trong nội bộ nhân dân.

Mặc dù đã có những cố gắng và đạt được những kết quả quan trọng trong xây dựng và thi hành pháp luật, nhưng nhìn chung hệ thống pháp luật vẫn tồn tại nhiều yếu kém và bất cập. Hệ thống pháp luật nước ta dù đã được đổi mới tương đối rõ nét, nhưng kết quả đạt được vẫn còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hệ thống các cơ quan thi hành và bảo vệ pháp luật, đặc biệt là các cơ quan tư pháp chưa có những bước đột phá mạnh mẽ; đội ngũ cán bộ, công chúc còn nhiều yếu kém và hạn chế về trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần và trách nhiệm; ý thức sống và làm việc theo pháp luật của cán bộ và nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế.

Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi pháp luật nước ta phải tương thích với các quy định pháp lý quốc tế, bao gồm các quy phạm pháp luật quốc tế, các điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế cũng như các quy định pháp lý của các tổ chức quốc tế và khu vực. Có thể nói rằng, cho đến nay sự tương thích đó đang là vấn đề lớn của hệ thống pháp luật nước ta.

Một trong những bất cập của pháp luật hiện nay là sự thiếu ổn định và tính khả thi của nó. Không ít quy định pháp luật được xây dựng công phu, tốn kém, nhưng mới ban hành chưa lâu đã có nhu cầu phải bổ sung, sửa đổi. Tình hình này đã làm cho pháp luật nước ta khó bắt kịp nhịp điệu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và càng làm khó thêm khả năng tương thích với các không gian pháp lý quốc tế.

Đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành có thể nhận thấy rằng, hệ thống pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, nhiều lĩnh vực bức xúc của đời sống xã hội vẫn chưa có luật, thậm chí chưa có văn bản dưới luật của Chính phủ để điều chỉnh. Nhiều nội dung quan trọng được các nghị quyết của Đảng đề ra về đổi mới kinh tế - xã hội chậm được thể chế hóa, ví dụ như vấn đề quản lý nhà nước đối vói tài sản thuộc sở hữu nhà nước, về đăng ký kinh doanh bất động sản, về cạnh tranh trung thực, kiểm soát độc quyền, về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, về cải cách bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị các cấp... Mặt khác, chưa có sự phát triển cân đối giữa các lĩnh vực: các luật tố tụng thường được ban hành, sửa đổi, bổ sung chậm hơn so vói luật về nội dung.

Nội dung của pháp luật trong một số lĩnh vực còn ẩn chứa tư duy bao cấp, chưa thực sự chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trong một số lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, tư duy làm luật chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn nên tính dự báo thấp, thiếu ổn định, phải thường xuyên sửa đổi. Pháp luật chưa thực sự tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; chưa phân định được thật rõ chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động doanh nghiệp và đời sống dân sự. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước bằng các quyết định hành chính như sự ra đời của một số tổng công ty đã hạn chế tính cạnh tranh và dẫn tới tình trạng độc quyền. Các quy định pháp luật để điều tiết thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường tài chính và ngân hàng chưa đồng bộ và ôn định. Nhũng thiếu sót này không nhũng đã tạo ra nhũng khoảng trống trong pháp luật, mà còn tạo cơ hội cho sự lạm dụng, không huy động tốt các nguồn lực trong nước để phát triển.

Các quy định về quyền tự do, dân chủ của công dân mặc dù đã được Hiến pháp và các luật khung ghi nhận, nhưng vẫn còn thiếu các cơ chế giám sát và chế tài hữu hiệu đối với các hành vi vi phạm các quyền này. Trong các lĩnh vực như: văn hóa, xã hội, bảo vệ quyền con người, bảo hộ người tiêu dùng vẫn còn các quy định mang tính tuyên ngôn, chung chung như “theo quy định của pháp luật”, mà thiếu các quy định cụ thể hướng dẫn thi hành, đảm bảo thực hiện. Các quy định của pháp luật trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước vẫn còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu thống nhất; thiếu các quy định về đề cao trách nhiệm cá nhân; còn phiền hà cho đối tượng quản lý và có lợi cho chủ thể có thẩm quyền nhà nước v.v.

Văn bản do Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương ban hành chiếm một tỷ trọng lớn trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Việc tồn tại nhiều hình thức, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác nhau ban hành ở các thời điểm khác nhau về cùng một vấn đề, một lĩnh vực đã gây nên tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn về nội dung giữa các văn bản quy phạm pháp luật, vẫn còn nhiều trường họp khi ban hành văn bản mới không ghi rõ những văn bản, điều khoản liên quan bị thay thế hoặc bãi bỏ, do vậy, làm cho hệ thống pháp luật rườm rà, khó kiểm soát và khó tiếp cận. Trong khi đó, cơ chế kiểm tra, giám sát trước và sau về tính họp hiến và họp pháp của văn bản quy phạm pháp luật, nhất là văn bản do các Bộ, ngành, địa phương ban hành lại chưa được tổ chức thực hiện tốt trên thực tế.


2. Một số định hướng phát triển nguồn của luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay

Hệ thống pháp luật Việt Nam hiểu theo nghĩa phổ biến trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện tại là hệ thống các quy phạm pháp luật được phân chia và sắp xếp theo ngành luật, chế định pháp luật và quy phạm pháp luật mà giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau về mục đích, về nội dung và về hiệu lực. Khi nói đến hệ thống pháp luật thì không thể không nói đến nguyên tắc chung chi phối các quy phạm, thứ bậc của nó về hiệu lực. ví dụ, nguyên tắc các quy phạm pháp luật có hiệu lực cao hơn được ưu tiên áp dụng so với các quy phạm có hiệu lực thấp hơn; các quy phạm pháp luật chuyên ngành được ưu tiên áp dụng so với các quy phạm pháp luật có hiệu lực chung, các quy phạm pháp luật ban hành sau sẽ được ưu tiên áp dụng so với các quy phạm pháp luật ban hành trước nếu do cùng cấp văn bản.

Hệ thống pháp luật Việt Nam được thể hiện qua toàn bộ các chế định và quy phạm. Các quy phạm pháp luật có nội dung đa dạng và phong phú vì đối tượng mà chúng điều chỉnh là các quan hệ xã hội càng ngày càng phát triển phức tạp về tính chất và quy mô lớn xét về thể loại. Chính vì thế, việc nghiên cứu nội dung cụ thể của pháp luật chỉ có thể được nghiên cứu đầy đủ đối với từng lĩnh vực hoặc từng chế định cụ thể. Trong tổng thể, có thể nhận rõ bốn bộ phận lớn các quy phạm và chế định pháp luật của hệ thống pháp luật Việt Nam.

Thứ nhất, pháp luật hiện hành của Việt Nam có nội dung hướng tới việc đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân; đảm bảo các điều kiện để cá nhân có thể thực hiện các quyền tự do dân chủ của mình.

Thứ hai, pháp luật tạo ra những cơ sở pháp lý cho các quan hệ kinh tế, trong đó quan hệ sở hữu là quan hệ nền tảng, kế đó là những cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư, thương mại nhằm phát triển nền kinh tế của đất nước.

Thứ ba, pháp luật có nội dung đảm bảo hoạt động hiệu quả của bộ máy nhà nước, bao gồm hoạt động của các cơ quan lập pháp, các cơ quan hành pháp và tư pháp.

Thứ tư, một trong những nội dung quan trọng của pháp luật là tạo ra cơ chế pháp lý có hiệu quả nhằm giải quyết nhanh, chính xác các tranh chấp phát sinh trong xã hội.

Đặc trưng của pháp luật Việt Nam có thể khái quát ở những nét cơ bản sau:

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam thuộc truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa. Điều này có nghĩa là các quy phạm pháp luật Việt Nam là các quy phạm được soản thảo và ban hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục luật định. Án lệ không được coi là nguồn luật cho dù các kết luận hoặc hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được coi là văn bản quy phạm pháp luật. Điều này có nghĩa ở Việt Nam, văn bản pháp luật vẫn được coi là nguồn chủ yếu của pháp luật.

- Nguồn pháp luật khá đa dạng về thể loại và vì do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành nên có hiệu lực khác nhau. Trong hoạt động xét xử của Toà án cũng như trong hoạt động quản lý, các thẩm phán hay các công chức nhà nước thường làm nhiệm vụ áp dụng pháp luật đúng lời văn, mà ít khi chú ý đến tinh thần của điều luật. Không gian cho sự sáng tạo của họ là rất nhỏ và vì thế khi trong luật không có một quy định nào đó thì vấn đề pháp lý nảy sinh từ cuộc sống cụ thể sẽ không được giải quyết. Cách tiếp cận này đã khiến cho các thẩm phán và công chức nhà nước luôn luôn bị trói chặt bải những quy phạm pháp luật hiện hữu.

- Các văn bản pháp luật hiện nay thiếu nhiều quy phạm cụ thể. Các luật được ban hành nhiều, song phần lớn chứa đựng các nguyên tắc và các quy phạm chung. Chính vì vậy việc áp dụng các quy phạm nguyên tắc này đòi hỏi phải có những giải thích cần thiết. Phần lớn các luật giao nhiệm vụ giải thích thực hiện luật cho Chính phủ, còn Chính phủ thì giao lại cho các Bộ ngành, các địa phương. vì vậy, mỗi luật đều tạo ra một hệ thống các văn bản thấp hơn, khiến pháp luật trở nên cồng kềnh về số lượng văn bản, dễ mâu thuẫn và xung đột về nội dung. Hệ quả là hiệu lực và khả năng thực hiện pháp luật rất hạn chế.

- Về luật tục và tập quấn pháp lý: Theo cách hiểu phổ biến, luật tục là quy tắc xử sự, quy tắc hành vi có được do quá trình áp dụng nó một cách tự phát trong một thời gian dài ở những vùng cư dân nhất định. Do vậy, luật tục chỉ có thể là những tục lệ nào được Nhà nước chính thức thừa nhận hoặc được Tòa án áp dụng trong thực tiễn xét xử. Ranh giới giữa tục lệ pháp lý với quy phạm pháp luật không được xác định cứng nhắc, bởi vì, khi tục lệ đó được đưa vào văn bản quy phạm hoặc được xem là cơ sở cho việc xét xử thì nó mặc nhiên trở thành một bộ phận của pháp luật hiện hành.

Người ta phân biệt luật tục với tập quán, tức là những gì trở nên quen thuộc trong một lĩnh vực hoạt động nào đó, ví dụ trong lĩnh vực kinh doanh [tập quán thương mại]. Luật tục phải là cái gì đó có nguồn gốc xưa hơn tập quán. Ở Anh, Luật năm 1265 [cho đến nay vẫn còn hiệu lực] có quy định rằng, chỉ những tục lệ có từ trước năm 1189 mới là Luật tục. Như vậy, ở đây phân biệt luật tục [tập quán pháp lý địa phương] với tập quán thương mại [mercantile customs] theo độ xưa của chúng.

Luật tục đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành các hệ thống pháp luật trên thế giới. Tuy nhiên, vai trò của chúng ngày càng bị hạn chế. Ở nước ta và nói chung là ở các nước XHCN trước đây, luật tục không được coi là một nguồn của pháp luật. Các cơ quan áp dụng pháp luật không được sử dụng các tục lệ pháp lý ở các địa phương và các dân tộc khác nhau giải quyết những tranh chấp, những vụ án hình sự, dân sự cụ thể.

Tuy vậy, nghiên cứu thực tiễn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở nước ta trong suốt những thời kỳ qua cho thấy rằng, ở rất nhiều trường họp việc giải quyết các vụ việc ấy bằng pháp luật chính thức của Nhà nước là rất khó khăn vì có sự “xung đột” giữa pháp luật với tập tục, kể cả tập quán pháp lý ở địa phương hoặc của nhóm dân tộc ở đó. Kết quả là hoặc các quyết định, các bản án không phát huy được hiệu lực pháp lý, hoặc bị phản ứng mạnh từ phía dân chúng ở địa phương, hoặc nói chung là không được thi hành hoặc thi hành không đầy đủ.

Các công trình nghiên cứu về Tây Nguyên ở nước ta đã cho thấy rằng, cư dân ở đó gồm 12 thành phần dân tộc, đã có sự thống nhất về phương diện lịch sử văn hóa, giữ lại nhiều yếu tố của nền văn hóa bản địa. Ở đó đã có một thiết chế xã hội khá chặt chẽ về ranh giới lãnh thổ, về quyền sử dụng đất đai, luật tục, lễ thúc của buôn làng. Theo luật tục của người Ê-đê thì quyền thừa kế tài sản được quy định như sau: “chị cả là người thay mặt cho mẹ, anh rễ là người thay mặt cho cha. Nếu dì chết, người cháu sẽ hưởng thừa kế, nếu bà chết, người cháu sẽ thừa kế: người nữ này mất đi, người nữ khác sẽ thừa kế đất đai và tài sản”. Người Tây Nguyên còn có “luật đầu rìu”, tức là luật công nhận quyền làm chủ của người đầu tiên phát hiện và chăm sóc khu đất hoang. Người Ê-đê quy định tục lệ: Không ai được trèo lên cây Ktơng, kjar có bọng ong, vì sẽ phạm tội như chặt đuôi voi, như ngủ với vợ nhà giàu, hay vợ của anh em trai, đó là điều nghiêm cấm, là tội lỗi.

Ở Tây Nguyên, hành vi của con người do M’tao, Pdâu điều chỉnh [chế độ chủ làng]. Các tòa án phong tục vẫn tồn tại và xử theo luật tục, mặc dù đã có các Tòa án nhân dân của chính quyền. Hầu hết các vụ ly hôn và ma lai trước khi đưa ra xử ở Tòa án đều được xét xử trước theo phong tục. Ớ các vùng cao của Tây Nguyên còn có tục “mất một đền ba”, nếu đem so với cách xử lý trách nhiệm hình sự và dân sự của pháp luật chính thức của Nhà nước thì kết quả của các bản án và quyết định của Tòa án thường bị người Thượng phản đối.

Thiết nghĩ rằng, việc tiến hành cuộc cách mạng văn hóa cũng như những biện pháp tư tưởng và pháp luật phải đi liền với việc phát triển kinh tế, xã hội của cả đất nước nói chung cũng như ở từng khu vực dân cư và dân tộc, sắc tộc cụ thể. Ớ nước ta, theo các nhà dân tộc học, có hơn 50 dân tộc và sắc tộc khác nhau sống trên một dải đất không rộng lắm; quá trình nhất thể hóa về pháp luật sẽ là vô nghĩa và thiếu cơ sở khách quan khi chưa có sự đồng nhất trong các điều kiện kinh tế - xã hội. Cương lĩnh của Đảng ta, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Hiến pháp đều nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội để khắc phục dần sự chênh lệch về các điều kiện giữa các khu vực miền xuôi và miền ngược. Pháp luật, dù là “đại lượng như nhau cho những các cá nhân khác nhau” cũng không thể khái quát hóa đến mức không tính đến các tập quán pháp lý của các dân tộc thiếu số [luật tục ở Tây Nguyên, của các dân tộc phía Bắc nước ta], cần phải nghiên cứu và xác định rõ những tập quán tốt, kể cả các tập quán ở miền xuôi, ở các khu vực dân cư và dân tộc khác nhau, và được đồng bào địa phương chấp nhận, để chính thức thừa nhận thông qua Nhà nước. Khi đó, những tập quán pháp lý này cũng sẽ là những “đại lượng như nhau” của số dân cư ở địa phương.

Cũng có nước, tuy không coi trọng luật tục như pháp luật thực định, nhưng không hoàn toàn bác bỏ chúng. Chẳng hạn, theo pháp luật của Italia và của Áo, luật tục chỉ được áp dụng khi trong điều luật có viện dẫn đến tục lệ cụ thể đó. Trong khi đó, ở nhiều nước, và đáng chú ý là ở các nước phát triển cao, luật tục được xếp ngang hàng với pháp luật thực định, chẳng hạn như ở Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Sĩ, Hy Lạp ...

Trên thực tế, pháp luật, khi áp dụng muốn được công bằng và đầy đủ, cần phải được bổ sung bằng tục lệ, tập quán. Chẳng hạn, khi giải quyết một vụ án về tranh chấp quyền thừa kế, rất khó lòng mà khẳng định ngay được, chẳng hạn, tài sản này là vật tặng gia truyền hay không, vì mỗi dân tộc và sắc tộc có một tục lệ tặng cho riêng, rất độc đáo. Ở đây cần phải áp dụng nguyên tắc “secundum legem”, “bổ sung cho luật”, vì vậy đây là cách điều chỉnh có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.

Án lệ. Ở nước ta, trong thời kì mới giành được chính quyền, bên cạnh những văn bản pháp luật của Chính phủ cũng đã có một thời gian án lệ đóng vai trò như những quy phạm pháp luật. Thông tư số 442-TTg ngày 19- 1- 1955 của Thủ tướng Chính phủ quy định một số tội phạm và hình phạt đã chỉ rõ: Tới nay, các Tòa án căn cứ vào những văn bản nói trên [các văn bản pháp luật - người trích chú thích] và chính sách trừng trị của Chính phủ mà xét xử đem lại kết quả tốt cho việc bảo vệ trật tự, an ninh. Kinh nghiệm xét xứ về một số loại phạm pháp trở thành án lệ “. Tuy nhiên, càng về sau, án lệ không được vận dụng một cách phổ biến và sau đó chúng ta khẳng định nguyên tắc: “Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” theo hướng chỉ coi trọng pháp luật gồm các văn bản pháp luật thực định. Như vậy, thực tiễn ở nước ta đã đi theo hướng không coi thực tiễn xét xử của các Tòa án là nguồn của pháp luật, tức là theo một nguyên tắc pháp lý đã từng được nêu từ thời còn Bộ luật lustinian là: “không phải các thí dụ cụ thể mà các đạo luật mới có hiệu lực pháp lý” [“Non exemplis, sed legibus, Judicandum est”].

Điều đó không có nghĩa là hạ thấp và coi nhẹ vai trò của thực tiễn xét xử. Trên thực tế, các Tòa án ở nước ta đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành nên các quy phạm pháp luật, đi từ những trường hợp cụ thể đến mức khái quát cao làm cơ sở cho sự ra đời của các đạo luật và bộ luật quan trọng của Nhà nước ta hiện nay. Ở đây không thể không kể đến, chẳng hạn trong lĩnh vực luật hình sự, vai trò “là tiền thân” của Bộ luật hình sự năm 1985 chính là các bản tổng kết chuyên đề, tổng kết từng năm, từng thời kỳ, các Thông tư của các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử của nước ta. Chẳng hạn, đó là “Bản tổng kết chuyên đề các tội giết người”, “Bản tổng kết chuyên đề về các tội hiếp dâm”, “Bản tổng kết chuyên đề về các tội của vị thành niên” v.v.

Trong khi đó, ở các nước Anh - Mỹ và các nước thuộc hệ pháp luật Common Law, án lệ [stare decisis] rất được coi trọng. Ở Anh, đạo luật [statute] không đóng vai trò lớn như ở các nước Châu Âu lục địa, nếu so với án lệ. Cho nên, luật của Anh có thể được coi là luật án lệ điển hình nhất trên thế giới [case law]. Và để tìm hiểu pháp luật của Anh, trước hết phải tìm hiểu án lệ, thực tiễn xét xử của tòa án.

Án lệ có mấy nội dung như sau: quyết định hoặc bản án của tòa cấp trên có giá trị bắt buộc đối với các tòa cấp dưới; Tòa phá án cũng phải tôn trọng quyết định trước đó của bản thân mình.

Để phát huy được hiệu lực của các án lệ, bản thân các tòa án phải được tổ chức thành một hệ thống có tính tập trung cao. Hay nói cách khác ở đâu có hệ thống tòa án tập trung, ở đó mới có thể nói đến vai trò của án lệ. Đồng thời, các án lệ phải có những hình thức ghi nhận và phổ biến thống nhất [law reports]. Nhiều tập án lệ của các tòa án nước Anh có tác dụng không chỉ ở trong nước mà còn được áp dụng rộng rãi ở các nước Á - Phi trước đây là thuộc địa của Anh hoặc nằm trong khối Liên hiệp Anh.

Ở các nước trên thế giới, cho dù là thuộc hệ thống pháp luật nào, mặc dù có đôi chỗ khác nhau nhưng việc xét xử cũng đều tuân theo án lệ hoặc sử dụng các bản án trước đó làm tài liệu tham khảo.

Để có thể sử dụng tốt các án lệ này, nhiều nước trên thế giới đã sử dụng phương pháp là biên tập các án lệ này thành tập án lệ và công khai chúng cho mọi người được biết.


3. Đánh giá tính phù hợp Hiến pháp của hệ thống pháp luật

Trong Nhà nước pháp quyền, nếu chỉ dừng lại ở các yêu cầu chung về tính tối cao của pháp luật, sự ràng buộc của các thiết chế quyền lực bải pháp luật thì vẫn chưa có đủ bảo đảm cho việc khẳng định trên thực tế chủ quyền chính trị của nhân dân. Chủ quyền chính trị đó được ghi nhận bằng một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất và có vị trí chính trị to lớn chi phối mọi mặt của đời sống xã hội. Đó là Hiến pháp, Hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý xác nhận chủ quyền tối cao của nhân dân, ghi nhận chế độ dân chủ đại diện và vị thế chi phối của nó. Đó không chỉ là vấn đề hình thức, vì nó có vị trí pháp lý cao, do cơ quan quyền lực cao nhất ban hành, mà đây là vấn đề nội dung thực chất của nó. Nội dung về dân chủ, về các quyền cơ bản của con người trong xã hội. Vì vậy, chẳng hạn ở Anh, khi người ta nói ai đó đã hành động theo đúng Hiến pháp thì điều đó không hoàn toàn chỉ có nghĩa là hành động đó đã hợp pháp hay không hợp pháp. Một hành động của người cầm quyền được coi là đúng vói Hiến pháp, phù họp với Hiến pháp, khi việc làm đó có lợi cho nhân dân, phù họp với ý nguyện của nhân dân. Do đó, một quan chức có thể phải từ chức nếu có hành vi trái với ý nguyện của dân, chứ không nhất thiết là vi phạm pháp luật, không hợp pháp. Hiến pháp được hiểu theo nghĩa rộng như vậy.

Vì vậy, chủ nghĩa lập hiến là tư tưởng coi trọng dân chủ, ý chí và sự đại diện hợp pháp cho ý chí của nhân dân, hiểu đúng và làm đúng chủ quyền tối cao của nhân dân được phản ánh qua Hiến pháp, các nguyên tắc, các quy định, quy tắc có tính hiến định, toàn bộ các quyền và các tự do cơ bản của người dân.

Tuy nhiên, chủ nghĩa lập hiến chỉ có ý nghĩa khi những nguyên tắc và những đòi hỏi đó được duy trì và coi trọng trong thực tiễn sinh hoạt xã hội và sinh hoạt quốc gia. Ở đây có thể có bốn tình huống xảy ra:

Một là, các chức năng, các thẩm quyền của các thiết chế nhà nước không được xác định đúng đắn và họp lý dẫn đến tình trạng vượt quyền, lạm quyền tức là vi phạm các thẩm quyến được Hiến pháp ghi nhận. Tình huống này có thể xảy ra khi ban hành các đạo luật về tổ chức.

Hai là, khi các cơ quan hành pháp thực thi chức năng, thẩm quyền trong thực tiễn áp dụng pháp luật thường có khả năng vượt quá quyền hạn cho phép, trong đó có cả việc ban hành các văn bản, đưa ra các quyết định trái với Hiến pháp và pháp luật, xâm phạm đến thẩm quyền của các cơ quan khác.

Ba là, có những đạo luật có khả năng gây tổn hại hoặc đã thực sự ảnh hưởng đến quyền và lợi ích họp pháp và chính đáng của công dân, của các tổ chúc và cộng đồng.

Bốn là, có những quyết định, những hành vi sai trái từ phía các cơ quan quyền lực có khả năng hoặc thực sự đã gây thiệt hại cho công dân, các tổ chức và cộng đồng.

Để ngăn ngừa những khả năng đó xảy ra và khôi phục các thẩm quyền của các thiết chế hay các quyền tự do của công dân, tức là để cho những đòi hỏi của chế độ Hiến pháp được tôn trọng và bảo đảm trong thực tế, trong các lý thuyết chính trị và trong thực tiễn sử dụng quyền lực đã hình thành ra những cơ chế bảo vệ và khôi phục trật tự hiến định.

Mục đích của cơ chế này là thực hiện việc kiểm tra các văn bản và các hành vi về tính họp hiến của chúng, một sự kiểm tra chủ yếu và trước hết dựa trên cơ sở làm rõ tinh thần của Hiến pháp, của các đạo luật, xác định được ý định, nội dung và mục đích điều chỉnh của luật để từ đó đưa ra các phán quyết cần thiết. Vì đây là sự đánh giá về sự phù họp của các đạo luật, của các quyết định của cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, không chỉ đối với những quy định cụ thể của Hiến pháp mà có thể với các nguyên tắc và các đòi hỏi của nền dân chủ, các nguyên tắc chung của pháp luật mà chủ thể của các phán quyết phải có tầm nhìn rộng, có sự am hiểu pháp luật trong bề sâu của nó. Mặt khác, đây là vấn đề của những cơ quan chức năng khác nhau và về quan hệ giữa một bên là một cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước và một bên là công dân, nên sự đánh giá, sự phủ quyết phải bảo đảm tạo ra được sự “tâm phục, khẩu phục” như yêu cầu đối với hoạt động của tòa án. Nói cách khác, trong mối liên hệ phức tạp và có sự xung đột với quyền và lợi ích, thiết chế kiểm tra này cần có tính độc lập, có đầy đủ thẩm quyền cần thiết.

Xác lập được cơ chế kiểm tra và bảo vệ Hiến pháp, giải thích Hiến pháp, khắc phục hậu quả của sự vi phạm Hiến pháp là phương pháp cần thiết để tạo ra sự bảo đảm vững chắc cho nền dân chủ.

Nói đến cơ chế kiểm tra và phán quyết là nói đến những hình thức tài phán. Ở đây, có thể gọi là tài phán Hiến pháp. Đồng thời, nếu là một hình thức tài phán thì cần làm rõ những vấn đề sau đây:

1. Thực chất của sự kiểm tra tính họp hiến là gì? Nó có nằm trong khuôn khổ của ba phạm vi quyền lực truyền thống của sự phân quyền hay không, hay đây là một loại chức năng hoàn toàn riêng biệt so với các chức năng nói trên và do đó cũng có quyền riêng, có vị thế lớn trong số các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất?

2. Sự kiểm tra và giám sát Hiến pháp có dừng lại ở việc xác định tính phù hợp Hiến pháp đối với các luật và các văn bản dưới luật, hay là còn đối với các lĩnh vực khác, chẳng hạn như kiểm tra hoạt động tư pháp: đối với việc bảo đảm các quyền và tự do của cá nhân công dân?

3. Sự kiểm tra tính họp hiến có bao gồm cả việc đánh giá và xem xét các hành vi hay không, hay chỉ giới hạn trong việc đánh giá văn bản?

4. Nếu nói về “sự phù họp” với Hiến pháp thì cần được hiểu là sự phù họp về hình thức [lời văn] quy định hay còn bao gồm cả sự phù họp về nội dung, thực chất, tinh thần của Hiến pháp?

Thực tiễn ở các nước trên thế giới cho thấy nhiều câu trả lời cho những vấn đề nêu trên. Điều đó chỉ ra rằng, không hề có một cơ chế tài phán Hiến pháp chung cho mọi nước cả về hình thức và phương thức thực hiện, cả về tính chất, mức độ và giá trị pháp lý, hiệu lực phán quyết của các cơ chế tài phán. Tuy nhiên, cái chung cơ bản nhất trong toàn bộ các cơ chế kiểm tra và bảo vệ Hiến pháp hiện hữu cho đến nay là ở chỗ sự thừa nhận tính chất tài phán của các cơ chế đó và đặc biệt là ở mục đích của việc duy trì các cơ chế đó: suy cho cùng là để bảo vệ chế độ chính trị, duy trì dân chủ trong khuôn khổ chế độ chính trị đó, bảo đảm chế độ nhà nước pháp quyền bảo vệ các quyền con người, các quyền và lợi ích họp pháp của công dân, chống sự vi phạm thẩm quyền, vượt quyền và lạm quyền. Nếu xét theo chức năng và mục đích hoạt động như vậy, thì đây cũng là chức năng và mục đích hoạt động của tòa án, của hệ thống tư pháp. Như vậy, có thể rút ra một số nhận định chung như sau:

Thứ nhất, các cơ chế bảo vệ Hiến pháp đều được coi là những hình thức xét xử như cơ chế hoạt động của tòa án. Do đó, các cơ chế bảo hiến còn có một danh từ chung là sự giám sát [kiếm tra] của tư pháp [judicial review], tức là được thực hiện bởi một hình thúc xét xử theo các nguyên tắc hoạt động tư pháp. Một hình thức giám sát, kiếm tra thiếu yếu tố đó hoặc có yếu tố đó nhưng chỉ là nữa vời sẽ không đủ điều kiện để bảo đảm được yêu cầu của sự giám sát, kiểm tra. và đó chính là câu chuyện liên quan đến ủy ban giám sát Hiến pháp ở Liên Xô trước đây. Được thành lập năm 1990, Ủy ban đó chỉ tồn tại trong thời gian 1 năm rưỡi, và kết quả là chỉ đưa ra được một số kết luận mang tính tham khảo và kiến nghị cho các cơ quan quyền lực nhà nước hoàn toàn không có giá trị mang tính pháp lý và hiệu lực thi hành

Thứ hai, một khía cạnh quan trọng và có thể nói là liên quan mật thiết đến nhận định trên, đó là: cơ chế của tài phán Hiến pháp chỉ có hiệu quả thực sự khi nó gắn liền vói hoạt động tư pháp, được xác lập trên cơ sở một nền tư pháp được tổ chức và hoạt động có hiệu quả. Nói nền tư pháp có nghĩa là không chỉ các cơ quan tư pháp [trọng tâm là các Tòa án] được tổ chức tốt, hoạt động có hiệu quả, mà còn bao hàm trong đó vấn đề về đội ngũ và năng lực, phẩm chất của các Thâm phán, ý thức tôn trọng của các cơ quan xét xử và bảo đảm sự độc lập của Tòa án. Không thể có tài phán Hiến pháp tốt nếu không có một nền tư pháp phát triển, trong sạch.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

©

Bài viết được đăng tải dưới sự cho phép của Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, mọi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến bài viết được bảo lưu. Chi tiết xin vui lòng liên email

Vui lòng đăng nhập tài khoản để tải miễn phí.

Gmail

Đăng ký

Quên mật khẩu?

Đặt mua

Bản giấy tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam

Bài viết liên quan trên

Google scholar

Trích dẫn bài viết qua

Google scholar Crossref

  • Bài báo mới

Video liên quan

Chủ Đề