Thủ pháp tương phản trong bài thơ Nhớ rừng được thể hiện như thế nào


Thế Lữ [1907 - 1989]

Vài nét chính về tác giả Thế Lữ: 

  • Nguyễn Thứ Lễ [1907-1989], bút danh là Thế Lữ, có nghĩa là "người khách đi qua trần thế". Quê ông ở Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh [nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội].
  • Trước cách mạng: chuyên làm báo, viết văn, thơ, sáng tác và biểu diễn kịch nói.
  • Sau cách mạng, ông chuyển hẳn sang họat động sân khấu. Ông là người có công đầu trong việc xây dựng ngành kịch nói nước ta.
  • Ông là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới [1932 - 1945] buổi đầu. Ông là người góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và đem lại chiến thắng cho thơ mới.
  • Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Các tác phẩm tiêu biểu: Mấy vần thơ [thơ, 1935]; Vàng và máu [truyện, 1934]; Bên đường Thiên lôi [truyện, 1936]; Lê Phong phóng viên [truyện, 1937];...

Tác phẩm

  • Là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ.
  • Là tác phẩm góp phần mở đường cho sự thắng lợi của phong trào Thơ mới chặng đầu [1932-1945].
  • Đầu thập niên 1930, văn hóa Việt Nam diễn ra cuộc vận động đổi mới thơ ca mạnh mẽ với sự xuất hiện làn sóng thơ mới với cá tính sáng tác độc đáo. Cuộc vận động đề xướng sử dụng các thể loại thơ mới, không tuân theo lối vần luật, niêm luật của các thể loại thơ cổ. Cuộc canh tân này đi vào lịch sử văn học với tên gọi Phong trào Thơ Mới.
1. Xuất xứ
  • In trong tập "Mấy vần thơ" [1935].
  • “Nhớ rừng” là lời con hổ trong vườn bách thú, tác giả mượn lời con hổ để nói lên tâm sự u uất của một lớp người lúc bấy giờ. Đó là thế hệ thanh niên 1930, những trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, cảm thấy bất hòa sâu sắc với thực tại xã hội tù túng.

2. Thể loại
  • Bài thơ được viết theo thể "thơ mới". Ban đầu, "thơ mới" dùng để gọi tên một thể thơ: thơ tự do, số chữ trong câu và số câu không hạn định, sau đó tên gọi này chuyển sang dùng để gọi một phong trào thơ mang tính chất lãng mạn tiểu tư sản. Trong thơ mới, số thơ tự do không nhiều, chủ yếu là thơ bảy chữ, tám chữ, lục bát. 
  • "Nhớ rừng" viết theo thể tám chữ, gieo vần liền [hai câu liền nhau có vần với nhau].
3. Đề tài
Khát vọng tự do.

4. Chủ đề


Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường và niềm khao khát tự do mãnh liệt và khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước.

5. Mạch cảm xúc

Mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhân vật lãng mạn dù thân tù hãm nhưng tâm hồn vẫn sục sôi khát khao tự do và lòng yêu nước thầm kín.

6. Bố cục

Bài thơ được chia thành bốn phần:

  • Phần 1 [Khổ 1 và 4]: Giới thiệu hiện trạng và tình cảnh của con hổ.
  • Phần 2 [Khổ 2 và 3]: Tình thương, nỗi nhớ một thời oanh liệt đã mất.
  • Phần 3 [Khổ 5]: Giấc mộng được trở lại núi rừng và khát khao tự do.

NỘI DUNG [edit]


Nguồn ảnh: sưu tầm Internet

1. Cảnh con hổ ở vườn bách thú [khổ 1 và khổ 4]

1.1. Khổ 1


“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua,

Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.

Nay sa cơ bị nhục nhằn, tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”

  • Nội dung chính là tâm trạng của con hổ trong cảnh ngộ bị tù hãm ở vườn bách thú: 
             - Sự căm hờn, uất ức: thể hiện qua các từ ngữ như “gậm”, “khối căm hờn”
                    + “Gậm”: dùng miệng mà ăn dần từng chút, chậm chạp, kiên trì, thể hiện sự gậm nhấm đầy uất ức.
                    + Nỗi căm hờn bỗng chốc trở nên có hình khối, đường nét rõ ràng, thể hiện sự uất ức của chính con hổ khi bị mất tự do.
             - Nỗi ngao ngán, chán chường: thể hiện ở tư thế “nằm dài trông ngày tháng dần qua”. Từ chỗ là chúa tể của muôn loài nay bị nhốt trong cũi sắt, hổ ngao ngán trước thực tại đó. 
             - Khinh miệt loài người và cảm thấy nhục nhã khi bị biến thành trò chơi cho thiên hạ.
             - Bất bình vì phải ngang hàng với bầy gấu, báo và bất lực vì không thể thoát khỏi cảnh tù túng, tầm thường ấy.
             - Từ ngữ chọn lọc, gợi cảm, thể hiện được tâm trạng u uất của con hổ. 
             - Nghệ thuật nhân hóa: con hổ có những cảm xúc, suy nghĩ như con người.
             - Giọng thơ u uất, dồn nén.
→ Tâm trạng uất ức, ngao ngán, căm hờn, bất lực trước thực tại của con hổ cũng chính là tâm trạng của lớp thanh niên trí thức Tây học, thế hệ 1930 bất hòa sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, giả dối và đó cũng chính là tâm sự của người dân mất nước, phải sống trong cảnh tù hãm, mất tự do.

1.2. Khổ 4


“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu, 

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi, 

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối: 

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém;

Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,

Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.”

  • Khung cảnh vườn bách thú: 
             - Hoa chăm, cỏ xén, cây trồng, lối phẳng
             - Suối giả, mô gò thấp kém
             - Học đòi, bắt chước
Khung cảnh vườn bách thú là khung cảnh nhân tạo nhàm chán, tầm thường và giả dối, hiện ra dưới cái nhìn của chúa sơn lâm thật đáng khinh và tẻ nhạt. Chính thực tại giả dối đó đã khiến con hổ thêm chán chường và khao khát cuộc sống tự do chân thật ở chốn rừng thiêng. Đây cũng chính là thực tại xã hội đương thời được cảm nhận bởi những tâm hồn lãng mạn.
             - Giọng điệu giễu nhại, chán chường, khinh miệt. 
             - Nghệ thuật liệt kê tỉ mỉ, thể hiện quan sát rất cụ thể của tác giả về chốn tù túng, tối tăm.
             - Cách ngắt nhịp ngắn, dồn dập ở hai câu đầu thể hiện sự phẫn uất trước khung cảnh giả dối và kéo dài ở những câu sau như kể chuyện.
→ Cảnh vườn bách thú “tầm thường, giả dối” và tù túng dưới mắt con hổ đó chính là thực tại xã hội đương thời được cảm nhận bởi những tâm hồn lãng mạn. Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ đối với cảnh vườn bách thú của con hổ cũng chính là thái độ của họ đối với xã hội.
=> Khổ 1 và 4 đã dựng lên bức tranh con hổ ở trong vườn bách thú, nơi con hổ đang bị giam cầm.

2. Cảnh con hổ trong chốn giang sơn [khổ 2 và khổ 3]


Đây là hai đoạn hay nhất của bài, miêu tả cảnh hùng vĩ của sơn lâm và hình ảnh con hổ.

2.1. Cảnh sơn lâm hùng vĩ

  • Cảnh núi rừng trong niềm thương, nỗi nhớ của con hổ:

             - Bóng cả, cây già

             - Tiếng gió gào ngàn

             - Giọng nguồn hét núi

             - Lá gai, cỏ sắc

             - Hang tối

             - Cánh rừng hiện ra ở các thời điểm: đêm vàng, chiều đỏ, ngày mưa, bình minh. Ở thời điểm nào núi rừng cũng rực rỡ, huy hoàng.

             - Điệp từ: “với”, thể hiện sự trỗi dậy dồn dập của nỗi nhớ.

             - Các động từ mạnh: “gào”, “hét”, “dữ dội”, “thét”, “sắc”, thể hiện được sự phi thường, lớn lao của đại ngàn.

             - Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, đặc trưng của núi rừng.

→ Cảnh đại ngàn – giang sơn của con hổ khi xưa hiện ra lớn lao, phi thường nhưng cũng rất hoang vu, bí mật.

2.2. Hình ảnh con hổ giữa đại ngàn

  • Trên phông nền rừng núi hùng vĩ đó, hình ảnh con hổ hiện ra:

             - Đầu tiên là vẻ oai phong với tiếng gầm “thét khúc trường ca dữ dội”.

             - Vẻ dõng dạc, đường hoàng

             - Mềm mại, uyển chuyển: “lượn tấm thân như sóng cuộn”

             - Uy quyền: “mắt thần khi đã quắc”

→ Hình ảnh con hổ hiện lên giữa núi rừng vừa oai phong, lẫm liệt, vừa mềm mại, uyển chuyển mà vẫn toát lên vẻ uy quyền của chúa sơn lâm.

  • Và trong khung cảnh ấy, con hổ ý thức rõ được vị trí chúa tể của mình:

“Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.”

  • Bộ tranh tứ bình lộng lẫy của bài thơ nằm ở khổ 3. Bốn cảnh đều có núi rừng hùng vĩ, tráng lệ với con hổ uy nghi làm chủa tể. 

              - Đó là cảnh "những đêm vàng bên bờ suối" với hình ảnh con hổ "uống ánh trăng tan" lãng mạn. → Hổ lãng mạn như một thi sĩ.

             - Đó là cảnh "ngày mưa chuyển bốn phương ngàn" với con hổ dũng mãnh như đế vương "lặng ngắm giang sơn". → Hổ trầm ngâm như một nhà hiền triết.

             - Đó là cảnh "bình minh cây xanh nắng gội" đang ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm. → Hổ tận hưởng cuộc sống của bậc đế vương.

             - Đó là cảnh "chiều lênh láng máu sau rừng" dữ dội nơi con hổ đợi mặt trời "chết". → Hổ giống một vị bạo chúa.

Ở cảnh nào rừng núi cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng và con hổ cũng nổi bật lên với những vẻ đẹp khác nhau, đều tự do làm chủ cuộc sống của nó. Nhưng tất cả cảnh tượng đó chỉ là dĩ vãng hiện ra trong nỗi nhớ da diết của con hổ.

             - Điệp từ: “đâu những” → nhấn mạnh sự nuối tiếc cuộc sống vàng son một thời chỉ còn là quá khứ trước cuộc sống thấp hèn; “ta” → thể hiện khí phách ngang tàng, làm chủ thiên nhiên đồng thời tạo điệu rắn rỏi, hùng tráng.

             - Câu hỏi tu từ: “ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?”, “để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?”, “ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?”, “tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?”, “thời oanh liệt nay còn đâu?”.

             - Câu cảm thán: “Than ôi!” bộc lộ cảm xúc trực tiếp.

→ Tất cả đã diễn tả thấm thía nỗi nhớ về một “thời oanh liệt” và sự u uất của con hổ.

3. Giấc mộng được trở lại núi rừng và khát khao tự do

             - Thực tại nó bị giam cầm, tù túng về thể xác.

             - Nhưng linh hồn vẫn khao khát tự do theo giấc mộng ngàn. "Giấc mộng ngàn là giấc mơ về một không gian oai linh, hùng vĩ và rộng lớn, đó là giấc mơ mãnh liệt nhưng bất lực và đó chính là bi kịch.

→ Thể hiện khát vọng cháy bỏng được sống chân thật với cuộc sống của chính mình, đó chính là khát vọng tự do, khát vọng giải phóng.

             - Câu cảm thán bộc lộ trực tiếp niềm thương, nỗi nhớ của con hổ.

             - Giọng điệu bi tráng, dữ dội.

→ Bộc lộ trực tiếp, mãnh liệt nỗi nhớ, sự nuối tiếc cuộc sống tự do.

=> Xây dựng một cảnh tượng oai hùng đối lập với cảnh tượng tù túng ở trên, tác giả đã làm nổi bật sự tương phản, đối lập gay gắt hai cảnh tượng, hai thế giới, nhà thơ đã thể hiện nỗi bất hòa sâu sắc đối với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt của con hổ. Đó là tâm trạng của nhà thơ lãng mạn, đồng thời cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước khi đó.

“Nhớ rừng” của Thế Lữ mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt bằng những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy.

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT [edit]

  • Nghệ thuật tương phản: trong bài thơ có hai cảnh tương phản, là cảnh trong vườn bách thú, nơi con hổ bị giam cầm và cảnh núi non hùng vĩ, nơi con hổ từng "tung hoành hống hách".
  • Hình ảnh thơ giàu chất tạo hình, đầy ấn tượng.
  • Hình tượng con hổ - biểu tượng rất thích hợp và đẹp đẽ để thể hiện chủ đề của bài thơ.
  • Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu sức biểu cảm.
  • Giọng thơ khi thì u uất, bực dọc, khi thì say sưa, tha thiết, hùng tráng nhưng đều tràn đầy cảm xúc.

Tổng kết:

  • Mượn lời con hổ trong vườn bách thú, tác giả kín đáo bộc lộ tình cảm yêu nước, niềm khát khao thoát khỏi kiếp đời nô lệ.
  • Sử dụng bút pháp lãng mạn, với nhiều biện pháp nghệ thuật nhân hóa, đối lập, phóng đại, tương phản.
  • Xây dựng hình tượng nghệ thuật có nhiều tầng ý nghĩa.

Page 2

Bỏ qua 🔴 Buổi học Live sắp tới

Không có sự kiện nào sắp diễn ra

Page 3

Đường hướng và cách tiếp cận xây dựng khoá học

Khoá học được xây dựng dựa trên năng lực đầu ra của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo dành cho  học sinh hết lớp 8. Mục tiêu của mỗi bài học được xây dựng bám theo thang tư duy mới của Bloom đi từ thấp lên cao, hướng tới khả năng vận dụng kiến thức và kỹ năng của học sinh. Các bài học về thành tố ngôn ngữ như Từ vựng, Phát âm, Ngữ pháp được xây dựng theo hướng tiếp cận lồng ghép, gắn kết với nhau và với chủ đề của bài học, tạo cho học sinh có thêm nhiều cơ hội sử dụng tiếng Anh. Các bài học về kỹ năng được xây dựng nhằm hình thành năng lực chủ đạo theo chương trình sách giáo khoa, đồng thời có mở rộng sang một số năng lực chưa được hướng dẫn kỹ càng trong sách giáo khoa. Các tiểu kỹ năng của năng lực đọc hiểu và viết được hướng dẫn chi tiết, cụ thể, theo từng bước nhỏ, giúp học sinh có khả năng hình thành được năng lực đọc và viết sau khi kết thúc bài học.


Nội dung khoá học

Khoá học bám sát chương trình sách giáo khoa tiếng Anh 8 [chương trình thí điểm của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo] về chủ đề, chủ điểm, kỹ năng, kiến thức. Mỗi bài học được chia thành các nội dung chính: [1] Tóm tắt lý thuyết [Lesson summary]: hướng dẫn về kiến thức ngôn ngữ/ kỹ năng ngôn ngữ dưới dạng hình ảnh hoá hay sơ đồ tư duy để học sinh dễ dàng ghi nhớ kiến thức/ các bước kỹ năng. [2] Video bài giảng [phát âm]: video ngắn giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức trọng tâm với sự hướng dẫn của thầy/ cô giáo. [3] Bài tập thực hành [practice task] giúp học sinh thực hành nội dung kiến thức, kỹ năng vừa được học. [4] Quiz: đây là hình thức đánh giá thường xuyên dưới dạng trặc nghiệm khách quan giúp giáo viên người học đánh giá được năng lực vừa được hình thành trong mỗi bài học. [5] Kiểm tra cả bài [unit test]: đây là hình thúc đánh giá tổng kết dưới dạng trắc nghiệm khách quan, và tự luận giúp giáo viên và người học đánh giá được năng lực được hình thành trong cả bài học lớn [unit].


Mục tiêu khoá học

Khoá học tiếng Anh 8 được xây dựng với mục đích hỗ trợ học sinh theo học chương trình tiếng Anh 8 mới của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo một cách cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Kết thúc mỗi bài học trong khoá học, học sinh có khả năng vận dụng được những kiến thức và kỹ năng học được trong chương trình sách giáo khoa mới vào những bối cảnh thực hành tiếng Anh tương tự.

Đối tượng của khóa học

Khóa học được thiết kế dành cho các em học sinh lớp 8, tuy nhiên các em học sinh lớp trên vẫn có thể học để ôn lại kiến thức, hoặc sử dụng để tra cứu các kiến thức đã quên.

  • Người quản lý: Nguyễn Huy Hoàng
  • Người quản lý: Phạm Xuân Thế

Video liên quan

Chủ Đề