Chế phẩm vi khuẩn trừ sâu là những sản phẩm có chứa những loại vi khuẩn có tinh thể protein độc ở giai đoạn bào tử, những tinh thể này rất độc với một số loài sâu bọ nhưng lại vô hại với nhiều loài khác.
Một trong những ứng dụng của công nghệ vi sinh là khai thác, sử dụng các vi sinh vật gây bệnh cho sâu, bệnh hại cây trồng để sản xuất ra các chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng. Thế nào là chế phẩm vi khuẩn trừ sâu?
Câu hỏi:
Thế nào là chế phẩm vi khuẩn trừ sâu?
A. Dùng vi khuẩn gây nhiễm lên sâu để sản xuất thuốc trừ sâu
B. Nuôi sâu hàng loạt để cấy vi khuẩn
C. Là chế phẩm chứa các vi khuẩn gây bệnh cho sâu
D. Là chế phẩm chứa các vi khuẩn gây độc cho sâu
Đáp án đúng A.
Chế phẩm vi khuẩn trừ sâu là dùng vi khuẩn gây nhiễm lên sâu để sản xuất thuốc trừ sâu, những tinh thể này rất độc với một số loài sâu bọ nhưng nó lại vô hại với nhiều loài khác, các chế phẩm này ngày càng được ưa chuộng vì chúng không gây độc cho con người và môi trường.
Giải thích lý do chọn đáp án đúng là A do:
Chế phẩm vi khuẩn trừ sâu là những sản phẩm có chứa những loại vi khuẩn có tinh thể protein độc ở giai đoạn bào tử. Những tinh thể này rất độc với một số loài sâu bọ nhưng lại vô hại với nhiều loài khác. Các chế phẩm này ngày càng được ưa chuộng vì chúng không gây độc cho con người và môi trường
Tinh thể protein độc có hình quả trám hoặc hình lập phương. Sau khi nuốt phải bào tử có tinh thể protein độc, cơ thể sâu bọ bị tê liệt và bị chất sau 2 đến 4 ngày.
Loài vi khuẩn được quan tâm nghiên cứu nhất là Baccillus thuringiensis. Từ loài vi khuẩn này người ta đã sản xuất ra thuốc trừ sau Bt. Quy trình sản xuất như sau:
– Quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm vi khuẩn trừ sâu: Chuẩn bị môi trường → Khử trùng môi trường → Cây giống cấp I → Ủ và theo dõi quá trình lên men → Dùng các biện pháp nghiền, lọc, bổ sung phụ gia, sấy khô, đóng gói bảo quản để tạo ra chế phẩm.
Ngoài ra còn có chế phẩm vi rút trừ sâu: Hiện nay người ta đã phát hiện hơn 250 bệnh vi rút ở 200 loài sâu bọ. Ở giai đoạn sâu non sâu bọ dễ bị nhiễm vi rút nhất. Khi mắc bệnh vi rút cơ thể sâu bọ mềm nhũn do các mô bị tan rã.
Để sản xuất ra chế phẩm vi rút trừ sâu người ta gây nhiễm vi rút nhân đa diện trên sâu non. Nghiền nát sâu non đã bị nhiễm vi rút và pha với nước theo tỉ lệ nhất định, lọc lấy nước dịch ta thu được dịch vi rút đậm đặc. Từ dịch này sản xuất ra chế phẩm thuốc trừ sâu N.P.V.
Em sắp làm bài thuyết trình về thuốc trừ sâu từ virus[ lop 10]
em muốn có thêm 1 số kiến thức về việc này và 1 số hình ãnh
mong các anh giúp đỡ!
Công nghệ sản xuất thuốc trừ sâu sinh học
Do các loại hóa chất BVTV truyền thống gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe con người nên trong những năm gần đây nhiều nước trên thế giới, trong đó có nước ta, đang chuyển dần sang nghiên cứu, sản xuất và sử dụng các loại thuốc trừ sâu sinh học. Dựa vào các kết quả điều tra thiên nhiên, lợi dụng các vi sinh vật có ích như các loài ký sinh thiên địch tự nhiên và cao hơn nữa là nhân nhanh một số nguồn vi sinh vật để sản xuất hàng loạt các chế phẩm sinh học có nguồn gốc từ nấm, côn trùng, vi khuẩn [Bt], virus [NPV, GV], tuyến trùng, các nấm đối kháng, các xạ khuẩn nhằm dần dần thay thế các loại thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học trong chương trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM, trong các chương trình hợp tác với nước ngoài, cho đến nay Viện BVTV phối hợp với nhiều đơn vị trong và ngoài ngành tiến hành nghiên cứu, sản xuất và đưa ra ứng dụng thành công một số công nghệ SX thuốc trừ sâu sinh học như: - Công nghệ sản xuất và sử dụng thuốc trừ sâu vi sinh vật trên cơ sở tạo bào tử mang tính độc tố Endotoxin của vi khuẩn Bacillus thuringiensis trừ sâu tơ, sâu xanh, sâu đo, sâu khoang hại rau và các cây hoa màu. - Công nghệ sản xuất và sử dụng các chế phẩm nấm gây hại côn trùng như nấm trắng Beauveria bassiana, nấm xanh Metathizium anisopliae, Metathizium flavoviridae trừ sâu róm thông, rầy nâu hại lúa, sâu đo hại đay, châu chấu hại ngô, mía. Nấm Trichoderma và một số xạ khuẩn trừ bệnh hại cây trồng như bệnh héo rũ lạc, bệnh sọc vằn hại ngô, lúa. - Công nghệ sản xuất và sử dụng các chế phẩm virus trừ sâu xanh hại bông, virus trừ sâu tơ, sâu khoang hại rau, virus trừ sâu keo da láng, virus trừ sâu xanh hại đay và virus trừ sâu róm hại thông rừng...
Về ưu điểm: Thuốc trừ sâu sinh học không gây độc hại cho người và gia súc, không nhiễm bẩn môi trường, ít thấy khả năng kháng thuốc của sâu hại; không ảnh hưởng đến chất lượng, phẩm chất nông sản, đất trồng và không khí trong môi trường [do không để lại dư lượng]; không làm hại thiên địch và những vi sinh vật có lợi với con người; nếu sử dụng hợp lý, đúng phương pháp, đúng kỹ thuật trong điều kiện nhiệt độ, độ ẩm thích hợp thì sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiệu quả sử dụng thường kéo dài vì chúng không chỉ tiêu diệt trực tiếp lứa sâu đang phá hoại mà chúng còn có thể lan truyền cho thế hệ tiếp theo.
Tuy nhiên, thuốc trừ sâu sinh học cũng có nhiều nhược điểm như: tác động chậm hơn thuốc hóa học, phổ tác dụng hẹp; một vài loại thuốc bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết nên hạn chế đến kết quả. Công nghệ SX phức tạp, thủ công nên giá thành thường cao hơn thuốc trừ sâu hóa học nhập nội nên nông dân ít sử dụng. Tùy theo từng nguồn vi sinh vật hữu ích mà công nghệ sản xuất thuốc trừ sâu sinh học có các công đoạn khác nhau: đơn giản hay phức tạp, thủ công hay công nghiệp, qui mô nhỏ hay sản xuất lớn, v.v…
NGUYÊN KHÊ
[B]Theo BAONONGNGHIEPVN[/B]
Không bít có giúp được gì cho bạn không !
Thuốc trừ sâu sinh học. Thuốc trừ sâu vi sinh chỉ mới được đưa vào nước ta đầu những năm 1970 với số lượng rất ít. Nếu tình hình về doanh số chế phẩm sinh học phòng dịch trên thế giới chưa vượt quá 1% doanh số thuốc phòng dịch thì ở nước ta tỷ lệ đó còn thấp hơn nhiều.
1. Về công việc nghiên cứu triển khai:
2. Công nghệ vi sinh của chúng ta hết sức lạc hậu:
3. Những trở ngại về công tác giống:
4. Hệ thống phân phối sản phẩm:
5. Người sử dụng:
Có lẽ đây là yếu tố quan trọng nhất vì phần lớn thuốc sinh học tác dụng chậm, dùng phòng có hiệu quả hơn dùng để trừ, mà kiến thức của nông dân về dịch bệnh và các biện pháp phòng chống còn hết sức thấp. Người nông dân mong muốn có hiệu quả tức thời để giảm mức thiệt hại cho mùa màng và cách sử dụng phải thuận tiện, có khi tùy tiện, không cần hiểu biết nhiều.
Cần tránh lạm dụng thuốc trừ sâu.
Để bảo vệ cây trồng chống lại các tác hại do sâu rầy gây ra, chúng ta phải áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp như dùng giống kháng sâu rầy, thâm canh cây trồng vệ sinh đồng ruộng, bố trí theo vụ thích hợp, sử dụng hợp lý v.v... Kể cả các biện pháp dùng thuốc trừ sâu [TTS] trong những trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, vì biện pháp dùng thuốc trừ sâu có thấy tác dụng tức thời nhanh chóng, nên từ lâu, bà con thường chỉ chú trọng biện pháp dùng thuốc mà ít áp dụng các biện pháp tổng hợp khác, dẫn đến việc lạm dụng thuốc trừ sâu nghĩa là TTS quá nhiều kể cả trong những trường hợp không nên dùng và không cần thiết. Việc lạm dụng TTS sẽ dẫn đến những tai hại về nhiều mặt mà hậu quả xấu khó có thể lường hết được. Hậu quả trước hết là ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người trực tiếp dùng thuốc chính là bà con nông dân, nhất là trong những trường hợp không có dụng cụ phòng độc đầy đủ. Ngoài ra, thuốc trừ sâu khi sử dụng nhiều trên đồng ruộng thì đất, nước và cả không khí đều bị ô nhiễm, làm cho các sinh vật trong tự nhiên như tôm cá, muông thú, chim chóc đều bị hại, làm giảm thấp các nguồn lợi thiên nhiên hoặc tạo ra những thay đổi xấu trong cân bằng sinh thái. Hơn nữa, các nguồn thuốc trừ sâu này, nhiễm vào các loài sinh vật, sẽ đi vào dây chuyền thức ăn vào cơ thể của con người. Ngoài ra, các nông sản được sử dụng quá nhiều TTS cũng bị ô nhiễm và để lại dư lượng TTS trên nông sản đó, con người ăn vào sẽ bị ngộ độc cấp tính hoặc tích lũy lại trong cơ thể làm ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe. Những tai hại gây ra bởi TTS nêu trên thật dễ hiểu, nhưng lâu nay chúng ta ít quan tâm. Có một tai hại khác của TTS mà chúng ta ít ai biết đến, đó là càng dùng nhiều TTS, nhất là dùng không đúng thì sâu rầy càng phát triển nhiều hơn và càng gây ra thiệt hại nặng nề hơn cho mùa màng. Điều này mới nghe qua tưởng như vô lý, nhưng đó là sự thật, vì đồng ruộng không phải chỉ có các loại sâu rầy phá hại cây trồng mà còn có rất nhiều loại côn trùng và nhện có lợi: Chúng giết hại các loại sâu rầy bằng cách ăn thịt và ký sinh lên cơ thể của sâu rầy.Ví dụ: Loài nhện ăn thịt các loại bọ rùa, các loài chuồn chuồn, bọ xít ăn thịt các loài bò sát... Nhiều loài ong ký sinh trên trứng hoặc cơ thể của sâu rầy. Các loài sinh vật có lợi nói trên được gọi là các thiên địch. Chúng rất phong phú về chủng loại và đông đúc về số lượng. Chúng có mặt thường xuyên trên đồng ruộng. Chính nhờ các loại thiên địch này kiềm hãm sự phát triển của sâu rầy mà sâu rầy không phát triển nhanh chóng được và tạo được thế cân bằng tương đối bền vững trên đồng ruộng. Nhưng nếu chúng ta phun TTS quá nhiều thì các thiên địch bị giết chết, sau đó các sâu rầy còn sống sót hoặc từ nơi khác di chuyển đến không có lực lượng kiềm hãm sẽ dễ dàng phát triển nhanh chóng và gây hại cây trồng. Các nhà khoa học đã xác định là những trận dịch sâu rầy xảy ra trong thời gian trước đây là hậu quả của việc dùng thuốc trừ sâu quá nhiều trước đó. Chính vì vậy mà ta có thể khẳng định là càng dùng TTS nhiều thì sâu rầy càng nhiều. Trong vấn đề này, chúng ta thấy một cái vòng luẩn quẩn, đó là: càng dùng TTS nhiều thì sâu rầy càng phát triển nhiều, mà sâu rầy nhiều thì bà con lại càng dùng TTS nhiều hơn và dẫn đến sâu rầy phát triển nhiều hơn nữa...và cứ như vậy mãi. Rốt cuộc môi trường càng ngày càng bị ô nhiễm, sức khỏe con người càng ngày càng bị ảnh hưởng xấu, hệ sinh thái càng ngày càng bị đảo lộn,... và mùa màng càng ngày càng bị thất thu do các trận dịch sâu rầy xảy ra.
Ngoài ra còn một tai hại nữa là nếu dùng quá nhiều thuốc trừ sâu thì mau dẫn đến tình trạng sâu mau lờn thuốc, đến khi thật sự cần dùng thuốc trừ sâu thì hiệu quả không đạt được. Trên đây chúng ta đã thấy được những tai hại gây ra bởi việc lạm dụng TTS. Vậy làm thế nào để tránh được những tai hại đó. Câu trả lời là phải biết sử dụng TTS một cách khôn khéo dựa vào những nguyên tắc sau:- Thứ nhất là không phun thuốc phòng ngừa theo kiểu phòng ngừa hay định kỳ. Bà con thường phun thuốc phòng ngừa, phun thuốc định kỳ 7 - 10 ngày/một lần với quan niệm là thà tốn kém nhưng an tâm. Thực ra đây là việc dùng thuốc rất sai lầm và rất tai hại vì đã vô tình tiêu diệt các loài thiên địch, đến khi có sâu rầy xuất hiện trở lại thì vì không có các thiên địch kiềm hãm nên sâu rầy dễ dàng phát triển nhanh chóng thành địch. Như vậy, việc phun thuốc phòng ngừa hay định kỳ không phải chỉ gây tốn kém mà còn tai hại khác mà làm cho sâu rầy dễ dàng phát triển thành dịch.
- Thứ hai là không sử dụng thuốc khi chưa thật cần thiết. Một số bà con vì quá lo sợ bị sâu rầy làm thất thu đồng ruộng của mình nên khi chỉ mới thấy một ít sâu rầy xuất hiện đã vội vã mua thuốc về phun trừ với ý nghĩ là nên ngăn chặn từ đầu, nếu không thì sâu rầy phát triển nhiều sẽ khó trị. Đây cũng là một quan niệm không đúng bởi lẽ trong đồng ruộng cũng có nhiều thiên địch giúp bà con làm công tác đó. Thật ra nếu trong ruộng có lượng sâu rầy tương đối thấp vẫn có lợi hơn là không có con sâu rầy nào. Lý do là có sâu rầy trong đồng ruộng thì các thiên địch mới có thức ăn, ký chủ để chúng sinh sống duy trì mật số thường xuyên đủ để đối phó và kiềm hãm sâu rầy phát sinh tại chỗ hay di chuyển từ nơi khác đến.
Ngoài ra, chúng ta cũng biết được là các loài cây trồng khi bị các loài sâu ăn mất một phần cành lá thì lập tức cây sẽ ra lá hoặc cành mới để bù đắp lại những mất mát đó, nhất là trong thời kỳ đầu của cây trồng nếu có đầy đủ điều kiện để chăm sóc. Do vậy, bà con không nên nóng lòng phun thuốc vì thấy cành lá bị thiệt hại do sâu ăn mà hãy tạo điều kiện tốt cho cây phục hồi trở lại, như thế năng suất cuối cùng sẽ không giảm mà tránh được những hậu quả xấu do việc sử dụng TTS gây ra như đã đề cập trên đây. Để kiểm chứng cho việc này, bà con nên dành ra vài ba trăm mét vuông ruộng không phun thuốc trong thời kỳ đầu của mùa vụ để so sánh với phần còn lại vẫn phun thuốc bình thường như trước kia. Kết quả sẽ làm cho bà con vững tin hơn. Vậy khi nào ta mới sử dụng TTS? Chúng ta chỉ sử dụng TTS khi nào mà sâu rầy xuất hiện với mật số quá cao và liên tục gia tăng hoặc không giảm sau nhiều ngày theo dõi chứng tỏ lực lượng thiên địch không đủ sức kiềm hãm thì bà con mới dùng đến TTS nếu không còn biện pháp nào khác. Tuy nhiên nếu lượng định được mức thất thu nếu không dùng TTS chỉ ngang bằng với chi phí bỏ ra để dùng thuốc thì cũng không nên dùng thuốc vì việc dùng thuốc ngoài tốn kém công của còn tạo ra nhiều tai hại khác như đã trình bày ở trên.- Thứ ba là không nên dùng các loại thuốc quá độc và chậm phân hủy, nhất là trên các loại cây trồng mà sản phẩm thường được ăn ngay sau khi thu hoạch như các loại rau, trái cây. Các loài thuốc quá độc thường dễ gây ngộ độc cho người ăn các loại nông sản có phun các loại thuốc đó. Các loại thuốc chậm phân hủy ngoài việc lưu tồn dư lượng độc hại trên nông sản có sử dụng thuốc mà còn lưu tồn trong môi trường lâu dài tạo ô nhiễm trầm trọng cho môi trường sống của con người và các sinh vật khác. Chính vì lý do trên mà Nhà nước đã cấm sử dụng một số TTS quá độc hoặc quá chậm phân hủy. Các loại thuốc cấm đó gồm các loại thuốc thuộc nhóm Clor hữu cơ như DDT, BHC, Linđan... Thuốc hóa hữu cơ như Metylparathion và một số tên thuốc khác hiện không còn trên thị trường nữa. Ngoài ra, một số thuốc khác cũng quá độc và chậm phân huỷ nhưng vẫn còn phải dùng vì nhu cầu cho sản xuất được Nhà nước đưa vào sử dụng, trong số đó có các loại thuốc mà bà con thường quen dùng lâu nay như Monitor, Azodrin, Furađan, Thiodan, Dimecron, DDVP... Hoặc các thuốc có tên thương mại khác nhưng có chứa cùng một loại hoạt chất như các thuốc trên. Đối với các loại thuốc này, khi dùng phải hết sức cân nhắc, cẩn thận và cần phải có các phương tiện phòng độc đầy đủ. Ngoài ra các thuốc rầy theo quy định của Nhà nước không được dùng trên cây rau vì cây rau thường dùng ăn ngay sau khi thu hoạch nên dễ gây ngộ độc.
Tóm lại, TTS là một loại thuốc độc có thể gây ra nhiều mối nguy hại về nhiều mặt do đó không thể lạm dụng. Muốn bảo vệ cây trồng, hạn chế thiệt hại do sâu rầy gây ra, bà con cần áp dụng các biện pháp tổng hợp khác. Bà con cần xem TTS như là một phương tiện bất đắc dĩ mới dùng đến khi thật sự cần thiết. Ngoài ra để sử dụng TTS được hữu hiệu và an toàn, bà con cần áp dụng nguyên tắc 4 đúng trong việc sử dụng TTS. Có như vậy thì việc bảo vệ cây trồng mới được gắn liền với việc bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường.
Nguồn: lamdong.gov
Cần chi phải như vậy, chỉ cần lật sách CN 10, trong đó nó nói hết rồi
Page 2
Page 3
Sep 2, 2015
Mar 8, 2015
Jan 19, 2015
Page 4
Page 5
Page 6
Page 7
Mar 23, 2009
Mar 6, 2009
Page 8
Feb 19, 2009
Nov 27, 2008
Nov 4, 2008
Aug 20, 2008
Sep 22, 2007
Jun 12, 2006
Jun 10, 2006
Feb 27, 2006
Page 9
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an alternative browser.
Lên men, nuôi sinh khối, dùng vi sinh để xử lý môi trường, phân lập vi sinh vật...
Nov 4, 2005
Oct 24, 2005
Apr 29, 2005