Tiên đề dẫn đến sự ra đời của nhà nước đầu tiên ở nước ta là

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂNKHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC---------------BÀI GIỮA KỲMÔN: TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ TRUNG ĐẠIĐỀ BÀI :PHÂN TÍCH NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC ĐẦU TIÊN VĂN LANG SO SÁNH VỚI ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI NHÀ NƯỚC ĐẦU TIÊN Ở TRUNG QUỐC Sự ra đời của Nhà Nước là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người.Điều kiện quan trọng nhất dẫn đến sự ra đời của một Nhà Nước đó chính là sức sản xuất phát triển đến đỉnh cao xuất hiện sự phân hóa xã hội. Nhà nước là sản phẩm tất yếu của một xã hội mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Đó cũng là điều kiện chung của sự ra đời tất cả các nhà nước trên thế giới này. Song bên cạnh đó sự ra đời của mỗi nhà nước còn mang những đặc trưng riêng tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó. Tiền đề ra đời của nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của Việt Nam cũng thể hiện rõ điều đó, đặc biệt là trong sự đối chiếu với lịch sử nhà nước đầu tiên ở Trung Quốc.Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có vị trí địa lý tương đối giống nhau. Trong lịch sử cổ đại đều nằm trong khu vực văn hóa văn minh phương Đông. Do vậy mà xét trên những phương diện cơ bản tiền đề ra đời của nhà nước đầu tiên ở hai quốc gia hầu như là tương đồng.Điều kiện đầu tiên thúc đẩy sự ra đời của một Nhà nước ở mọi quốc gia nói chung cũng như Việt Nam nói riêng là sự phân hóa xã hội đạt đến mức cao. Nhân loại dải những bước dài trên chặng đường phát triển của lịch sử. Cùng với sự ra đời của kim khí mà cụ thể là đồ sắt đã đưa nền sản xuất lên một trình độ mới, của cải làm ra nhiều hơn. Nó không chỉ đủ cho nhu cầu hàng ngày mà còn dư thừa. Quá trình này dẫn đến sự tư hữu, song do địa vị xã hội khác nhau mà sự tư hữu cũng khác nhau, người có nhiều người có ít. Sự phân hóa giàu nghèo, phân hóa đẳng cấp cũng theo đó mà hình thành. Các đẳng cấp không giống nhau thì quyền lợi cũng không thể thống nhất được. đó là lý do tại sao mà mẫu thuẫn giai cấp ngày càng lớn. Giai cấp thống trị muốn duy trì quyền lợi của mình, đàn áp dân chúng thì cần phải tổ chức ra một lực lượng bảo vệ quyền lợi cho bản thân. Nhà nước ra đời trong bối cảnh như vậy,là kết quả của mâu thuẫn giai cấp không điều hòa được. Do vậy khi không còn giai cấp thì nhà nước sẽ tư tiêu biến. Lịch sử Việt Nam đến thời kỳ văn hóa Đông Sơn [khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 1 TCN] nền kinh tế-xã hội đã đạt đến bước phát triển vượt bậc. Trước tiên là kinh tế: Thời kỳ văn hóa Đông Sơn đánh dấu sự thăng hoa của đồ đồng và manh nha của luyện kim. Bên cạnh đóng góp về mặt văn hóa nghệ thuật nó thúc đẩy sự phát triển của công cụ sản xuất, làm cho năng suất lao động ngày một tăng cao. Sức sản xuất của xã hội tăng lên, phân hóa giai cấp ngày một rõ rệt. Thông qua nghiên cứu của giới khảo cổ về mộ táng đã chứng minh rất rõ về điều nay. Tại khu Làng Cả [Việt Trì] phản ánh rất rõ tình trạng phân hóa xã hội này: Trong số 307 ngôi mộ có 258 ngôi mộ không có hiện vật,có 38 ngôi mộ có từ 1 đến 5 hiện vật, 5 ngôi mộ có từ 6 đến 10 hiện vật, 3 ngôi mộ có từ 11 đến 15 hiện vật và có 3 ngôi mộ trên 16 hiện vật. . Mộ của quý tộc, địa chủ giàu có thường mang theo nhiều đồ tùy táng như gươm, dao, dụng cụ quý giá trong cuộc sống hàng ngày .Còn mộ của thường dân thì hầu như không có đồ tùy táng. Sự phát triển của kinh tế cũng kéo theo sự chuyển biến của xã hội. Thứ nhất là công xã thị tộc mẫu hệ chuyển sang chế độ phụ hệ. chế độ mấu hệ đánh dấu vai trò của người phụ nữ trong thời kỳ kinh tế mà hoạt động hái lượm còn là phương thức sinh sống chủ yếu của cả thị tộc. Quan hệ hôn nhân trong thời kỳ này là quần hôn, do vậy hầu như người con sinh ra chỉ biết mặt mẹ mình. Sau này khi đồ sắt xuất hiện, người đàn ông là lực lượng lao động chính sản xuất ra của cải vật chất. Họ dần dần chiếm lấy địa vị trong xã hội. Chế độ phụ hệ ra đời, thay thế cho chế độ mẫu hệ. các tác phẩm văn học dân gian của nước ta in dấu bước chuyển biến này như Truyện Chử Đồng Tử- Tiên Dung, Sơn Tinh-Thủy Tinh, Truyện Trầu Cau….đề cao vai trò của người đàn ông. Đồng thời thông qua các câu chuyện cổ tích dân gian này cũng cho thấy sự ra đời của các gia đình hạt nhân là quá trình tan rã của công xã thị tộc với chế độ quần hôn. Thay vào đó là hôn nhân đối ngẫu hay là cặp đôi về hôn nhân. Thứ hai là công xã thị tộc phát triển thành công xã nông thôn. Công xã thị tộc sinh sống trong một phạm vi không gian xác định giữa các thành viên trong công xã đó được xác định theo quan hệ huyết thống. Sản xuất phát triển, diện tích ở một nơi cố định không còn đủ cho nhân dân phát triển. họ phải đi đến những miền đất xa hơn. Những cộng đồng người tụ tập quây quần bên các dòng sông không chỉ đơn thuần là quan hệ huyết thống mà còn quan hệ ngoài huyết thống. Đó chính là tiền thân của làng. Nhà Nước được xem là một tập hợp của nhiều phần tử làng. Do vậy mà có thể nói, sự chuyển biến về kinh tế xã hội của văn hóa Đông Sơn đã tạo nền móng cho sự ra đời của nhà nước Văn Lang về sau.Ngược dòng chảy của lịch sử, đi qua sự ngăn trở của không gian, chúng ta cùng tìm hiểu lịch sử Trung Quốc với quá trình xây dựng những tiền đề đầu tiên cho sự ra đời của nhà nước. Cũng giống như nước ta, điều kiện quan trọng bao trùm lên tất cả là sự phân hóa xã hội, phản ánh mâu thuẫn giai cấp không điều hòa được. Giai cấp ra đời là dấu hiệu của xã hội mà kinh tế đã có những tiến bộ vượt bậc Thời kỳ văn hóa Đại Vấn Khẩu [cách ngày nay 4000-5000 năm] là thời kỳ mà Trung Quốc có sự chuyển biến lớn trong kinh tế- xã hội. Với sự tiến bộ trong công cụ sản xuất đã đưa lại những bước phát triển cho nông nghiệp.Sản xuất nâng cao tạo điều kiện cho của cải dư thừa và nguồn gốc tạo nên phân hóa xã hội. Các di chỉ mộ táng ở Đại Vấn Khẩu minh chứng rất rõ cho những kết luận này. Có một số ngôi mộ có rất nhiều đồ tùy táng, mộ táng càng nhiều thì chứng tỏ lúc còn sống người chết rất giàu. Ngôi mộ nhiều đồ tùy táng nhất có tới 180 món, không chỉ có vậy mà họ cũng phát hiện rằng trong một số ngôi mộ chỉ có một vài đồ tùy táng sơ sài hoặc là không có. Cũng thông qua các di chỉ khảo cổ các nhà khoa học đã phát hiện ra một ngôi mộ hợp của cặp nam nữ tại vùng Đại Vấn Khấu thuộc huyện Thái An tỉnh Sơn Đông ngày nay, đó là di chỉ của xã hội thị tộc phụ hệ cách ngày nay 4000-5000 năm trước. Đây cũng là bước chuyển biến của chế độ mẫu hệ từ thời văn hóa Hà Mẫu Độ lên chế độ phụ hệ, khẳng định vai trò của người đàn ông là lực lượng lao động chính của nông nghiệp, vươn lên nắm quyền trong xã hội. Vì vậy mà thay vì “gả” những người con trai của thị tộc mình cho thị tộc khác, người ta đã “lấy’ những người con gái của thị tộc khác về, người phụ nữ phải theo chồng suốt đời. Do sự khác biệt về lịch sử mà nhà nước đầu tiên của Trung Quốc đã ra đời sớm hơn của Việt Nam. Trung Quốc: cách đây 4000-5000 năm, Việt Nam:2700 năm. Còn lại đều được cấu thành trên những điều kiện tương đối giống nhau, và giống với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đó là sự phát triển không kìm hãm được của mâu thuẫn giai cấp dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Song Phương Đông huyền bí đã vốn mang trong mình nhứng yếu tố khác lạ. Điều kiện để hình thành nên nhà nước đầu tiên trong lịch sử còn có những đặc trưng rất phương Đông.Ph.Enghen đã giải thích về sự ra đời của nhà nước nơi đây: “trên cơ sở phân hóa xã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu được yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu tranh tự vệ làm cho Nhà nước ban đầu vốn là “chức năng xã hội’ tiêu biểu cho lợi ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang địa vị độc lập với xã hội”. Như vậy nói rõ ra để một nhà nước ở Phương Đông ra đời còn cần có thêm hai điều kiện, đó là nhu cầu trị thủy và nhu cầu đấu tranh chống ngoại xâm. Nhà nước Văn Lang ra đời cũng không ngoài quy luật này.Trước tiên là sự gắn kết cộng đồng bắt đầu từ nhu cầu trị thủy, thủy lợi. Khi công cụ sản xuất bắt đầu tiến bộ, nhu cầu sản xuất của cư dân Việt cổ không chỉ dừng lại trong những hang động của thị tộc mình mà họ bắt đầu tràn xuống vùng đồng bằng, nơi gần các con sông có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Vùng đồng bằng sông Hồng là nơi mà cư dân Việt cổ đã chọn để khai phá. Song sông Hồng bắt nguồn từ Trung Quốc, khi chảy vào Việt Nam trên địa bàn có độ dốc cao thì sông Hồng lại trở thành con sông khá “nguy hiểm”. Do vậy mặc dù lượng phù sa ở đây rất cao song để chinh phục được nó cũng là một quá trình khó khăn, gian khổ. Để có thể chủ động tưới tiêu vào mùa khô và chống lũ lụt vào mùa mưa, cư dân Việt cổ không chỉ “trông trời trông đất hay là thần Sấm thần Sét” mà cần có những công trình trị thủy. Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ thời kỳ Hùng Vương, cư dân đồng bằng sông Hồng đã biết đắp đê, xây dựng một số công trình nhân tạo như kênh, phai, đập…Song điều đáng nói ở đây là công việc chống ngập lụt chưa bao giờ là công việc của một cá nhân, một gia đình cụ thể nào mà đó là công việc đòi hỏi nhiều người, nhiều khu vực với sự cố kết của cộng đồng rất cao. Ban đầu thì nhu cầu trị thủy này chỉ là xuất phát từ

Sự hình thành, bản chất của nhà nước:

  • 1.Các học thuyết tiêu biểu về nguồn gốc nhà nước
  • 2. Nguồn gốc nhà nước
  • 2.1. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc – bộ lạc và quyền lực xã hội
  • 2.2. Sự tan rã của công xã nguyên thuỷ và sự xuất hiện nhà nước
  • 3. Bản chất nhà nước
  • 3.1. Tính giai cấp của nhà nước
  • 3.2. Tính xã hội của nhà nước

1.Các học thuyết tiêu biểu về nguồn gốc nhà nước

Thời kỳ cổ, trung đại có hai học thuyết tiêu biểu là Thuyết Thần quyền và Thuyết Gia trưởng. Thuyết Thần quyền cho rằng Thượng đế là người sắp đặt trật tự xã hội, sáng tạo ra nhà nước. Trong thuyết Thần quyền được chia thành ba phái đó là phái Quân chủ [phái Quân chủ cho rằng Thượng đế trực tiếp trao quyền thống trị dân chúng cho một ông vua], phái Giáo quyền [phái này cho rằng Thượng đế trao quyền cho Giáo hội và Giáo hoàng chỉ giữ lại quyền thống trị về tinh thần còn quyền thống trị về thể xác thì trao cho nhà vua] và phái Dân quyền [phái này cho rằng Thượng đế trao quyền cho nhân dân và nhân dân uỷ thác cho nhà vua, chấp nhận phục tùng nhà vua nhưng nhà vua phải cai trị một cách công bằng nếu không sẽ bị nhân dân lật đổ và thay thế bằng một ông vua khác]. Thuyết Gia trưởng cho rằng nhà nước là kết quả của gia đình phát triển, quyền lực nhà nước giống như quyền gia trưởng của người đứng đầu gia đình

Đến khoảng thế kỷ XVI, XVII, XVIII xuất hiện hàng loạt quan niệm mới về nguồn gốc nhà nước mà điển hình là thuyết Khế ước xã hội cho rằng nhà nước ra đời là sản phẩm của một khế ước được kí kết giữa mọi người. Ngoài ra thời kỳ này còn có các quan niệm khác như thuyết Bạo lực cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc chiến thắng để nô dịch thị tộc chiến bại, thuyết Tâm lý cho rằng con người có nhu cầu phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ… Thuyết Nhà nước siêu trái đất cho rằng đây là sự du nhập của nền văn minh ngoài trái đất…

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nhà nước và pháp luật không phải là những hiện tượng vĩnh cữu, bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Chúng luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điêù kiện khách quan cho sự tồn taị và phát triển của chúng không còn nữa.Nhà nước xuất hiệnmột cách khách quan, nhưng không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.Nhà nước chỉ xuất hiệnkhi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện ở nơi nào và thời gian nào khi đã xuất hiện sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.

2. Nguồn gốc nhà nước

2.1. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc – bộ lạc và quyền lực xã hội

Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên của xã hội loài người, trong đó không tồn tại giai cấp và nhà nước

>> Xem thêm: Nguồn gốc của nhà nước là gì ? Nguyên nhân, điều kiện nào dẫn đến sự ra đời của nhà nước ?

Bầy người nguyên thuỷ là hình thức tập hợp đầu tiên, tự nhiên và hết sức đơn giản của con người

Trải qua hàng triệu năm sống thành bầy, con người nguyên thuỷ bước vào giai đoạn xã hội có tổ chức cao hơn là giai đoạn công xã nguyên thuỷ. Đơn vị tế bào của công xã nguyên thuỷ là tổ chức thị tộc gồm những người cùng huyết thống. Các thị tộc có quan hệ hôn nhân tạo thành các bào tộc. Nhiều bào tộc có quan hệ kinh tế - địa vực hợp thành bộ lạc. Vì vậy, tổ chức thị tộc – bộ lạc là hình thái biểu hiện cơ bản của công xã nguyên thuỷ

Nền tảng vật chất của công xã nguyên thuỷ là lao động sản xuất tập thể và quyền sở hữu chung đối với tài sản của thị tộc. Nguyên tắc phân phối bình quân là nguyên tắc đặc trưng của thị tộc. Trong thị tộc có sự phân công lao động nhưng đó là sự phân công tự nhiên để thực hiện các loại công việc cho thích hợp chứ không xuất phát từ địa vị khác nhau của con người

Để tổ chức và điều hành hoạt động xã hội, thị tộc cũng cần đến quyền lực và một hệ thống quản lý thực hiện quyền lực đó là: Hội đồng thị tộc [bao gồm tất cả những thành viên đã trưởng thành của thị tộc, có quyền bàn bạc dân chủ và quyết định những vấn đề quan trọng], Tù trưởng và thủ lĩnh quân sự [là những người đứng đầu thị tộc do hội nghị toàn thể thị tộc bầu ra. Họ không có đặc quyền riêng và họ điều hành công việc của thị tộc theo quyết nghị của Hội đồng thị tộc và sự điều hành của họ không dựa trên một cơ quan cưỡng chế nào mà dựa trên uy tín của họ đối với cộng đồng]

Như vậy, trong xã hội thị tộc – bộ lạc đã xuất hiện quyền lực xã hội với những đặc điểm là: không tách rời khỏi xã hội; phục vụ lợi ích của cả cộng đồng và không có bộ máy cưỡng chế.

2.2. Sự tan rã của công xã nguyên thuỷ và sự xuất hiện nhà nước

Công cụ lao động mới [kim loại thay thế gỗ, đá] xuất hiện làm tăng năng xuất lao động và xuất hiện sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hoá [3 lần phân công lao động lớn đó là chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện]. Điều này đã dẫn đến quá trình phân hoá tài sản và xuất hiện chế độ tư hữuCác con đường hình thành chế độ tư hữu: những người có địa vị trong cộng đồng thị tộc – bộ lạc như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự, tăng lữ… lợi dụng ưu thế của mình chiếm đoạt sản phẩm dư thừa của tập thể; Do chiến tranh giữa các bộ lạc khiến cho lượng của cải và tù binh rơi vào tay bộ lạc chiến thắng; Do lao động sản xuất, các gia đình nhỏ tách khỏi gia đình phụ hệ lớn và trở thành một đơn vị kinh tế độc lập tự tích luỹ tài sản qua các thế hệ

Công xã nông thôn xuất hiện thay thế cho công xã nguyên thuỷ đang dần dần tan rã. Quá trình chuyển cư mạnh mẽ do những hoạt động thương nghiệp, sự thay đổi nghề nghiệp… đã xuất hiện những công xã láng giềng và xã hội hình thành những tập đoàn người có địa vị kinh tế – xã hội khác hẳn nhau: tập đoàn thứ nhất bao gồm các quý tộc thị tộc – bộ lạc, các tăng lữ, thương nhân giàu có và một số ít thợ thủ công, nông dân tích luỹ được nhiều của cải. Họ không đông về số lượng nhưng nắm giữ phần lớn tài sản của xã hội. Đó là giai cấp chủ nô; tập đoàn thứ hai bao gồm đông đảo nông dân và thợ thủ công. Họ có chút ít tài sản và luôn bị chèn ép, chịu sự chi phối của tập đoàn thứ nhất. Đó là giai cấp bình dân; Tập đoàn thứ ba gồm các tù binh, người phạm tội, người bị phá sản. Họ không có tài sản và quyền tự do, phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ sở hữu họ. Đó là giai cấp nô lệ.

Sự hình thành các giai cấp trên đòi hỏi xuất hiện một thứ quyền lực công cộng đặc biệt không còn hoà nhập với xã hội mà chỉ thuộc về giai cấp thống trị. Đó chính là nhà nước

>> Xem thêm: Bồi thường nhà nước với những nguyên tắc của pháp quyền

Như vậy, nhà nước xuất hiện một cách khách quan từ sự tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ. Tiền đề kinh tế cho sự ra đời của nhà nước là chế độ tư hữu tài sản. Tiền đề xã hội cho sự ra đời của nhà nước là sự phân chia xã hội thành các giai cấp.

Ph.Ăngghen đưa ra ba hình thức cơ bản và điển hình của sự xuất hiện nhà nước ở Châu u như sau: Nhà nước Aten ra đời từ sự phát triển và đối lập giai cấp nội bộ xã hội thị tộc; nhà nước Giecmanh ra đời do chiến thắng của người Giecmanh đối với đế chế La Mã cổ đại và nhà nước Rôma ra đời do tác động thúc đẩy của cuộc đấu tranh của những người bình dân sống ngoài các thị tộc Rôma chống lại giới quý tộc

Các nhà nước phương Đông ra đời sớm hơn cả về thời gian và mức độ chín muồi của các điều kiện kinh tế – xã hội do những yêu cầu thường trực về tự vệ và bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng

3. Bản chất nhà nước

Bản chất nhà nước là một thể thống nhất bao gồm hai phương diện: giai cấp và xã hội.

3.1. Tính giai cấp của nhà nước

Nhà nướclà bộ máy chuyên chínhgiai cấp, tức là công cụ để thực hiện, củng cố và bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trịcủa giai cấpthống trị haycủaquyền lực cầm quyền trongxã hội về các mặt kinh tế, chính trị và sự tác động về tư tưởng.

>> Xem thêm: Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Ngay từ khi ra đời, nhà nước đã thể hiện là công cụ bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho giai cấp thống trị xã hội mặc dù sự xuất hiện của nhà nước còn là do nhu cầu thiết lập ổn định, trật tự của xã hội.

Tính giai cấp nhà nước được thể hiện: nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào; bảo vệ lợi ích của giai cấp nào là chủ yếu. Tính chất giai cấp của nhà nước quy định nội dung hoạt động của nhà nước.

Sự thống trị của giai cấp được thể hiện trên ba mặt: thống trị về kinh tế, chính trị và tư tưởng.

Phụ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan, mức độ thể hiện, thực hiện tính giai cấp không hoàn toàn như nhau. Các yếu tố này bao gồm: tương quan lực lượng giai cấp, lực lượng xã hội, bối cảnh quốc tế, truyền thống, phong tục, tâm lý dân tộc, hoàn cảnh lịch sử, quan điểm chính trị, đạo đức của nhà cầm quyền, ý thức giác ngộ của nhân dân…

3.2. Tính xã hội của nhà nước

Tính xã hội của nhà nước được thể hiện, bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước còn phải quan tâm đến việc bảo đảm, bảo vệ, giải quyết lợi ích ở mức độ nhất định cho các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội và các vấn đề chung của toàn xã hội

tính xã hội là một thuộc tính tất yếu khách quan của bất kỳ nhà nước nào. Nhà nước sẽ không tồn tại được nếu không quan tâm đến quyền lợi của giai tầng khác, không giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh

Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội không hoàn toàn giống nhau ở các nhà nước và ngay cả trong một nhà nước nhưng vào những giai đoạn lịch sử khác nhau do hoàn cảnh lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế – văn hoá - xã hội, bối cảnh quốc tế, trình độ nhận thức và quan điểm đạo đức chính trị của nhà cầm quyền, trình độ và nhu cầu của các cá nhân, xã hội… Theo quy luật chung, tính xã hội, tính nhân loại của các nhà nước ngày càng được thể hiện rõ cùng với sự phát triển không ngừng của đời sống hiện đại.

>> Xem thêm: Quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp cần củng cố và hoàn thiện những gì ?

Ngoài ra, nếu còn vấn đề vướng mắc hoặc băn khoăn về những nội dung trên Quý khách hàng có thể liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến:1900.6162để được giải đáp thêm.

Công ty luật Minh Khuê [tổng hợp & phân tích]

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề