U tiền liệt tuyến là gì

Ung thư tuyến tiền liệt thường là ung thư biểu mô tuyến. Triệu chứng thường vắng mặt cho đến khi khối u tăng trưởng gây tiểu máu và/hoặc đái khó kèm theo đau. Gợi ý chẩn đoán khi thăm trực tràng hoặc khi xét nghiệm PSA và chẩn đoán xác định bằng sinh thiết qua trực tràng dưới siêu âm. Sàng lọc vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Tiên lượng cho hầu hết bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, đặc biệt ung thư cục bộ hoặc vùng [thường là trước khi có triệu chứng] là rất tốt; nhiều nam giới tử vong do nguyên nhân khác khi đang bị ung thư tiền liệt tuyến hơn là tử vong do bệnh này. Điều trị bằng phẫu thuật cắt tiền liệt tuyến, xạ trị, liệu pháp giảm nhẹ [ví dụ như liệu pháp hormon, xạ trị, hóa trị liệu], hoặc đối với nhiều bệnh nhân lớn tuổi và thậm chí là các đối tượng trẻ chọn lọc, cần giám sát chủ động.

Sarcoma tuyến tiền liệt là rất hiếm, xảy ra chủ yếu ở trẻ em. Ung thư tuyến tiền liệt không biệt hoá, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô ống tuyến chuyển tiếp cũng xảy ra không thường xuyên. Loạn sản nội biểu mô tuyến tiền liệt được coi là một biến đổi mô học tiền ung thư.

Các ảnh hưởng của hormon góp phần vào tiến triển của ung thư biểu mô tuyến tiền liệt, nhưng gần như chắc chắn không ảnh hưởng với các loại ung thư tiền liệt tuyến khác.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Ung thư tuyến tiền liệt thường tiến triển chậm và hiếm khi gây ra triệu chứng cho đến khi tiến triển. Trong giai đoạn tiến triển bệnh, tiểu máu và các triệu chứng tắc nghẽn bàng quang Bệnh thận tắc nghẽn Bệnh thận tắc nghẽn là sự cản trở dòng tiểu bình thường do bất thường về cấu trúc hoặc chức năng, đôi khi dẫn đến rối loạn chức năng thận [bệnh thận tắc nghẽn]. Bệnh... đọc thêm [ví dụ như bàng quang căng, tiểu ngắt quãng, tia nước tiểu yếu hoặc không liên tục, cảm giác tiểu không hết, tiểu nhỏ giọt cuối bãi] có thể xuất hiện. Đau xương, gãy xương bệnh lý, hoặc ép tủy có thể là kết quả của di căn tế bào tạo xương đến xương [thông thường là xương chậu, xương sườn, xương sống].

  • Đánh giá các bất thường bằng sinh thiết kim qua trực tràng

  • Phân loại theo mô học

  • Chẩn đoán giai đoạn bằng CT và chụp xương

Đôi khi sờ thấy khối lổn nhổn cứng chắc hoặc các nốt khi DRE, nhưng thường là bình thường; cứng chắc và u cục nghĩ đến ung thư nhưng phải được phân biệt với viêm tuyến tiền liệt hạt, vôi hoá tiền liệt tuyến và các rối loạn tuyến tiền liệt khác. Sự lan rộng của các khối cứng chắc đến các túi tinh và dính tuyến một bên gợi ý ung thư tuyến tiền liệt tiến triển tại chỗ. Các ung thư tuyến tiền liệt phát hiện qua DRE có xu hướng lớn và > 50% lan rộng xuyên qua bao.

Hầu hết ung thư tuyến tiền liệt ngày nay được tìm thấy bằng cách sàng lọc kháng nguyên đặc hiệu tiền liệt tuyến [PSA] huyết thanh [và đôi khi là DRE]. Việc sàng lọc thường được thực hiện hàng năm ở nam giới > 50 năm nhưng đôi khi bắt đầu sớm hơn đối với những người có nguy cơ cao [ví dụ những người có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt và người da đen]. Việc kiểm tra thường không được khuyến cáo đối với nam giới có kỳ vọng sống

Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu sàng lọc có làm giảm tình trạng bệnh tật hoặc tử vong hay không, hoặc có đưa đến bất cứ lợi ích hơn nào từ việc sàng lọc so với sự suy giảm chất lượng cuộc sống do điều trị ung thư không triệu chứng. Việc sàng lọc được khuyến khích bởi một số tổ chức chuyên nghiệp và không khuyến khích ở những tổ chức khác. Một phân tích gần đây của ERSPC [nghiên cứu ngẫu nhiên của châu Âu về sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt] và dữ liệu thử nghiệm PLCO [tuyến tiền liệt, phổi, ruột, và buồng trứng] cho thấy rằng việc sàng lọc trong cả hai thử nghiệm chứng minh giảm tỷ lệ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt khi kiểm soát sự khác biệt về cường độ sàng lọc mặc dù có tỷ lệ nhiễu cao trong nhánh chứng của PLCO [1,2] Tham khảo chẩn đoán Ung thư tuyến tiền liệt thường là ung thư biểu mô tuyến. Triệu chứng thường vắng mặt cho đến khi khối u tăng trưởng gây tiểu máu và/hoặc đái khó kèm theo đau. Gợi... đọc thêm . Do đó, vào năm 2017, Tổ công tác Dịch vụ Dự phòng Hoa Kỳ đang xem xét lại đề xuất 2012 của họ đối với việc sàng lọc dự phòng hoàn toàn ung thư tuyến tiền liệt [Mức D] với lợi ích có thể [Mức C] ở nma giới 70 tuổi. Hầu hết các bệnh nhân mới được chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt đều có DRE bình thường và PSA huyết thanh không lý tưởng như một xét nghiệm sàng lọc. Mặc dù PSA tăng từ 25 đến 92% bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt [phụ thuộc vào khối lượng khối u] nhưng nó cũng tăng ở mức độ vừa phải từ 30 đến 50% bệnh nhân tăng sản lành tính tiền liệt tuyến [phụ thuộc vào kích thước tuyến tiền liệt và mức độ tắc nghẽn] ở một số người hút thuốc, và vài tuần sau khi bị viêm tuyến tiền liệt Viêm tuyến tiền liệt Viêm tuyến tiền liệt có liên quan đến một nhóm các rối loạn khác nhau biểu hiện bởi sự kết hợp của các triệu chứng kích thích hoặc triệu chứng tắc... đọc thêm .

Một mức 3 ng/mL [3 microgam [mcg]/L] được coi là một chỉ định để sinh thiết ở nam giới > 50 tuổi. Mặc dù nồng độ cao là quan trọng [gợi ý tiến triển ngoài vỏ hoặc di căn] và khả năng ung thư tăng lên khi mức PSA tăng, nhưng không có ngưỡng nào mà dưới ngưỡng đó bệnh nhân không có nguy cơ.

Ở những bệnh nhân không có triệu chứng, giá trị dự đoán dương tính đối với ung thư là 67% đối với PSA > 10 ng/mL [10 mcg/L] và 25% đối với PSA từ 4 đến 10 ng/mL [10 mcg/L]; các bằng chứng gần đây cho biết tỷ lệ ung thư ở nam giới 55 tuổi với PSA 10 ng/mL [10 mcg/L] được coi là nguy cơ trung bình bởi hầu hết các chuyên gia. Khối u T2c, điểm Gleason 8 hoặc PSA > 20 ng/mL [20 mcg/L] [hoặc 2 yếu tố nguy cơ trung gian] nói chung có nguy cơ cao.

Nguy cơ di căn ung thư có thể được ước tính theo giai đoạn khối u, điểm Gleason và mức PSA:

  • Nguy cơ thấp: Giai đoạn ≤ T2a, điểm Gleason ≤ 6, và mức PSA ≤ 10 ng/mL [10 mcg/L]

  • Nguy cơ trung bình: Giai đoạn T2b, điểm Gleason = 7, hoặc mức PSA ≥ 10 [10 mcg/L] và ≤ 20 ng/mL [20 mcg/L]

  • Nguy cơ cao: Giai đoạn ≥ T2c, điểm Gleason ≥ 8, hoặc PSA ≥ 20 ng/mL [20 mcg/L]

Cả axit phosphatase và PSA giảm sau khi điều trị và tăng lên khi tái phát, nhưng PSA là dấu hiệu nhạy nhất để theo dõi sự tiến triển của ung thư và đáp ứng với điều trị và gần như đã thay thế axit phosphatase khi tiến hành với mục đích này.

  • Shoag JE: Đánh giá lại tỷ lệ thử nghiệm PSA trong thử nghiệm PLCO. N Engl J Med 374:1795-1796, May 5, 2016. doi: 10.1056/NEJMc1515131.

Tiên lượng cho hầu hết các bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt là rất tốt, đặc biệt là khi ung thư tại chỗ hoặc ung thư khu trú. Tuổi thọ của những nam giới cao tuổi bị ung thư tuyến tiền liệt có thể khác một chút so với nam giới cùng tuổi mà không bị ung thư, sự khác biệt phụ thuộc vào tuổi và bệnh mắc kèm. Đối với nhiều bệnh nhân có thể kiểm soát sự di căn trong thời gian dài hoặc thậm chí chữa khỏi. Khả năng chữa khỏi, ngay cả khi ung thư có biểu hiện tại chỗ trên lâm sàng, phụ thuộc vào độ và giai đoạn của khối u. Nếu không được điều trị sớm, những bệnh nhân ung thư độ cao, kém biệt hóa có tiên lượng xấu. Ung thư tuyến tiền liệt không biệt hóa, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô ống chuyển tiếp đáp ứng kém với các liệu pháp thông thường. Ung thư di căn không có cách chữa trị. Tuổi thọ trung bình khi bệnh di căn là 1 đến 3 năm, mặc dù một số bệnh nhân có thể sống thêm nhiều năm.

  • Đối với ung thư cục bộ trong tuyến tiền liệt, phẫu thuật hoặc xạ trị

  • Đối với ung thư ngoài tuyến tiền liệt, liệu pháp giảm nhẹ với liệu pháp hoóc môn, xạ trị hoặc hóa trị liệu

  • Đối với một số nam giới có nguy cơ ung thư thấp, giám sát chủ động mà không cần điều trị

Điều trị dựa theo mức kháng nguyên tiền liệt tuyến đặc hiệu [PSA], độ và giai đoạn của khối u, tuổi bệnh nhân, các bệnh đồng mắc và kỳ vọng sống. Mục tiêu của liệu pháp có thể là

  • Giám sát chủ động

  • Cục bộ [nhằm chữa bệnh]

  • Hệ thống [nhằm giảm hoặc hạn chế phạm vi khối u]

Hầu hết bệnh nhân, bất kể độ tuổi nào, đều thích liệu pháp điều trị triệt để nếu ung thư đe doạ đến tính mạng và có thể chữa khỏi. Tuy nhiên, điều trị chỉ là giảm nhẹ chứ không phải là tiệt căn nếu ung thư đã lan ra ngoài tuyến tiền liệt vì khả năng khỏi là không có. Chờ đợi thận trọng có thể được sử dụng cho những nam giới không được hưởng lợi từ liệu pháp tiệt căn [ví dụ, vì tuổi già hoặc có bệnh kèm theo]; những bệnh nhân này được điều trị bằng các liệu pháp giảm nhẹ nếu các triệu chứng tiến triển.

Giám sát chủ động thích hợp cho nhiều bệnh nhân > 70 tuổi không triệu chứng, có nguy cơ thấp, hoặc có thể thậm chí là nguy cơ trung bình, ung thư tuyến tiền liệt tại chỗ hoặc nếu đồng mắc với các bệnh lý hạn chế sự sống; ở những bệnh nhân này, nguy cơ tử vong do các nguyên nhân khác lớn hơn là ung thư tiền liệt tuyến. Cách tiếp cận này đòi hỏi phải khám trựa tràng định kì DRE và xét nghiệm PSA định kỳ và theo dõi các triệu chứng. Ở những nam giới trẻ khỏe mạnh có nguy cơ ung thư thấp, giám sát chủ động cũng đòi hỏi sinh thiết lặp lại định kỳ. Khoảng cách tối ưu giữa các lần sinh thiết chưa được thiết lập, nhưng hầu hết các chuyên gia đồng ý rằng nên ≥ 1 năm, có thể ít thường xuyên hơn nếu kết quả sinh thiết âm tính liên tục. Nếu ung thư tiến triển thì cần phải điều trị. Khoảng 30% bệnh nhân đang trải qua giám sát chủ động cuối cùng cũng cần được điều trị. Ở nam giới cao tuổi, giám sát chủ động cho tỷ lệ sống tương đương với phẫu thuật tiền liệt tuyến; tuy nhiên, những bệnh nhân đã phẫu thuật có nguy cơ về di căn xa và tỷ lệ tử vong đặc hiệu do bệnh thấp hơn đáng kể.

Liệu pháp cục bộ nhằm chữa khỏi bệnh ung thư tuyến tiền liệt và do đó có thể được gọi là liệu pháp tiệt căn. Cắt bỏ tuyến tiền liệt tiệt căn, xạ trị và liệu pháp áp lạnh là những lựa chọn chính. Tư vấn cẩn thận về những rủi ro và lợi ích của các phương pháp điều trị này và sự cân nhắc các đặc điểm của bệnh nhân [tuổi, sức khoẻ, đặc điểm khối u] rất quan trọng trong quá trình ra quyết định.

Xạ trị bằng chùm tia ngoài thường cung cấp 70 gray [Gy] trong 7 tuần, nhưng kỹ thuật này đã được thay thế bằng liệu pháp xạ trị 3 chiều và bằng phương pháp xạ trị điều biến cường độ [IMRT], cung cấp liều an toàn đến 80 Gy cho tuyến tiền liệt; số liệu cho thấy tỷ lệ kiểm soát cục bộ cao hơn, đặc biệt đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao. Giảm chức năng cương cứng xảy ra ít nhất là 40%. Các phản ứng phụ khác bao gồm viêm trực tràng phóng xạ, viêm bàng quang, tiêu chảy, mệt mỏi, và có thể là hẹp niệu đạo, đặc biệt ở bệnh nhân có tiền sử cắt bỏ tuyến tiền liệt qua niệu đạo. Các kết quả với liệu pháp xạ trị bằng chùm tia ngoài, phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt triệt để và giám sát chủ động được so sánh trung bình 10 năm sau khi điều trị ung thư tuyến tiền liệt cục bộ, như đã trình bày trong nghiên cứu ProtecT [1] Tài liệu tham khảo Ung thư tuyến tiền liệt thường là ung thư biểu mô tuyến. Triệu chứng thường vắng mặt cho đến khi khối u tăng trưởng gây tiểu máu và/hoặc đái khó kèm theo đau. Gợi... đọc thêm . Các hình thức xạ trị mới như liệu pháp proton là tốn kém hơn, và những lợi ích mà nó đem lại cho các nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt chưa được xác định rõ ràng. Xạ trị bằng chùm tia ngoài cũng có vai trò nếu ung thư còn lại sau khi cắt bỏ triệt để tiền liệt tuyến hoặc nếu nồng độ PSA bắt đầu tăng sau phẫu thuật và không có di căn. Bằng chứng gần đây cũng ủng hộ việc sử dụng bức xạ cho tuyến tiền liệt ở nam giới có khối lượng di căn thấp.

Liệu pháp chậm là liệu pháp cấy các hạt phóng xạ vào tuyến tiền liệt qua đáy chậu. Những hạt này phát ra một đợt phóng xạ trong một khoảng thời gian hữu hạn [thường từ 3 đến 6 tháng] và sau đó trơ. Các protocol nghiên cứu đang xem xét liệu cấy ghép chất lượng cao được sử dụng đơn độc hay cùng với xạ trị tia ngoài có tốt hơn ở những bệnh nhân có nguy cơ trung bình hay không. Liệu pháp chậm cũng làm giảm chức năng cương cứng, mặc dù sự khởi phát có thể chậm hơn và bệnh nhân có thể đáp ứng tốt hơn các thuốc ức chế phosphodiesterase loại 5 so với những bệnh nhân có đám mạch thần kinh bị cắt hoặc bị tổn thương trong quá trình phẫu thuật. Tiểu nhiều lần, tiểu gấp, và ít gặp hơn là bí tiểu thường rất phổ biến nhưng thường giảm dần theo thời gian. Các tác dụng phụ khác bao gồm tăng nhu động ruột; kích thích trực tràng, chảy máu, hoặc loét; và rò trực tràng-tiền liệt tuyến.

HIFU [siêu âm tập trung cường độ cao] sử dụng năng lượng siêu âm cường độ lớn xuyên qua trực tràng để cắt mô tuyến tiền liệt. Nó đã được sử dụng trong nhiều năm ở châu Âu và Canada và gần đây đã có mặt tại Mỹ. Vai trò của công nghệ này trong quản lý ung thư tuyến tiền liệt đang được phát triển; hiện nay, đây là biện pháp là phù hợp nhất cho điều trị ung thư tuyến tiền liệt tái phát sau xạ trị.

Nếu ung thư tuyến tiền liệt thể khu trú nhưng có nguy cơ cao, cần phải phối hợp nhiều liệu pháp khác nhau [ví dụ như đối với bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt nguy cơ cao được điều trị bằng bức xạ chùm bên ngoài, bổ sung liệu pháp hoóc môn].

Nếu ung thư đã lan rộng ra ngoài tuyến tiền liệt, chữa khỏi là không thể; điều trị toàn thân nhằm giảm hoặc hạn chế sự mở rộng của khối u.

Bệnh nhân có khối u tiến triển cục bộ hoặc di căn có thể được lợi từ việc thiếu hụt nội tiết tố nam do phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn hai bên hoặc dùng thuốc chủ vận LHRH, như leuprolide, goserelin, triptorelin, histrelin và buserelin, có hoặc không kèm theo xạ trị. Chất đối kháng LHRH [ví dụ, degarelix] cũng có thể làm giảm testosterone, thường nhanh hơn các chất chủ vận LHRH. Các chất chủ vận LHRH và chất đối kháng LHRH thường làm giảm testosterone huyết thanh gần giống như cắt tinh hoàn hai bên. Các thử nghiệm LATITUDE và STAMPEDE [2,3] Tài liệu tham khảo Ung thư tuyến tiền liệt thường là ung thư biểu mô tuyến. Triệu chứng thường vắng mặt cho đến khi khối u tăng trưởng gây tiểu máu và/hoặc đái khó kèm theo đau. Gợi... đọc thêm cho thấy bổ sung abiraterone và prednisone [hoặc prednisolone] vào liệu pháp điều trị chuẩn kéo dài thời gian sống ở những bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến tiền liệt di căn nhạy với hormone. Nếu bệnh nhân có khối u lớn, ung thư di căn nhạy cảm với hormone, thì hóa trị liệu đầu tay bằng docetaxel cũng có thể được xem xét thay vì abiraterone [4] Tài liệu tham khảo Ung thư tuyến tiền liệt thường là ung thư biểu mô tuyến. Triệu chứng thường vắng mặt cho đến khi khối u tăng trưởng gây tiểu máu và/hoặc đái khó kèm theo đau. Gợi... đọc thêm .

Thiếu androgen có thể làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống [ví dụ như hình ảnh bản thân, thái độ đối với bệnh ung thư và điều trị, mức năng lượng] và gây loãng xương, thiếu máu và mất khối lượng cơ khi điều trị lâu dài. Estrogen ngoại sinh hiếm khi được sử dụng vì chúng có nguy cơ biến chứng tim mạch và huyết khối tắc mạch.

  • Docetaxel [một loại thuốc hóa trị liệu taxan]

  • Sipuleucel-T [một vắc-xin có nguồn gốc từ bênh nhân có tác dụng tạo miễn dịch đối với tế bào ung thư tiền liệt tuyến]

  • Abiraterone [ngăn chặn sự tổng hợp nội tiết tố nam trong khối u cũng như trong tinh hoàn và tuyến thượng thận]

  • Enzalutamide [ngăn chặn sự kết hợp nội tiết tố nam với thụ thể của chúng]

  • Cabazitaxel [một loại thuốc hóa trị liệu taxan có thể có hoạt tính trong các khối u kháng với docetaxel]

  • Radium-233, phát ra bức xạ alpha, gần đây được tìm thấy để kéo dài sự sống cũng như ngăn ngừa các biến chứng do di căn xương ở nam giới có CRPC

  • Chất ức chế PARP [poly [ADP-ribose]] hoạt động ở bệnh nhân mCRPC với BRCA1/2 đột biến

Một số dữ liệu cho thấy rằng điều trị miễn dịch tự thân sipuleucel-T nên được sử dụng khi có dấu hiệu sớm nhất của CRPC. Nói chung, các phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt kháng thiến đang được thử nghiệm sớm hơn trong quá trình ung thư tuyến tiền liệt và hiện đang cho thấy lợi ích trong ung thư tuyến tiền liệt di căn nhạy cảm với hormone. Tuy nhiên, lựa chọn điều trị có thể liên quan đến nhiều yếu tố, và có rất ít dữ liệu có sẵn giúp dự đoán kết quả; do đó khuyến cáo nên giáo dục bệnh nhân và hội chẩn để đưa ra quyết định.

Để giúp điều trị và ngăn ngừa các biến chứng do di căn xương [ví dụ, gãy xương bệnh lý, đau, ép tủy], một chất ức chế tế bào hủy xương [ví dụ, denosumab, axit zoledronic] có thể được sử dụng. Xạ trị bằng chùm tia ngoài được sử dụng để điều trị các đợt di căn xương riêng lẻ.

  • Hamdy FC, Donovan JL, Lane JA, và cộng sự: Kết quả 10 năm sau khi theo dõi, phẫu thuật hoặc xạ trị đối với ung thư tuyến tiền liệt khu trú. N Engl J Med 375:1415-1424, 2016. doi: 10.1056/NEJMoa1606220.

  • Fizazi K, Tran N, Fein L, và cộng sự: Abiraterone plus prednisone in metastatic, castration-sensitive prostate cancer. N Engl J Med 377[4]:352-360, 2017. doi: 10.1056/NEJMoa1704174.

  • James ND, de Bono JS, Spears MR, và cộng sự: Abiraterone cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt trước đây không được điều trị bằng liệu pháp hormone. N Engl J Med 377[4]:338-351, 2017. doi: 10.1056/NEJMoa1702900.

  • Sweeney CJ, Chen Y-H, Carducci M, và cộng sự: Liệu pháp chemohormonal trong ung thư tuyến tiền liệt nhạy cảm với hormone di căn. N Engl J Med 373[8]:737-746, 2015. doi: 10.1056/NEJMoa1503747.

  • Saad F, Cella D, Basch E, và cộng sự: Ảnh hưởng của apalutamide đối với chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt không phãu thuật không di căn: Một phân tích của thử nghiệm SPARTAN ngẫu nhiên, có đối chứng với giả dược, giai đoạn 3. Lancet Oncol 19[10]:1404-1416, 2018.

  • Hussain M, Fizazi K, Saad F, và cộng sự: Enzalutamide in men with nonmetastatic, castration-resistant prostate cancer. N Engl J Med Jun 28;378[26]:2465-2474, 2018.

  • Ung thư tuyến tiền liệt phổ biến cùng với quá trình lão hóa nhưng không phải luôn luôn quan trọng về mặt lâm sàng.

  • Các triệu chứng xuất hiện chỉ sau khi ung thư đã lan rộng khó chữa.

  • Các biến chứng do di căn xương khá phổ biến.

  • Chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt bằng sinh thiết kim chọc qua trực tràng dưới hướng dẫn của siêu âm.

  • Thảo luận về những thuận lợi và khó khăn trong việc sàng lọc ở nam> 50 tuổi với kỳ vọng sống > 10 hoặc 15 năm.

  • Đối với bệnh ung thư tiền liệt tuyến khu trú, cân nhắc điều trị tại chỗ, tiệt căn [ví dụ, cắt bỏ tuyến tiền liệt, xạ trị] và giám sát chủ động.

  • Đối với ung thư đã lan rộng ra ngoài tuyến tiền liệt, cân nhắc điều trị toàn thân [ví dụ, các liệu pháp hoóc môn khác nhau, sipuleucel-T, hóa trị liệu bằng taxan].

  • Đối với di căn xương, cân nhắc sử dụng radium-233 và các chất ức chế tế bào hủy xương.

Chủ Đề