Ứng dụng của tâm lý học nhân văn

Tâm lý học - Ngành học nhân văn

Tâm lý học là ngành học cung cấp những tri thức tổng quát về cách con người suy nghĩ, cảm nhận và hành động trong bối cảnh cá nhân hay xã hội. Toàn bộ thế giới tinh thần phức tạp của con người, từ những rối nhiễu tâm lý đến những hành vi cao đẹp hay ý chí phi thường đều là đối tượng nghiên cứu của ngành Tâm lý học. Xã hội hiện đại ngày càng phát triển, Tâm lý học càng được coi trọng bởi tính cần thiết cũng như giá trị nhân văn mà Tâm lý học mang lại trong việc mưu cầu đời sống hạnh phúc cho con người.

Ngành tâm lý học là cơ hội tuyệt vời có thể đưa bạn đi đến tất cả mọi nơi, tất cả mọi ngóc ngách của cuộc sống để có thể trải nghiệm, tự khẳng định mình, lắng nghe và chia sẻ, nhận được sự chú ý và chào đón của nhiều người, mang đến cho cuộc sống nhiều điều tốt đẹp. Thực tế cho thấy, Tâm lý học ứng dụng đã và đang ngày càng phát triển, giúp cho nhiều người có thể hoàn thiện bản thân mình hơn, thấu hiểu được tâm lý người đối diện và người cùng giao tiếp là chìa khóa vàng để bạn có thể thành công trong tất cả các lĩnh vực. 

Ảnh minh họa 

Khoa Tâm lý giáo dục - Công tác xã hội, Trường Đại học Trào luôn chào đón các bạn trẻ có đam mê và muốn gắn bó với ngành Tâm lý học.

Thông tin chi tiết liên hệ: Khoa Tâm lý giáo dục và Công tác xã hội, P504 nhà A1, điện thoại 0394565522 [Mrs. Hà Mỹ Hạnh – Trưởng Khoa] hoặc gọi đến hotline: 02073.892.012 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.

Khoa Tâm lý giáo dục và Công tác xã hội

Tâm lý học nhân văn tập trung vào nghiên cứu về con người nói chung và một phần của ý tưởng rằng con người là vô cùng tốt. Các nhà tâm lý học nhân văn không quan sát hành vi của con người chỉ qua con mắt của người quan sát mà còn thông qua người hành động hoặc suy nghĩ. Họ hiểu rằng hành vi của con người không thể tách rời khỏi cảm xúc, ý định, hình ảnh bản thân hoặc lịch sử cá nhân của họ. Nó tập trung vào tự do, tiềm năng và sáng tạo của con người.

Một trong những tài liệu tham khảo đầu tiên của dòng tâm lý này là Carl Rogers, một trong những người tạo ra phương pháp tiếp cận nhân văn. Hiện tại đó là toàn diện lấy ý tưởng từ một số nghiên cứu nổi tiếng Abraham Maslow. Trong bài viết Tâm lý-Trực tuyến này, chúng tôi cho bạn biết về tâm lý nhân văn là gì và đặc điểm chính của nó là gì.

Bạn cũng có thể quan tâm: một người hướng ngoại và đặc điểm của nó là gì?
  1. Phát triển tâm lý nhân văn
  2. Đặc điểm nguyên tắc của chủ nghĩa nhân văn
  3. Hạn chế của tâm lý nhân văn

Phát triển tâm lý nhân văn

Chủ nghĩa nhân văn phát sinh vào khoảng những năm 50 như là lực lượng thứ ba trong tâm lý học để đáp ứng với những hạn chế đáng kể được thể hiện bởi một số nhà tâm lý học về phương pháp tiếp cận hành vi và phân tâm học. Hành vi đã bị chỉ trích vì không tập trung vào ý thức và tính cách con người, cũng như mang tính quyết định, máy móc và rất phụ thuộc vào nghiên cứu động vật. Phân tâm học đã bị từ chối vì sự nhấn mạnh quá mức của nó vào vô thức và các lực lượng bản năng và, hơn nữa, bởi vì tính quyết định của nó.

Vào năm 1957 và 1958, Abraham Maslow và Clark Moustakas đã gặp gỡ các nhà tâm lý học có chung mục tiêu, để thành lập một hiệp hội nghề nghiệp theo cách tiếp cận tích cực và nhân văn hơn. Trong các cuộc họp này, các khái niệm hoặc chủ đề được coi là cơ bản cho cách tiếp cận nhân văn đã được xử lý: tự giác, sáng tạo, sức khỏe, cá nhân, bản chất bên trong, bản thân, hiện hữu, trở thành và ý nghĩa.

Hiệp hội Tâm lý học Nhân văn Hoa Kỳ được thành lập năm 1961. Những người đóng góp chính cho sự phát triển của tâm lý học nhân văn là: Carl Rogers, Gordon Allport, James Bugental, Charlotte Buhler, Rollo May, Gardner Murphy, Henry Murray, Fritz Perls, Kirk Schneider , Louis Hoffman và Paul Wong.

Tâm lý học nhân văn: định nghĩa

Một số giả định cơ bản của tâm lý học nhân văn là:

  • Thử nghiệm [suy nghĩ, nhận thức, cảm nhận, ghi nhớ, cảm nhận ...] là cơ bản
  • các kinh nghiệm chủ quan của người là chỉ số đầu tiên của hành vi
  • Một sự hiểu biết chính xác về hành vi của con người không thể đạt được thông qua nghiên cứu động vật
  • các tự do sẽ tồn tại và mọi người nên chấp nhận trách nhiệm của mình để tự phát triển và hoàn thành. Không có hành vi được xác định
  • Tự nhận thức [nhu cầu của người tìm kiếm tiềm năng đầy đủ của họ] là điều tự nhiên
  • Mọi người rất tốt và sẽ phát triển như thế này nếu điều kiện phù hợp được đáp ứng, đặc biệt là trong thời thơ ấu
  • Mỗi người và mỗi trải nghiệm là duy nhất, vì vậy các nhà tâm lý học phải đối xử với từng trường hợp riêng lẻ, duy nhất và không tuân theo các hướng dẫn từ các nghiên cứu nhóm

Đặc điểm nguyên tắc của chủ nghĩa nhân văn

Có một số yếu tố của tâm lý học nhân văn, khi được thực hiện trong bối cảnh trị liệu, được gọi là liệu pháp lấy con người làm trung tâm. Một số đặc điểm quan trọng nhất của tâm lý học nhân văn là:

1. Đừng phán xét

Các lý thuyết và kỹ thuật của chủ nghĩa nhân văn dựa trên một cách tiếp cận mà chuyên gia không phán xét những gì người đó có trong trị liệu

2. Đồng cảm

Một khía cạnh cơ bản của trị liệu lấy con người làm trung tâm là sự đồng cảm. Các nhà trị liệu áp dụng cách tiếp cận nhân văn sẽ “họ tiếp cận” cho khách hàng của bạn khi họ khám phá các khía cạnh cảm xúc.

3. Đừng bệnh hoạn

Nhiều nhà trị liệu nhân văn họ để biệt ngữ lâm sàng sang một bên, cũng như chẩn đoán và tập trung vào bản chất của con người. Nhiều người theo chủ nghĩa nhân văn sử dụng phương pháp lấy con người làm trung tâm để khuyến khích khách hàng tập trung vào thế mạnh của họ.

4. Nhấn mạnh vào bản thân

Mục tiêu của liệu pháp này là thúc đẩy sự thể hiện cảm xúc, suy nghĩ và cảm xúc thông qua đối thoại. Trong một số trường hợp, khách hàng được khuyến khích viết, vẽ và hành động [psychodrama] như là cách thể hiện cảm xúc.

5. Hiện sinh

Các thành phần hiện sinh là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa nhân văn. Các nhà trị liệu hiện sinh giúp khách hàng làm việc trên các mô hình và phương pháp tiếp cận hạn chế, thúc đẩy sự sáng tạo như một cách thể hiện bản thân. 4 khía cạnh hiện sinh được khám phá là: thể chất, tâm lý, xã hội và tinh thần.

Hạn chế của tâm lý nhân văn

Chủ nghĩa nhân văn duy trì rằng những trải nghiệm chủ quan của con người gây khó khăn cho việc đo lường, đánh giá và nghiên cứu các biến số của con người và đặc điểm của họ. Làm việc chủ yếu với dữ liệu định tính làm cho không thể đo lường và xác minh Bất kỳ quan sát được thực hiện trong trị liệu. Không chỉ khó so sánh dữ liệu định tính với người khác, mà còn thiếu dữ liệu định lượng có nghĩa là các lý thuyết không thể được hỗ trợ bởi bằng chứng thực nghiệm.

Các chuyên gia khác chỉ trích chủ nghĩa nhân văn cũng nói về họ thiếu hiệu quả để điều trị rối loạn tâm thần nghiêm túc và khái quát được thực hiện về bản chất con người, chẳng hạn như từ chối hoàn toàn một số khái niệm hành vi và phân tâm học.

Ví dụ, mặc dù tâm lý học nhân văn cho rằng các nghiên cứu trên động vật không phục vụ nghiên cứu hành vi của con người, một số dữ liệu từ các nghiên cứu trên động vật đã cho phép thiết lập các khái niệm áp dụng cho con người. Ngoài ra, tâm lý nhân văn chỉ tập trung vào ý chí tự do và ý thức.

Bài viết này hoàn toàn là thông tin, trong Tâm lý học trực tuyến, chúng tôi không có khoa để chẩn đoán hoặc đề nghị điều trị. Chúng tôi mời bạn đi đến một nhà tâm lý học để điều trị trường hợp của bạn nói riêng.

Nếu bạn muốn đọc thêm bài viết tương tự như Tâm lý học nhân văn là gì: đặc điểm chính, Chúng tôi khuyên bạn nên nhập danh mục Tính cách của chúng tôi.

Tâm lý học nhân văn là trường phái tập trung vào các yếu tố con người. Lấy con người làm trung tâm và là chủ đạo để xử lý mọi vấn đề liên quan. Ngày nay, trường phái này được sử dụng rộng rãi với nhiều ứng dụng trong cuộc sống. Để hiểu rõ hơn về trường phái tâm lý học này, hãy tham khảo nội dung bài viết được chúng tôi chia sẻ dưới đây.

Tìm hiểu tâm lý học nhân văn là gì?

Khác với ngành tâm lý học tội phạm ở Việt Nam thì Tâm lý học nhân văn là sự kết hợp hài hòa của hai triết học lãng mạn và hiện sinh, và còn được gọi là tâm lý học lực lượng thứ ba. 

Điểm chính của trường phái tâm lý học này là tập trung vào tính biệt loại của con người. Phân biệt con người với các loài sinh vật khác. Và khác biệt với các ngành liên quan đến tâm lý học khác bởi vì nó coi con người không chỉ là một sinh vật được biến đổi bởi văn hóa và kinh nghiệm mà còn như là một nhân vị, một thực thể biểu tượng có khả năng suy tư về hiện hữu mình. Bên cạnh đó, con người còn có khả năng hiện hữu mình một ý nghĩa, một hướng đi.

Tâm lý học nhân văn

Lịch sử tâm lý học nhân văn

Vào đầu thập niên 1960, một phong trào được mệnh danh là tâm lý học lực lượng thứ ba đã được khởi xướng bởi nhóm nhà triết học do Abraham Maslow cầm đầu.

Theo các nhà triết học này, trường phái hành vi và trường phái tâm học đã bỏ quên một số thuộc tính quan trọng của con người. Cái thiếu sót chính là những thông tin có thể giúp chúng ta làm cho người bình thường trở nên khỏe mạnh hơn. Điều đó có nghĩa giúp họ đạt hết mức tiềm năng của họ.

Lịch sử hình thành tâm lý học nhân văn

Điều cần thiết để có một mô hình về con người nhấn mạnh tính độc đáo của họ và các khía cạnh tích cực hơn là tiêu cực của họ. Và đây cũng chính là cái mà tâm lý học lực lượng thứ ba nhằm cung cấp.

Mặc dù chỉ mới phổ biến trong các thập niên 1970 và 1980, nhưng tâm lý học lực lượng thứ ba lại mờ nhạt trong thập niên 1980. Thế nhưng trường phái này vẫn tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong tâm lý học hiện đại.

Trước khi quyết định theo đuổi một ngành nghề nào đó chắc hẳn các bạn sẽ tìm hiểu sơ lược những thông tin liên quan đến ngành đó ra sao. Cụ thể trong ngành này câu hỏi đặt ra chính là Tâm lý học là gì? Cơ hội việc làm ngành tâm lý học ra sao? Cùng tìm hiểu vấn đề này tại website tuyển sinh đại học Đông Á để hiểu rõ hơn nhé!

Các học giả nổi tiếng của tâm lý học nhân văn

Dưới đây là một số học giả nổi tiếng của tâm lý học nhân văn chúng tôi muốn giới thiệu đến bạn:

Nhà tâm lý học nhân văn Abraham Maslow

Maslow [01/04/1908] sinh ra và lớn lên tại Brooklyn – New York. Ông là con trưởng trong một gia đình có 7 anh em. Cha mẹ của ông là người Do Thái di cư từ Nga sang Hoa Kỳ. Là đứa bé người Do Thái duy nhất trong xóm, ông rất cô đơn và nhút nhát. Ông thường tìm sự ẩn náu nơi sách vở và các cuộc tìm tòi tri thức. Chính vì vậy, ông đã trở thành học sinh xuất sắc ở Boys High School tại Brooklyn và tiếp tục lên học tại City College ở New York.

Trong khi học ở City College, chiều theo ý của cha, ông đã theo học trường luật. Tuy nhiên chán học luật, ông đã bỏ sách vở và ra về. Sau một thời gian, ông vào học tại Đại học Wisconsin và sau đó đậu cử nhân vào năm 1930, thạc sĩ năm 1931 và tiến sĩ năm 1934.

Khi đang là nghiên cứu sinh ở Wisconsin, Maslow trở thành sinh viên tiến sĩ đầu tiên của nhà tâm lý học thực nghiệm nổi tiếng Harry Harlow. Luận án tiến sĩ của ông viết về đề tài sự thiết lập quyền thống trị trong một quần thể khỉ.

Nhà tâm lý học nhân văn Abraham Maslow

Theo như ông nhận thấy, quyền thống trị là do một sự “tín nhiệm bên trong” hơn là sức mạnh thể lý, điều này đã ảnh hưởng tới lý thuyết sau này của ông.

Ông cũng nhận thấy rằng hành vi tính dục trong quần thể khỉ cũng liên quan đến quyền thống trị và sự phục tùng, và ông tự hỏi liệu hoạt động tính dục của con người có giống như thế không.

Vào năm 1951, Maslow nhận chức trưởng khoa tâm lý học tại Đại học Brandeis ở Waltham, Massachusetts. Và trở thành nhân vật hàng đầu của phong trào tâm lý học nhân văn. Nhờ vào sự cố gắng của Maslow, một loạt sự kiện đã ra đời:

  • 1961: Tạp chí Tâm lý học nhân văn được ra đời
  • 1962: Hội các nhà Tâm lý học Nhân văn Hoa Kỳ ra đời
  • 1971: Ngành Tâm lý học Nhân văn được sáng lập.

Các đề cương của Tâm lý học nhân văn

Theo Maslow các nhà tâm lý học có các niềm tin cơ bản như sau:

  • Không có nhiều điều kiện giá trị có thể học hỏi được từ việc nghiên cứu các loài vật.
  • Thực tại chủ quan là hướng dẫn hàng đầu cho việc nghiên cứu các hành vi của con người.
  • Nghiên cứu các cá nhân mang lại nhiều thông tin hơn so với việc nghiên cứu những điểm chung của các tập thể.
  • Cố gắng khám phá những điều làm mở mang hay làm giàu cho kinh nghiệm con người.
  • Nghiên cứu phải tìm các thông tin giúp giải quyết mọi vấn đề con người
  • Mục tiêu của ngành tâm lý học chính là hình thành một mô tả đầy đủ về ý nghĩa của hiện hữu con người là gì.

Thứ bậc các nhu cầu của con người

  • Tầng 1: Nhu cầu sinh lý
  • Tầng 2: Nhu cầu về an toàn
  • Tầng 3: Nhu cầu về xã hội
  • Tầng 4: Nhu cầu được quý trọng
  • Tầng 5: Nhu cầu được thể hiện mình
Tháp nhu cầu của con người

Tự thể hiện mình

Con người chúng ta không ai có thể đạt tới đầy đủ tiềm năng của mình. Chính vì vậy Maslow cho rằng người tự thể hiện mình là người đã thỏa mãn thích đáng thứ bậc nhu cầu. Các tính chất của những người được xem là đã tự thể hiện mình theo Maslow bao gồm:

  • Nhận thức được thực tại chính xác và đầy đủ
  • Chấp nhận mình và người khác
  • Có sự tự nhiên và tự phát
  • Có nhu cầu riêng tư của chính mình
  • Có khuynh hướng độc lập với môi trường văn hóa
  • Có sự đánh giá liên tục đổi mới
  • Có kinh nghiệm thần bí hay tột đỉnh
  • Biết quan tâm tới mọi người
  • Thông thường sẽ có ít bạn thân
  • Có tinh thần dạo đức mạnh
  • Có đầu óc khôi hài
  • Có trí sáng tạo.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM:

Carl Rogers

Carl Rogers [1902-1987] là con thứ 4 trong gia đình có 6 anh chị em. Ông sinh ngày 8 tháng 1 tại Oak Oak, bang Illinois. Từ nhỏ ông đi học cùng trường với  Ernest Hemingway và các con của kiến trúc sư nổi tiếng Frank Lloyd Wright.

Theo Rogers thì gia đình ông như là rất gắn bó với tôn giáo và rất sùng đạo và các  mối quan hệ với bạn bè bên ngoài không được gia đình khuyến khích. Chính vì vậy mà ông cũng cô đơn giống như Maslow.

Carl Rogers

Năm ông 12 tuổi, gia đình đã chuyển đến một nông trại cách Chicago 25 dặm về phía Tây.  Mục đích chính là để tạo nên bầu không khí trong lành và đạo đức hơn cho gia đình. Theo mong muốn của cha ông cần nông trại điều hành một cách khoa học. Nên Roger đã phát triển một sự quan tâm sâu xa đối với khoa học.

  • Năm 1919, Rogers vào Đại học Wisconsin theo ngành canh nông.
  • Năm 1924 ông chuyển sang học lịch sử và đậu cử nhân
  • Năm 1928 ông đậu thạc sĩ lâm sàng tại Đại học Columbia.
  • Năm 1931 ông đậu tiến sĩ với luận án viết về việc đo lường sự điều chỉnh nhân cách nơi trẻ em.

Sau khi nhận bằng tiến sĩ, Rogers đến làm việc cho Ban Nghiên cứu trẻ em của Hội ngăn ngừa bạo lực đối với Trẻ em ở Rochester, New York. Nơi đây đã giúp ông có nhiều kinh nghiệm dẫn tới việc triển khai kiểu tâm lý trị liệu của riêng ông.

Lý thuyết nhân cách của Carl Rogers

Các phê bình

Một số phê bình đối với tâm lý học nhân văn tập trung vào điểm sau:

  • Tâm lý học này đồng hóa tâm lý học hành vi với công trình của Watson và Skinner.
  • Không xét đến bản chất tích lũy của khoa học bằng cách nhấn mạnh rằng: Tâm lý khoa học không quan tâm đến các thuộc tính siêu vật của con người.
  • Mô tả về con người giống như các nhà nhân văn đề nghị, điều đó giống với các mô tả được ưa thích trong quá khứ trong lĩnh vực văn học, thi ca hay tôn giáo.
  • Phê bình thuyết hành vi, tâm phân học và tâm lý khoa học nói chung.
  • Các thuật ngữ sử dụng quá mơ hồ, không có định nghĩa rõ ràng.
Các phê bình đối với tâm lý học nhân văn

Cống hiến

Tâm lý học nhân văn cống hiến cho khoa học tâm lý học:

  • Mở rộng lĩnh vực tâm lý học
  • Thổi một sức sống mới vào tâm lý học.
  • Nhìn thấy bản chất tốt đẹp trong con người từ đó đề cao hoài bão và nỗ lực vươn lên của con người.
  • Hướng con người tìm được bản ngã đích thực của mình.

Chắc hẳn nội dung bài viết trên đây đã giúp bạn hiểu rõ hơn về tâm lý học nhân văn là gì và các học giả nổi tiếng của trường phái tâm lý học này. Hy vọng đây sẽ là những thông tin có ý nghĩa và thật sự hữu ích dành cho bạn.

Video liên quan

Chủ Đề