Vấn de cơ bản của triết học hiện đại

TRUNG TÂM GIA SƯ GLORY    -    TRUNG TÂM UY TÍN TẠI HẢI PHÒNG.    ĐỊA CHỈ: NGÕ 275 ĐÔNG KHÊ, NGÔ QUYỀN, HẢI PHÒNG

Trong tác phẩm “Lút vích Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ăngghen đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi, giữa ý thức hay vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai trả lời câu hỏi, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học: Bởi vì, vật chất và ý thức là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học và đồng thời nó cũng là nội dung cơ bản nhất được xác định trong đối tượng nghiên cứu của triết học. Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là một tiêu chuẩn để phân biệt sự giống nhau, khác nhau giữa các trường phái triết học, giữa triết học và khoa học. Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận chung về thế giới quan và phương pháp luận của triết học.

Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở phân định các trường phái triết học. Có ba cách giải quyết: Một là, vật chất có trước quyết định ý thức, vật chất quyết định ý thức. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức. Hai là, ý thức có trước, vật có sau, ý thức quyết định vật chất. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ hai của vật chất. Ba là, vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan hệ sản sinh, cũng không nằm trong quan hệ quyết định nhau.

Cách giải quyết thứ nhất và thứ hai tuy đối lập nhau về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ, chúng đều thừa nhận tính thứ nhất của một nguyên thể[hoặc vật chất, hoặc ý thức] Hai cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên.

- Triết học duy vật cổ đại [duy vật chất phác – ngây thơ] Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Aán Độ, Trung Hoa, Hylạp. Bởi vì, xét về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng xét về mặt phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật… vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác, v.v… Aênghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thhời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”, hoặc là quan điểm về nguyên tử của Démocrite, v.v… Tóm lại, Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế. - Chủ nghĩa duy vật siêu hình Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của triết học duy vật từ thời kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn được gọi là triết học tự nhiên. Xét về mặt thế giới quan là duy vật, nhưng xét về mặt phương pháp luận lại ảnh hưởng bởi phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên [phương pháp thực nghiệm]của thời kỳ này, nhất là khoa học vật lý. Cho nên, nó còn được gọi là phép siêu hình “Méthaphisiqie” – “Méthode Dialectique” Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII. Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sực tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc – phương pháp nhìn nhận thế giới như một tổng thể các sự vật, hiện tượng tạo nên trong trạng thái biệt lâp, tĩnh tại. Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học còn là một bộ phận trực tiếp của triết học. Đến thời kỳ này nảy sinh nhu cầu các ngành hoa học cụ thể tách ra khỏi triết học trở thành các ngành khoa học cụ thể, độc lập; dùng phương pháp nghiên cứu thật chi tiết nhằm phát hiện các thuộc tính, những qui luật của vật chất như tính năng, tác dụng, độ bền vật liệu, v.v… Từ đó làm xuất hiện phương pháp mới trong khoa học tự nhiên – phương pháp thực nghiệm và cũng trên cở đó xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Phương pháp này xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, không vận động, không biến đổi, không phát triển, v.v… đó là hệ quả của điều kiện lịch sử phát triển của khoa học ở thế kỷ XVII – XVIII. Triết học duy vật thời kỳ này đại diện cho những tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của triết học duy vật thời kỳ này là triết học duy vật Pháp với những quan điểm của La Mettrie, Diderot Denis, Holbach Paul Henri, Helvétus Claude Adrie - chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII,v.v… chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. - Chủ nghĩa duy vật Biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác – Aênghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học. Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật đều

thừa nhận vật chất là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định đối với ý thức còn ý thức là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào vật chất. Và giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới.

- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cơ sở hết thảy mọi sự vật tồn tại là cảm giác, biểu tượng và ý thức của cá nhân, của chủ thể. Tư tưởng tiêu biểu của trường phái này là Berkeley[Thời cận đại] với quan điểm không thừa nhận ở bên ngoài cảm giác vẫn tồn tại những sự vật, hiện tượng thực tại, độc lập với con người, tác động vào giác quan của con người hình thành cảm giác, nhận thức, v.v… - Chủ nghĩa duy tâm khách quan thì cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại không phải là ý thức cá nhân, chủ quan là một thứ ý thức “khách quan” và thần bí nào đó tồn tại thuần túy trừu tượng có trước và quyết định tất cả, kể cả con người và ý thức của con người. Tiêu biểu cho những quan điểm này phải kể đến Platon [Hy lạp cổ đại] và Héghel [Triết học Cổ điển Đức]. Như vậy, sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan chủ yếu thể hiện trong quan niệm về ý thức, nhưng họ lại giống nhau về mặt nguyên tắc khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học thì họ đều thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định vật chất còn vật chất là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào ý thức. Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy tâm không phủ nhận khả năng nhận thức của con người nhưng họ coi khả năng đó phụ thuộc vào chính bản thân ý thức [cảm giác chủ quan thuần túy] hoặc lực lượng siêu nhiên [ý niệm - ý niệm tuyệt đối].

Như vậy, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là quan điểm nhất nguyên luận. Bởi vì, mỗi một trường phái đều xuất phát từ quan điểm duy nhất là thừa nhận vật chất, hoặc ý thức là cái có trước cái quyết định, làm nguyên lý xuất phát với tính cách là cơ sở lý luận chung cho hệ thống lý luận triết học của mình. Trong lịch sử triết học còn có trường phái Nhị nguyên luận, Thuyết không thể biết và triết học Tôn giáo; nhưng chủ yếu vẫn là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của việc tìm hiểu triết học nói chung và tìm hiểu một học thuyết triết học nào đó nói riêng. Trong bài viết này, Luận Văn Việt xin chia sẻ đến bạn những vấn đề cơ bản của triết học.

1. Vấn đề cơ bản của triết học là gì? 

Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học. [Theo: Wikipedia]

Các vấn đề cơ bản của triết học bao gồm:

  • Vấn đề về bản thể: vật chất là gì? Ý thức là gì? Mối quan hệ giữa chúng?
  • Vấn đề về nhận thức: quá trình nhận thức diễn ra như thế nào?
  • Vấn đề về chân lý: làm thế nào để biết được một phát biểu là đúng hay sai?
  • Vấn đề về đạo đức: thế nào là “tốt”, thế nào là “xấu”?
  • Vấn đề về thẩm mỹ: thế nào là “đẹp”, thế nào là “xấu”?

2. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học

Trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Trong tác phẩm này và một số tác phẩm khác, khi nói về vấn đề cơ bản của triết học, Ph.Ăngghen không định nghĩa tư duy là gì, tồn lại là gì mà chỉ nêu một số khái niệm khác tương tự như tinh thần, tự nhiên, vì vậy dễ dẫn đến cách giải thích quan hệ giữa “tư duy và tồn tại”, “tinh thần và tự nhiên” của Ph.Ăngghen là quan hệ giữa “ý thức và vật chất” hoặc quan hệ giữa “vật chất và ý thức”.

Chúng ta biết rằng, ngay sau khi nêu quan điểm “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”, Ph.Ăngghen viết tiếp:

“Ngay từ thời hết sức xa xưa, khi con người hoàn toàn chưa biết gì về cấu tạo thân thể của họ và chưa biết giải thích những điều thấy trong mơ, họ đã đi đến chỗ quan niệm rằng tư duy và cảm giác của họ không phải là hoạt động của chính thân thể họ [TG nhấn mạnh] mà là hoạt động của một linh hồn đặc biệt nào đó cư trú trong thân thể và rời bỏ thân thể họ khi họ chết, ngay từ thuở đó, họ đã phải suy nghĩ về quan hệ giữa linh hồn ấy với thế giới bên ngoài”…

Do đó, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần với tự nhiên, một vấn đề tối cao của toàn bộ triết học, cũng hoàn toàn giống như bất cứ tôn giáo nào, đều có gốc rễ trong các quan niệm thiển cận và ngu dốt của thời kỳ mông muội… [TG nhấn mạnh ]. Vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, một vấn đề đã đóng một vai trò lớn lao trong triết học kinh viện thời trung cổ, vấn đề xem cái nào có trước, tinh thần hay tự nhiên? vấn đề đó bất chấp giáo hội, lại mang một hình thức gay gắt: thế giới do Chúa Trời sáng tạo ra, hay nó vẫn tồn tại từ trước đến nay [TG nhấn mạnh].

Cách giải đáp vấn đề ấy đá chia các nhà triết học thành hai phe lớn. Những người quả quyết rằng tinh thần có trước tự nhiên, và do đó rút cục lại thừa nhận rằng thế giới được sáng tạo ra bằng cách nào đó… những người đó là thuộc phe chủ nghĩa duy tâm. Còn những người cho rằng tự nhiên là cái có được thì thuộc các học phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều thừa nhận sự tồn tại của cái phi vật chất. Với chủ nghĩa duy vật, đấy là ý thức, tinh thần, sản phẩm của vật chất, cái phản ánh vật chất, cái bị vật chất quyết định cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Với chủ nghĩa duy tâm, đấy là thực thể siêu tự nhiên [không có nguồn gốc từ tự nhiên, không phải là cái phản ánh tự nhiên], thế giới vật chất là sản phẩm thuần trí của thực thể siêu tự nhiên này nên thế giới vật chất không có thực chất của nó.

Theo quan điểm truyền thống, chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái, chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan, trong đó chủ nghĩa duy tâm chủ quan gắn liền với tên tuổi của triết gia – Giáo sĩ người Anh Giogiơ Béccơly [George Berkeley]. Chúng ta biết rằng, vào thế kỷ XVII, Giogiơ Béccơly đã biện minh cho chủ nghĩa duy tâm dưới hình thức mới bằng cách dựa trên những tiền đề hơi khác so với các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm truyền thống.

Đấy là vạn vật quanh ta là các khái niệm trong ý thức của ta [Béccơly và những người sau ông nói nhiều và nhấn mạnh ý này] song tất cả [cả ta và ý thức của ta] đều có nguồn gốc từ cái thuần trí của giới siêu tự nhiên, bị cái thuần trí của giới siêu tự nhiên quyết định. [Cuộc đối thoại thứ nhất và cuộc đối thoại thứ hai đặc biệt là đoạn kết trong cuộc đối thoại thứ hai giữa Philông [ Philonnus] và Hylaxơ [Hylas] của Béccơly phản ánh rất rõ tư tưởng này].

Vì vậy nếu chỉ dừng lại ở quan niệm chủ nghĩa duy tâm nhủ quan cho rằng ý thức của con người của chủ thể là cái tồn cài sẵn trong con người, là cái có trước, còn các sự vật bên ngoài chỉ là phức hợp các cảm giác, chỉ là cái phụ thuộc vào ý thức chủ thể thì chưa đủ.

Chúng tôi cho rằng khi tuyệt đối hoá vai trò của ý thức con người [ý thức của chủ thể], coi sự vật là phức hợp các cảm giác, thì không có nghĩa chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại do nguồn gốc này hay nguồn gốc khác, dưới hình thức này hay hình thức khác của sự vật, mà ở đây chủ nghĩa duy tâm chủ quan đã tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, của ý thức ở góc độ nhận thức luận.

Hơn nữa, sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm chủ quan là một trong những biểu hiện sự bế tắc, sự truy tìm lối thoát về mặt lý luận của chủ nghĩa duy tâm. Về bản chất, chủ nghĩa duy tâm chủ quan không phủ nhận sự tồn tại của thế giới siêu tự nhiên, phi vật chất, vì vậy, có thể được không khi hiểu: chủ nghĩa duy tâm không chia thành hai phái, mà chủ nghĩa duy tâm chủ quan hay chủ nghĩa duy tâm khách quan chỉ là những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.

Những vấn đề trên không phải được rút ra từ câu chữ, từ lý luận thuần tuý, mà quan trọng hơn, từ nhu cầu của cuộc sống hiện thực. Cho đến nay, không phải chỉ những người thuộc chủ nghĩa duy vật hay những người có học vấn cao mới hiểu tinh thần, ý thức là của con người, mà đấy thuộc loại kiến thức phổ thông, bất cứ ai cũng biết.

Chính vì vậy không ít người, đặc biệt đặc biệt là giáo dân của các tôn giáo hữu thần, tuy không thừa nhận “tinh thần”, “ý thức” kể cả cái gọi là “ý thức khách quan” là cái có trước, là cái quyết định giới tự nhiên, song họ lại rất tin tưởng ở một thế giới siêu tự nhiên, phi vật chất tồn tại với tư cách là lực lượng sáng tạo .

Ngay cả các nhà duy vật, thậm chí các nhà khoa học duy vật, cũng có lúc này, lúc khác rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy tâm [thường là duy tâm chủ quan], thì, kể cả những lúc duy tâm nhất cũng không ai quan niệm “tinh thần”, “ý thức” của con người có trước tự nhiên, không ai quan niệm sự vật là “phức hợp các cảm giác” xét dưới góc độ bản thể luận.

Từ trước đến nay, triết học vẫn được xem là môn khoa học mang tính khái quát, trừu tượng cao và được nhiều học viên đánh giá là “khó nhằn”. Nếu bạn đang gặp khó khăn trong quá trình làm tiểu luận, luận văn đề tài triết học cao học, hãy liên hệ với Hỗ trợ luận văn Luận Văn Việt. Chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề của bạn nhanh chóng và hiệu quả nhất.

2. Bản chất vấn đề cơ bản của triết học

Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề giữa tư duy và tồn tại, song do “tư duy” được các trường phái triết học quan niệm khác nhau nên bản chất vấn đề cơ bản của triết học cũng được hiểu khác nhau.

Với chủ nghĩa duy tâm khách quan, đấy là mối quan hệ giữa giới siêu tự nhiên, phi vật chất tồn tại dưới những tên gọi khác nhau với giới tự nhiên, con người và xã hội loài người.

Với chủ nghĩa duy tâm chủ quan, đấy là mối quan hệ giữa toàn bộ những biểu hiện của tinh thần, ý thức con người như ý chí, tình cảm, tri thức… với hiện thực.

Với chủ nghĩa duy vật biện chứng thì:

“ Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại” thường được lý giải trực tiếp là “mối quan hệ giữa ý thức và vật chất”.

Thực ra, khái niệm “tư duy” có ngoại diên hẹp hơn khái niệm “ý thức” còn khái niệm “tồn tại” lại có ngoại diên rộng hơn khái niệm “vật chất”. Vì vậy, chỉ trong trường hợp này và chỉ trong những trường hợp tương tự như thế này thì mới có thể đồng nhất “tư duy”, với “ý thức”, “tồn tại” với “vật chất”, còn trong những trường hợp khác thì nội dung của những khái niệm đó phải được phân biệt rõ ràng, nhất là khi đề cập đến các vấn đề bản chất của thế giới, tính thống nhất vật chất của thế giới và lý luận nhận thức.

Cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Song, theo Ph.Ăngghen, lúc đầu [và chỉ lúc đầu [TG nhấn mạnh], cơ sở của sự phân biệt đó chỉ là ở việc thừa nhận hay không thừa nhận tự nhiên là cái có trước và do đó, không thừa nhận hay thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới.

Điều này cho thấy, quan hệ trước sau không phải là cơ sở quan trọng hàng đầu, cũng không phải là cơ sở duy nhất để xác định duy vật hay duy tâm trong khi giải quyết những vấn đề mà triết học đặt ra, mà quan trọng hơn, phải xét xem vai trò quyết định thuộc về nhân tố nào thuộc về vật chất hay ý thức.

Chẳng hạn, vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội là mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đấy là mối quan hệ giữa những nhân tố vật chất mà những biểu hiện cơ bản của nó là hoàn cảnh địa lý, dân số và phương thức sản xuất với những nhân tố tinh thần được biểu hiện qua ý thức của những con người cụ thể, hình thành nên tâm lý xã hội, hệ tư tưởng với hai cấp độ ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận. Trong mối quan hệ này, tồn tại xã hội không thể có trước, ý thức xã hội không thể có sau, mà sự ra đời của tồn tại xã hội và ý thức xã hội là đồng thời. Tính chất duy vật ở đây chỉ được bộc lộ khi thừa nhận ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội, là cái bị tồn tại xã hội quyết định.

Tương tự, gọi là duy tâm chủ quan với những biểu hiện của nó như chủ quan duy ý chí chủ quan duy tình cảm, chủ quan duy tri thức… không có nghĩa là quan niệm những yếu tố thuộc ý thức này là cái có trước, mà chỉ là quan niệm cho rằng những yếu tố này [ý chí, tình cảm, tri thức… ] có thể quyết định sự thành công hay thất bại của con người [xem nhẹ hoàn cảnh khách quan].

Ranh giới giữa ý thức và vật chất vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối của ranh giới này được giới hạn ở góc độ nhận thức luận cơ bản, đó là sự thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức. Ngoài giới hạn ấy, khi khẳng định nguồn gốc vật chất của ý thức, khẳng định khả năng ý thức được vật chất hoá thông qua hoạt động của con người thì chủ nghĩa duy vật biện chứng đã thừa nhận tính tương đối của ranh giới này.

Mặt khác, nói đến ý thức là nói đến ý thức của con người, nói đến vật chất là nói đến giới tự nhiên, thế giới vật chất, nên bản chất mối quan hệ giữa ý thức và vật chất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên mà con người đang sống trong đó. Ở đây, hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học được chủ nghĩa duy vật biện chứng đặt ra rất rõ ràng, và chủng có mối quan hệ rất mật thiết với nhau:

Mặt thứ nhất: Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì vị trí, vai trò của con người đối với giới tự nhiên như thế nào?

Mặt thứ hai: Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì khả năng nhận thức của con người về giới tự nhiên ra sao?

Đây là một trong những cách hướng đến triết học ứng dụng – triết học đặt ra và định hướng giải quyết những nội dung không chỉ liên quan đến những vấn đề chung nhất có tính toàn cầu như môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, chiến tranh, hoà bình, lương thực, nhà ở… mà còn liên quan đến cả những vấn đề do cuộc sống nghề nghiệp, cuộc sống đời thường của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đặt ra.

Vấn đề cơ bản của triết học đã, đang và chắc chắn sẽ còn nhiều quan điểm khác nhau. Một vài ý kiến trên chỉ để các bạn đồng nghiệp tham khảo với mong muốn góp phần làm cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy, truyền bá triết học nói chung, triết học Mác – Lênin nói riêng đạt hiệu quả hơn.

Chắc hẳn qua bài viết trên bạn đọc cũng đã hiểu rõ hơn về các vấn đề cơ bản của triết học. Hy vọng rằng kiếm thức bên trên có thể giúp ích bạn trong quá trình học tập. Nếu còn bất kỳ thắc mắc gì vui lòng liên hệ 0915 686 999 để được tư vấn và hỗ trợ trực tiếp.

Hiện tại tôi đang đảm nhiệm vị trí Content Leader tại Luận Văn Việt. Tất cả các nội dung đăng tải trên website của Luận Văn Việt đều được tôi kiểm duyệt và lên kế hoạch nội dung. Tôi rất yêu thích việc viết lách ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Và đến nay thì tôi đã có hơn 5 năm kinh nghiệm viết bài.

Hy vọng có thể mang đến cho bạn đọc thật nhiều thông tin bổ ích về tất cả các chuyên ngành, giúp bạn hoàn thành bài luận văn của mình một cách tốt nhất!

Video liên quan

Chủ Đề