Vật chất là gì cho ví dụ năm 2024

V.Iênin định nghĩa vật chất như sau “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT MÁC LÊ NIN

Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin là kết quả của việc tổng kết từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật chất. Từ định nghĩa trên ta có thể nhận thấy có những nội dung được đề cập như sau:

Thứ nhất: Vật chất là phạm trù triết học

Thông thường chúng ta nhắc đến và hình dung về vật chất như một vật dụng, một tài sản của con người... Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật chất của Lênin là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.

Thứ hai: Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan

Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.

Thứ ba: Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác

Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

Từ định nghĩa của Mác Lê Nin ta rút ra được nguyên tắc khách quan

NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN

Nguyên tắc khách quan yêu cầu con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phản ánh trung thực sự vật với tất cả những bản chất vốn có của nó, tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực đồng thời đòi hỏi con người không được lấy ý chí áp đặt cho thực tế; không được lấy ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân bất chấp điều kiện thực tế làm xuất phát điểm, không rơi vào chủ quan duy ý chí. Nếu thực hiện không đúng hoặc đi ngược lại những yêu cầu này, sẽ rơi vào sai lầm khác nhau, mà điển hình là chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong nhận thức và

hành động, gây ra những hậu quả to lớn cho dù hoạt động ở bất cứ lĩnh vực nào.

Ý nghĩa phương pháp luận

Định nghĩa vật chất của V.Iênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách quan

  • xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan... Định nghĩa vật chất của V.Iênin là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội
  • đó là các điều kiện sinh hoạt vật chất và các quan hệ vật chất xã hội.

Định nghĩa vật chất của Lê-nin có hai ý nghĩa quan trọng sau đây (Nếu có)

Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.

Thứ hai khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội,về lịch sử.

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN VÀO CUỘC SỐNG

Từ “định nghĩa vật chất của Lê Nin” ta có thể tự tin thực hiện những hành động, có thể bỏ qua quan điểm của chủ nghĩ duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết để tiến hành thực hiện những hoạt động trong cuộc sống với suy nghĩ vấn đề đều có câu trả lời ở các mốc thời gian khác nhau. Từ mỗi cá nhân có thể đưa ra những lý giải của bản thân mình, tự tin hơn trong cuộc sống. Trong hoạt động thực tiễn và lý luận nếu áp dụng” Định nghĩa vật chất Lê Nin” sẽ giúp có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Lý luận phải gắn bó với thực tiễn lý luận không gắn bó thực tiễn sẽ trở thành lý luận xuông giáo điều. Còn hoạt động thực tiễn cũng phải gắn bó với lý luận. Nếu hoạt động thực tiễn không gắn bó với lý luận thì sẽ rơi vào trạng thái mò mẫn, mù quáng.

CÂU 2 NGUỒN GỐC Ý THỨC

Khái niệm ý thức

Theo định nghĩa của Triết học Mác – Lênin “Ý thức là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.’’

CÂU 3: MỐI QUAN HỆ B IỆN CHỨNG VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

Khái niệm vật chất và ý thức

“Vật chất là một phạm trù triết học dung để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác của chúng ta chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác’’.

“Ý thức theo định nghĩa của Triết học Mác – Lênin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.’’

Phân tích mối quan hệ biện chứng của vật chất và ý thức trên quan điểm triết học Mác Le Nin

* Mối quan hệ vật chất và ý thức

Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.

* Vật chất quyết định ý thức

Thứ nhất , vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.

Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính của bộ phận conF người. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức.Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.

Thứ hai , vật chất quyết định nội dung của ý thức.

Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội

  • lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh.. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễnt quyết định tính phong phú của ý thức

Thứ ba , vật chất quyết định bản chất của ý thức.

Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là "soi gương", "chụp ảnh"mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là

cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo.

Thứ tư , vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.

Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức.

Ví dụ 1 : Loài người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của họ. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế. Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần.

Ví dụ 2: Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba về công nghệ thông tin còn rất yếu. Nguyên nhân là do thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ giảng viên. Nhưng nếu đáp ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba của sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất như vậy thì ý thức cũng như vậy.

* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.

Thứ nhất , tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.

Thứ hai , sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ họat đông thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định

Thứ ba , vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.

hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi

Tính chất của mối liên hệ phổ biến:

Tính khách quan : có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh thần. Các mối liên hệ, tác động đó - suy đến cùng, đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: Mối liên hệ ràng buộc ảnh hưởng lẫn nhau của quan hệ cung cầu, giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động qua lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu.

Tính phổ biến: các mối liên hệ thể hiện ở chỗ, bất kỳ nơi đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy, mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng tự trao đổi chất với môi trường,nhờ đó mà tồn tại phát triển,đồng thời bản thân môi trường sống cũng là một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố lớp,phân hệ trực tiếp và gián tiếp.

Tính đa dạng, phong phú: Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giớió mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên hệ không bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu... chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Ví dụ : Các loài cá, chim, thú đều có quan hệ với nước nhưng cá quan hệ với nước khác với chim và thú.Cá sống thường xuyên trong nước,không có nước thì cá không thể tồn tại,nhưng các loài chim thú thì không thể sống trong nước thường xuyên được. Ý nghĩa phương pháp luận:

Mỗi sự vật hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ,tác động qua lại với nhau,do vậy khi nghiên cứu đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện. Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,phép biện chứng khái quát thành nguyên tắc toàn diện với những yêu cầu chủ thể hoạt động nhận thức và thực tiễn như sau:

Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó

Thứ hai , chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ

Thứ ba , cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp

Thứ tư , quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật nguỵ biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).

Liên hệ sinh viên

Với vai trò là doanh nghiệp vận dụng nguyên tắc toàn diện trong kinh doanh:

Theo quan điểm toàn diện chỉ nhìn sự vật hiện tượng ở một mặt một chiều thì không thể đánh giá chính xác được mà cần phải đặt nó vào mối liên hệ cụ thể trong từng hoàn cảnh lịch sự tương ứngụ thể như hòn đảo Phú Quốc, khi nhìn phiến diện ta chỉ thấy được kinh doanh về hải sản khách sạn nhưng nếu nhìn theo mặt khác thì Phú Quốc là hòn đảo không thể trồng trái cây được do đó rất khan hiếm nguồn trái cây từ đó ta bắt đầu tìm các mối buôn lái hợp lí cũng như đáp ứng được nhu cầu cung cấp trái cây cho hình thức kinh doanh trái cây tại Phú Quốcước tiên cần tìm một vị trí thuận lợi để bày bán như ở chợ hoặc cửa hàng, tìm kiếm các thương nhân để hỗ trợ giao mối sỉ lẻ và kiếm một nhà kho chất lượng để dự trữ các loài trái cây đồng thời tìm hiểu sở thích ưa chuộng trái cây của người dân tại Phú Quốc từ 2 đến 3 loại sau khi xác nhận được sản phẩm cũng như nguồn cầu ta cần tìm đến nguồn cung tìm kiếm những vị trí đất liền gần với hòn đảo lấy trái cây tại vườn vừa giám sát được chất lượng vừa giảm chi phí trung gian và thảo luận về việc mua bán cũng như di chuyển sang Phú Quốc Để việc kinh doanh có lợi nhuận ta cần có chiến lược quảng bá hợp lý có thể nhờ các hướng dẫn viên giới thiệu cho du khách hoặc nhờ người dân ủng hộ dùng thủ thuật truyền miệng đồng thời giao trai cây cho các thương nhân uy tín đã được biết đến nhiều ở Phú Quốc để họ buôn bán kết hợp phương thức bán và phân phối sỉ lẻ.

CÂU 5: NGUYÊN LÝ SỰ PHÁT TRIỂN

Khái niệm phát triển

“Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển, mà chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì thì mới là phát triểnận

còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó... Ví dụ : không thể đồng nhất tính chất giữa giới tự nhiên với sự phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của giới tự nhiên theo tính thuần túy, tự phát, còn sự phát triển của loài người có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của yếu tố nhận thức.

Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp nhận thức được rằng, muốn nắm được bản chất, nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng thì phải tự giác tuân thủ nguyên tắc phát triển, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Nguyên tắc này yêu cầu. Thứ nhất , khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai. Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó_._ Thứ ba , phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới. Tóm lại, muốn nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu cần “phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động... trong sự biến đổi của nó”

Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển

Xem xét các sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cải nó đang cỏ, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sang tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó. Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, tri trẻ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đỏ về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đua chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng

Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển: Các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn đòi hỏi ta phải công nhận tính quanh cơ, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên

Chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển: Sự phát triển mang tính chất kể thừa chọn lọc đòi hỏi ta chủ động tìm ra và giải quyết các mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đồng thời phải nghiên cứu, phát hiện và ủng hộ những cái mới phù hợp hơn.

Với vai trò là sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Trong thời đại giao thoa các nền văn

hóa với nhau, du nhập những phòng trào và xu hướng ở trong và ngoài nước, để giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, ngoài việc tiếp thu những nền văn hóa mới ta còn phải tích cực giới thiệu và chia sẽ về những bản sắc riêng của nước nhà đến toàn thế giới. Hiện nay, có một bộ phận nhỏ học sinh, sinh viên đề cao văn hóa nước ngoài và xem nhẹ văn hoá nước mình, đây là một vấn đề chưa tốt, vì điều này sớm muộn gì cũng khiến cho con người đánh mất đi giá trị cốt lõi của đất nước mình. Mỗi một quốc gia, có một nền văn hóa riêng, và nếu như một số học sinh, sinh viên chỉ đề cao văn hóa nước ngoài, thì những giá trị truyền thống tốt đẹp của đất nước ta sẽ ngày càng bị mai một dần đi, nhiều bản sắc đã và đang dần mất đi. Cần tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần thường xuyên thực hiện tốt. Nguyên lý về sự phát triển đã chỉ rõ rằng bản chất của sự phát triển là sự vận động để đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mọi thứ đều có xu hướng vận động, vậy nên để duy trì đc những bản sắc văn hóa ấy thì ta cũng phải không ngừng đổi mới, chắt lọc những điều tốt hay ho từ những nền văn hóa mà bổ sung thêm vào những phong tục tập quán của mình mình ví dụ như những năm nay ta du nhập vào những ngày lễ quốc tế như những ngày lễ tình nhân, quốc tế phụ nữ, lễ Giáng Sinh........ Dù đón nhận những văn hóa mới nhưng ta không quên đi cội nguồn của mình. Bên cạnh đó cũng nên xóa bỏ những phong tục, quan niệm lạc hậu, kém tiến bộ, loại bỏ tư duy bảo thủ để đổi mới. Ví dụ xóa bỏ những phong tục không miền núi như : tảo hôn, minh hôn, bắt vợ....... Từ đó mới có thể giữ cho những bản sắc văn hóa, những tinh hoa của dân tộc tiếp tục còn mãi

CÂU 6: CÁI CHUNG CÁI RIÊNG CÁI ĐƠN NHẤT

Khái niệm cái riêng

Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định.

Khái niệm cái chung

Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng) khác nữa.

Ví dụ: Trong cuộc sống hàng ngày, ta thường tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau như: cái bàn, cái nhà, cái cây cụ thể, vv.ỗi sự vật đó được gọi là một cái riêng, đồng thời, chúng ta cũng thấy giữa chúng lại có những mặt giống nhau như những cái bàn đều được làm từ gỗ, đều có cùng màu sắc, hình dạng. Mặt giống nhau đó người ta gọi là cái chung của những cái bàn.

Khái niệm cái đơn nhất

Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.

nào cũng là sự thống nhất giữa các mặt đối lập đó. Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất, vừa là cái chung; thông qua các đặc điểm cá biệt, các mặt không lặp lại của mình, sự vật, hiện tượng (cái riêng) đó biểu hiện là cái đơn nhất, nhưng thông qua các mặt lặp lại trong các sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung

Ví dụ: Quá trình phát triển của sinh vật, xuất hiện những biến dị ở một hoặc ít cá thể riêng biệt, biểu hiện thành đặc tính mà khi ngoại cảnh thay đổi nó trở nên phù hợp thì đặc tính được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể. Ngược lại những đặc tính không phù hợp sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất

Ý nghĩa phương pháp luận

Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một thuộc tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất và mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì các phương pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó đều không thể như nhau đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó. Vì bản thân cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một và không giống nhau hoàn toàn,mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp. Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái đơn nhất, thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đó trong điều kiện khác, không nên sử dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường hợp đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó. Thứ ba , trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cáichung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”

Vận dụng vai trò của sinh viên vào trong học tập, xã hội

Với vai trò là sinh viên, em vận dụng nội dung này vào trong cuộc sống như là:

Thứ nhất: cần nâng đỡ, hoàn thiện những ý tưởng sáng tạo để trở thành tri thức chung hoặc công nghệ chung của xã hội như em luôn chia sẻ các bài viết thành phẩm của các bạn sinh viên các đề tài nghiên cứu khoa học để các bạn có them sưc mạnh về tinh thần biến những dự án đó thành hiện thực vào đời sống chung

Thứ hai: những hành vi xấu của số đông cần phải tìm cách hạn chế, ngăn chặn để hành vi đó ngày càng thu hẹp ví dụ khi em thấy một người vứt rác bữa bãi cần ra ngăn cản và nhắc nhở họ nên vứt rác đúng nơi quy định

Với vai trò là sinh viên, em vận dụng nội dung này vào trong học tập như là:

Thứ nhất: Nhà trường, giáo viên, chương trình học phải được xây dựng sao cho đáp ứng nhu cầu của “người học” nên ủng hộ phát triển tài năng của từng cá nhân như bản thân em đã tự khám phá ra khả năng trội, thế mạnh riêng của em so với các bạn sinh viên khác

Thứ hai: cần phát triển ủng hộ các sáng kiến mới như trong khi học nhóm có 1 bạn đề ra 1 phương án tích cực mới có thể thay thế cái cũ thì tập thể cần trân trọng và tạo điều kiện cho cái sang kiến mới đó thành cái chung cái phổ biến trong phương pháp học tập còn nếu là cái tiêu cực thì cần phải loại bỏ không cho nó trở thành phương pháp học tập chung của cả nhóm.

CÂU 7: CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN - KẾT QUẢ

Khái niệm nguyên nhân

Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.

Khái niệm kết quả

Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.

Ví dụ : Sự tác động qua lại của cung và cầu đến quá trình thực hiện giá cả (nguyên nhân) của hàng hoá khiến cho giá cả xoay quanh giá trị của hàng hoá (kết quả).

Tính chất nguyên nhân và kết quả

Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu. Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều được gây nên bởi những nguyên nhân nhất định, trong đó có cả những nguyên nhân chưa được nhận thức.

Ví dụ tính tất yếu: Nước nguyên chất luôn luôn sôi ở 1000C trong điều kiện áp suất 1 at.

Mối liên hệ nguyên nhân và kết quả

Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ nhân quả không cứng nhắc, tĩnh tại. Trong quá trình vận động, phát triển, nguyên nhân và kết quả có thể đổi chỗ, chuyển hóa cho nhau. Cái mà ở thời điểm hoặc trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì ở thời điểm, trong mối quan hệ khác lại là kết quả. nguyên nhân “cháy hết mình” trong kết quả và kết quả “tắt đi” trong nguyên nhân; nguyên nhân đốt cháy mình sinh ra kết quả, kết quả tắt đi sinh ra nguyên nhân (Hêghen). Trên thực tế, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, do vậy sự phân loại nguyên nhân thành nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài... đối với một kết quả vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

bằng cách bổ sung vào hay bớt đi từ bản chất một vài tính chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể và các mối liên hệ ngẫu nhiên quy định, làm hiện tượng phong phú hay nghèo nàn hơn bản chất. Nhưng bản chất luôn là cái tương đối ổn định, ít biến đổi hơn, còn hiện tượng “động” hơn, thường xuyên biến đổi. Bản chất cũng là tính quy luật, bởi nói đến bản chất là nói đến tổng số các quy luật quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: Bản chất của xã hội tư bản là sự mâu thuẫn giữa tính xã hội lực lượng sản xuất mâu thuẫn với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản đối với tư liệu sản xuất .Giữa người bị bóc lột (giai cấp vô sản) mâu thuẫn với người bóc lột ( giai cấp tư sản)

Bản chất đó được biểu hiện với những hiện tượng phong phú: nạn thất nghiệp thường xuyên xảy ra, cuộc sống xa hoa trụy lạc của giai cấp tư sản, đời sống cực của giai cấp vô sản và người lao động.

Ý nghĩa PPL

Thứ nhất , bản chất chỉ thể hiện mình thông qua hiện tượng và hiện tượng lại thường biểu hiện bản chất dưới hình thức đã bị cải biến nên trong mọi hoạt động, không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài (hiện tượng), mà cần đi sâu vào bên trong để tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất thường giấu mình sau hiện tượng; dựa vào các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Thứ hai , bản chất là sự thống nhất giữa các mặt, các mối liên hệ tất nhiên vốn có của sự vật, hiện tượng, bản chất là địa bàn thống lĩnh của các mâu thuẫn biện chứng và chúng được giải quyết trong quá trình phát triển dẫn đến sự biến đổi của bản chất, tạo ra sự chuyển hóa của đối tượng từ dạng này sang dạng khác nên các phương pháp đã được áp dụng vào hoạt động cũ trước đây cũng phải thay đổi bằng các phương pháp khác, phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng

CÂU 9: CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC

Khái niệm khả năng

Khả năng là phạm trù phản ánh tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của hiện thực mới, là cái có thể có, nhưng ngay lúc này chưa có

Khái niệm hiện thực

Hiện thực là phạm trù phản ánh kết quả sinh thành, là sự thực hiện khả năng, và là cơ sở để định hình những khả năng mới.

Ví dụ: H iện thực Việt Nam hiện nay đang là một nước đang phát triển. Cái đang phát triển này có dựa trên rất nhiều tiêu chí khác nhau như kinh tế, giáo dục, khoa học công nghệ... mà Việt Nam chỉ ở mức đang phát triển. Nhưng khả năng trong tương lai Việt Nam có thể trở thành một nước phát triển khi mà phát huy được những lợi thế của hiện tại cả ở trong nước và các nguồn lực ở bên ngoài.

Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực

Là những mặt đối lập, khả năng và hiện thực thống nhất biện chứng với nhau: chúng loại trừ nhau theo những dấu hiệu căn bản nhất, nhưng không cô lập hoàn toàn với nhau. Sinh ra từ trong lòng hiện thực và đại diện cho tương lai ở thời hiện tại, khả năng làm bộc lộ hết tính tương đối của hiện thựcọi đối tượng đều bắt đầu phát triển từ sự chín muồi các tiền đề sinh thành của nó. Hiện thực bao chứa trong mình số lớn các khả năng, nhưng không phải tất cả đều được hiện thực hóa. Sự hiện thực hóa từng khả năng đòi hỏi các điều kiện tương ứng, nhưng rất có thể thiếu điều kiện như thế. Trong xã hội, sự hiện thực hóa một khả năng nào đó không tách rời hoạt động thực tiễn với các hoàn cảnh khách quan tương ứng.

Ví dụ: .Một công ty có sản phẩm với chất lượng tốt mẫu mã đẹp – đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng thì sản phẩm sẽ được tiêu thụ rất nhanh chóng trên thị trường.

Ý nghĩa PPL

Thứ nhất , khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ không tách rời nhau và luôn chuyển hóa cho nhau; do hiện thực được chuẩn bị bằng khả năng còn khả năng hướng tới sự chuyển hóa thành hiện thực, nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không thể dựa vào khả năng. Thứ hai , phát triển là quá trình mà trong đó khả năng chuyển hóa thành hiện thực, còn hiện thực này trong quá trình phát triển của mình lại sinh ra các khả năng mới, các khả năng mới ấy trong điều kiện thích hợp lại chuyển hóa thành hiện thực, tạo thành quá trình vô tận; do vậy, sau khi đã xác định được các khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng, thì mới nên tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng. Thứ ba, trong quá trình thực hiện khả năng đã lựa chọn, cần chú ý là trong một sự vật, hiện tượng có thể chứa nhiều khả năng khác nhau, do vậy cần tính đến mọi khả năng để dự kiến các phương án thích hợp cho từng trường hợp có thể xẩy ra. Thứ tư , cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại một số khả năng và ngoài một số khả năng vốn có, thì khi có điều kiện mới bổ sung, ở sự vật, hiện tượng sẽ xuất hiện thêm một số khả năng mới dẫn đến sự xuất hiện một sự vật, hiện tượng mới, phức tạp hơn. Thứ năm, khả năng chỉ chuyển hóa thành hiện thực khi có đầy đủ các điều kiện cần thiết nên cần tạo ra các điều kiện đó để nó chuyển hóa thành hiện thực. Cần tránh sai lầm, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường vai trò ấy trong quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực.

CÂU 10: QUY LUẬT LƯỢNG - CHẤT

Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, sự vật hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định.

Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan:

Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính. Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng;

luật xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người; do vậy, khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan. Thứ tư , quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng

CÂU 11: QUY LUẬT MÂU THUẪN

Vai trò quy luật thống nhất và đấu tranh

Quy luật thống nhất và đấu tranh là hạt nhân của phép biện chứng duy vật bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất là nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển.

Nội dung của quy luật này được vạch mở thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù liên quan:

Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể hiện ở. Thứ nhất , các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì không có mặt kia; thứ hai , các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn; thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau.

Ví dụ : Trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.

Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng; còn đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng.

Ví dụ: về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập được thể hiện qua mối quan hệ giữa giai cấp thống trị và bị trị trong xã hội xưa. Họ đối lập với nhau về quyền lợi, ý chí. Hai giai cấp này luôn đấu tranh với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình, luôn luôn tác động đến nhau.

Sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản tác động trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng; nó quy định bản chất, sự phát triển của chúng từ khi hình thành đến lúc tiêu vong. Mâu thuẫn không cơ bản đặc trưng cho một phương diện nào đó, chỉ quy định sự vận động, phát triển của một hay một số mặt của sự vật, hiện tượng và chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản.

Vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu luôn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng, có tác dụng quy định đối với các mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn đó của quá trình phát triển. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng... đối lập nằm trong chính mỗi sự vật, hiện tượng; có vai trò quy định trực tiếp quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chúng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.

Tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa các giai cấp ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội... có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hoà được. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội... có lợi ích cơ bản không đối lập nhau nên là mâu thuẫn cục bộ, tạm thời.

Mối quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát triển. Bởi vậy, sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là tự thân.

Ý nghĩa PPL

Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Thứ hai , hân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó. Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.

Vật chất là gì và ví dụ?

- Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh và nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. - Ví dụ: + Các phương tiện giao thông như xe máy, xe ô tô, tàu hỏa, tàu điện ngầm…

Vật chất bao gồm những gì?

(1) Vật chất bao gồm tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ; bao gồm các thực thể có khối lượng hay không có khối lượng (photon ánh sáng, gluon, tâm hố đen, trường năng lượng của cơ thể con người bao gồm ý thức)... Nếu hiểu vật chất theo nghĩa này thì ý thức cũng là 1 loại vật chất.

Khái niệm chất là gì?

Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác.

Quan niệm vật chất là gì?

Lênin viết: “Vật chất là một phạm trù triết học, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Ở đây cần thấy rằng, phạm trù vật chất là phạm trù trung tâm trong lý luận nhận thức (hiểu theo nghĩa rộng).