Vị dụ về triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan

d. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan

* Thế giới quan

Nhu cầu tự nhiên của con người về mặt nhận thức là muốn hiểu biết đến tận cùng, sâu sắc và toàn diện về mọi hiện tượng, sự vật, quá trình. Nhưng tri thức mà con người và cả loài người ở thời nào cũng lại có hạn, là phần quá nhỏ bé so với thế giới cần nhận thức vô tận bên trong và bên ngoài con người. Đó là tình huống có vấn đề [Problematic Situation] của mọi tranh luận triết học và tôn giáo. Bằng trí tuệ duy lý, kinh nghiệm và sự mẫn cảm của mình, con người buộc phải xác định những quan điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sở để định hướng cho nhận thức và hành động của mình. Đó chính là thế giới quan. Tương tự như các tiên đề, với thế giới quan sự chứng minh nào cũng không đủ căn cứ, trong khi niềm tin lại mách bảo độ tin cậy.

Thế giới quan” là khái niệm có gốc tiếng Đức “Weltanschauung” lần đầu tiên được I.Kant [Cantơ] sử dụng trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán [Kritik der Urteilskraft, 1790] dùng để chỉ thế giới quan sát được với nghĩa là thế giới trong sự cảm nhận của con người. Sau đó, F.Schelling đã bổ sung thêm cho khái niệm này một nội dung quan trọng là, khái niệm thế giới quan luôn có sẵn trong nó một sơ đồ xác định về thế giới, một sơ đồ mà không cần tới một sự giải thích lý thuyết nào cả. Chính theo nghĩa này mà Hêghen đã nói đến “thế giới quan đạo đức”, J.Goethe nói đến “thế giới quan thơ ca”, còn L.Ranke - “thế giới quan tôn giáo”. Kể từ đó, khái niệm thế giới quan như cách hiểu ngày nay đã phổ biến trong tất cả các trường phái triết học.

Khái niệm thế giới quan hiểu một cách ngắn gọn là hệ thống quan điểm của con người về thế giới. Có thể định nghĩa: Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người [bao hàm cả cá nhân, xã hội và nhân loại] trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

Các khái niệm “Bức tranh chung về thế giới”, “Cảm nhận về thế giới”, “Nhận thức chung về cuộc đời”… khá gần gũi với khái niệm thế giới quan. Thế giới quan thường được coi là bao hàm trong nó nhân sinh quan - vì nhân sinh quan là quan niệm của con người về đời sống với các nguyên tắc, thái độ và định hướng giá trị của hoạt động người.

Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng. Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trở thành niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan. Với tính cách là hệ quan điểm chỉ dẫn tư duy và hành động, thế giới quan là phương thức để con người chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế giới quan, con người không có phương hướng hành động.

Trong lịch sử phát triển của tư duy, thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau, nên cũng được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Ngoài ba hình thức chủ yếu này, còn có thể có thế giới quan huyền thoại [mà một trong những hình thức thể hiện tiêu biểu của nó là thần thoại Hy Lạp]; theo những căn cứ phân chia khác, thế giới quan còn được phân loại theo các thời đại, các dân tộc, các tộc người, hoặc thế giới quan kinh nghiệm, thế giới quan thông thường...

Thế giới quan chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng [một cách ý thức hoặc không ý thức] trong mọi ngành khoa học và trong toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.

* Hạt nhân lý luận của thế giới quan

Nói triết học là hạt nhân của thế giới quan, bởi thứ nhất, bản thân triết học chính là thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác như thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, hay các thời đại… triết học bao giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. Thứ ba, với các loại thế giới quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường...triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối, dù có thể không tự giác. Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.

Thế giới quan duy vật biện chứng được coi là đỉnh cao của các loại thế giới quan đã từng có trong lịch sử. Vì thế giới quan này đòi hỏi thế giới phải được xem xét trong dựa trên những nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Từ đây, thế giới và con người được nhận thức và theo quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.

Khi thực hiện chức năng của mình, những quan điểm thế giới quan luôn có xu hướng được lý tưởng hóa, thành những khuôn mẫu văn hóa điều chỉnh hành vi. Ý nghĩa to lớn của thế giới quan thể hiện trước hết là ở điểm này.

Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Bởi lẽ, thứ nhất, những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc thế giới quan. Thứ hai, thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan trọng để xác lập phương thức tư duy hợp lý và nhân sinh quan tích cực trong khám phá và chinh phục thế giới. Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.

Thế giới quan tôn giáo cũng là thế giới quan chung nhất, có ý nghĩa phổ biến đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nhưng do bản chất là đặt niềm tin vào các tín điều, coi tín ngưỡng cao hơn lý trí, phủ nhận tính khách quan của tri thức khoa học, nên không được ứng dụng trong khoa học và thường dẫn đến sai lầm, tiêu cực trong hoạt động thực tiễn. Thế giới quan tôn giáo phù hợp hơn với những trường hợp con người giải thích thất bại của mình. Trên thực tế, cũng không ít nhà khoa học sùng đạo mà vẫn có phát minh, nhưng với những trường hợp này, mọi giải thích bằng nguyên nhân tôn giáo đều không thuyết phục; cần phải lý giải kỹ lưỡng hơn và sâu sắc hơn bằng những nguyên nhân vượt ra ngoài giới hạn của những tín điều.

Không ít người, trong đó có các nhà khoa học chuyên ngành, thường định kiến với triết học, không thừa nhận triết học có ảnh hưởng hay chi phối thế giới quan của mình. Tuy thế, với tính cách là một loại tri thức vĩ mô, giải quyết các vấn đề chung nhất của đời sống, ẩn giấu sâu trong mỗi suy nghĩ và hành vi của con người, nên tư duy triết học lại là một thành tố hữu cơ trong tri thức khoa học cũng như trong tri thức thông thường, là chỗ dựa tiềm thức của kinh nghiệm cá nhân, dù các cá nhân cụ thể có hiểu biết ở trình độ nào và thừa nhận đến đâu vai trò của triết học. Nhà khoa học và cả những người ít học, không có cách nào tránh được việc phải giải quyết các quan hệ ngẫu nhiên - tất yếu hay nhân quả trong hoạt động của họ, cả trong hoạt động khoa học chuyên sâu cũng như trong đời sống thường ngày. Nghĩa là, dù hiểu biết sâu hay nông cạn về triết học, dù yêu thích hay ghét bỏ triết học, con người vẫn bị chi phối bởi triết học, triết học vẫn có mặt trong thế giới quan của mỗi người. Vấn đề chỉ là thứ triết học nào sẽ chi phối con người trong hoạt động của họ, đặc biệt trong những phát minh, sáng tạo hay trong xử lý những tình huống gay cấn của đời sống.

Với các nhà khoa học, Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” đã viết: “Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hóa, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất...Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”.

Như vậy, triết học với tính cách là hạt nhân lý luận, trên thực tế, chi phối mọi thế giới quan, dù người ta có chú ý và thừa nhận điều đó hay không.

Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới khách quan

Vũ Gia Hiền

08:17 SA @ Thứ Sáu - 27 Tháng Mười, 2006

Để tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình, nhưng con người không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến đổi thế giới đó theo những yêu cẩu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người phải hiểu thế giới xung quanh cũng như về chính bản thân con người. Thế giới quanh ta là gì? Nó bắt đầu từ đâu và có kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì, nó được sinh ra như thế nào, quan hệ của nó với bên ngoài ra sao? Nó có thể biết gì và làm gì với thế giới đó? Vì sao có người tốt kẻ xấu? Cuộc sống của con người có ý nghĩa gì, chết là còn hay hết, nếu hết thì sao và nếu còn thì ở đâu?...Những câu hỏi như vậy luôn được đặt ra ở mức độ khác nhau đối với con người từ thời nguyên thủy cho đến ngày nay và cả mai sau. Như vậy, sự khách quancũng mang trongnó sự tồn tại thích nghi giữa tự nhiên, xãhội, không gian và thời gian.

Đặc tính của tư duy con người là muốn biết tận cùng, hoàn toàn đầy đủ, nhưng tri thức mà con người và cả loài người có được luôn luôn có hạn, trong khi thế giới thì vô hạn. Phải chăng đó là mấu chất của sự tranh luận mãi mà không đi đến nhất quán, buộc con người phải tin vào một cái gì đó, vật chất hay tinh thần?

Quá trình tìm tòi giải đáp những câu hỏi như trên đã hình thành ở con người -những quan niệm nhất định, trong đó những yếu tố về đức tin, niềm vui, cảm xúc, trí tuệ, tri thức...hòa quyện với nhau trong một khối thống nhất. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song, tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự thể nghiệm lâu dài trong cuộc sống của nó. Sự hình thành đức tin là do mơ ước về một cội nguồn, còn sự hình thành lý tưởng là trình độ phát triển cao của trí tuệ nhìn nhận về thế giới quan.

Toàn bộ những quan niệm về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân.'và cuộc sống [sống và chết] của con người và loài người hợp thành thế giới quan của một con người, một cộng đồng người trong mỗi thời đại nhất định. Như vậy, thế giới quan bao hàm nguồn gốc con người, mối quan hệ của con người, tức là nhân sinh quan và toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người, loài người sinh ra con người.

Tin vào nguồn gốc phát sinh ra con người từ đức tin là phương pháp cảm nhận thế giới rất đặc trưng của logic hệ thống đơn giản, có từ "tư duy nguyên thủy", đó là hình thái biểu hiện một cách tập trung và khái quát thế giới quan của hệ thống logic tình cảm, có từ khi con người xuất hiện. Trong những câu chuyện xưa kia viết lại về nguồn gốc loài người chứa đựng những yếu tố tri thức và xúc cảm, logic và lý trí sơ khai, hiện thực và mơ ước, cái có thật và văn chương... hòa quyện vào nhau, diễn tả thế giới quan bằng hệ thống ngôn ngữ dân gian cho cả một cộng đồng người, một dân tộc:

Trí tuệ của con người ngày càng tiến bộ cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp của hoạt động thực tiễn, tính tích cực của tư duy con người đạt bước chuyển biến mang tính cách mạng khoa học nhờ xuất hiện các công cụ thực nghiệm nối dài tầm với của giác quan vào nhận thức thế giới. Con người bước đầu có ý thức về mình như một thực thể tách khỏi tự nhiên, tư duy con người hướng sự "phản tư" [tiếng Hy Lạp: reflxio nghĩa là suy ngẫm, đánh giá] vào chính hoạt động của bản thân mình, từ đó một phương thức mới của tư duy để nhận thức thế giới được hình thành - tư duy triết học. Khác với thần học, huyền thoại, văn chương, triết học diễn tả thế giới quan của con người dưới dạng xây dựng khái niệm, hệ thống các phạm trù, tiên đề. Các quy luật, hệ thống mô hình vận động của triết học đóng vai trò như những bậc thang giá trị trong quá trình nhận thức thế giới. Trong thần học, yếu tố đức tin là biểu tượng đóng vai trò chủ đạo; còn trong triết học thì tư duy, lý luận là yếu tố chủ đạo. Với ý nghĩa như vậy, triết học được xem như là nhà phẫu thuật trong quá trình khám phá thế giới, là học thuyết về sự khám phá đó, là thế giới quan. Đương nhiên, thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người và xã hội loài người, song, bản thân nó phải chấp nhận một tiên đề là sự "khoanh vùng" của tư duy là một giới hạn khoa học để xác định con người và vũ trụ. Tri thức do các khoa học cụ thể đưa lại là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới theo tri thức triết học. Với những phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan điểm chung nhất về thế giới theo một tiên đề hay như một chỉnh thể, trong đó có con người và mối quan hệ của nó với thế giới chung quanh cũng như thế giới chung quanh với con người và con người với con người.

Như vậy, triết học là nhận thức có tính hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Có nghĩa là, triết họe là thế giới quan và nhân sinh quan của con người khi xem xét thế giới và loài người trong mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, giữa con người với con người trong tự nhiên và xã hội.

Nguồn:Triết học từ góc độ biện chứng duy vật, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội

LinkedInPinterestCập nhật lúc:07:52 CH @ 07/09/2008

Video liên quan

Chủ Đề