Vi phạm nghiêm trọng thủ tục to tụng là gì

Trong thời hạn quyết định việc truy tố hoặc chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát, Tòa án phải nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án nhằm kịp thời phát hiện các trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung và ra ngay quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Thông tư liên tịch số: 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 [có hiệu lực ngày 06/02/2018] đã quy định cụ thể việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Theo đó, một trong những nội dung mà Thông tư liên tịch 02/2017 đề cập đến đó là việc phối hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp “khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng” [quy định tại điểm d khoản 1 Điều 245 và điểm d khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015]. Vậy, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng bao gồm những trường hợp cụ thể nào, để căn cứ vào đó mà Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung?  Theo quy định tại Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2017, khi phát hiện vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung: - Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền; - Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; - Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ; - Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; - Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; - Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác; - Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo [tuổi, tiền án, tiền sự], lý lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội [tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại]; - Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; - Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; - Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự; - Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; - Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án; - Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật; - Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật; - Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ; - Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, nếu có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng [như đã nêu trên], nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; hoặc người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng khi thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì họ đã đủ 18 tuổi thì Viện kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Tác giả bài viết: Hoài Thương

Nguồn tin: VKS ND TP Cần Thơ

Quy định của BLTTHS về thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên khi tiến hành tố tụng

BLTTHS quy định nếu có căn cứ để cho rằng Điều tra viên không vô tư khách quan khi thực hiện nhiệm vụ thì họ phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Việc thay đổi Điều tra viên được quy định tại Điều 51 BLTTHS như sau:

“1. Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:

a] Trường hợp quy định tại Điều 49 của Bộ luật này;

b] Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án.

2. Việc thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra do Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra quyết định.

Điều tra viên bị thay đổi là Thủ trưởng Cơ quan điều tra thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì việc điều tra vụ án do Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp tiến hành.”.

Còn việc thay đổi Kiểm sát viên được quy định tại Điều 52 BLTTHS như sau:

“1. Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:

a] Trường hợp quy định tại Điều 49 của Bộ luật này;

b] Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án.

2. Việc thay đổi Kiểm sát viên trước khi mở phiên tòa do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp được phân công giải quyết vụ án quyết định.

Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.

Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa.”.

Như vậy có thể thấy, trong tố tụng hình sự, Điều tra viên có vai trò rất quan trọng trong việc thu thập, xác minh chứng cứ, tiến hành các hoạt động điều tra nhằm xác định sự thật của vụ án, những chứng cứ buộc tội hoặc gỡ tội của bị can, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can; còn Kiểm sát viên là người thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, việc đảm bảo tính khách quan, vô tư của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Nếu họ không vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ thì hồ sơ vụ án có thể bị làm sai lệch, dẫn đến xử lý người phạm tội không chính xác, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của những người tham gia tố tụng không được bảo đảm, kẻ có tội không được trừng trị, người vô tội bị kết án oan…

Để bảo đảm sự vô tư, khách quan của người tiến hành tố tụng, BLTTHS đã có những quy định chặt chẽ về việc thay đổi người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, trong trong những trường hợp như: Hủy án để điều tra lại; hồ sơ để điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng… thì việc thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tiến hành tố tụng trước đó hay không lại chưa được quy định cụ thể. Thực tế thi hành đã phát sinh những vướng mắc, bất cập, cụ thể:

Trường hợp án bị hủy để điều tra lại

Theo quy định của Điều 53 và Điều 54 BLTTHS, khi bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm bị hủy để điều tra lại thì khi xét xử sơ thẩm lại Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đều bị thay đổi. Tuy nhiên, trên thực tế và quy định của BLTTHS, khi một vụ án bị hủy để điều tra lại thì Điều tra viên và Kiểm sát viên đã điều tra, kiểm sát điều tra hoặc thực hành quyền công tố vụ án đó lại không bắt buộc phải thay đổi.

Còn trong quy định tại khoản 1 Điều 51 và quy định tại khoản 1 Điều 52 BLTTHS không đặt ra vấn đề phải thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên khi án bị hủy để điều tra lại. Thực tiễn, nhiều trường hợp sau khi vụ án bị hủy để điều tra lại, người phạm tội, người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án yêu cầu thay đổi Điều tra viên và Kiểm sát viên nhưng không được Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát chấp nhận bởi vì lý do là pháp luật không cấm, cũng như không có quy định  Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng vụ án bị hủy đó phải bị thay đổi.

Mặt khác, việc để Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tiến hành tố tụng vụ án bị hủy đó tiếp tục tiến hành tố tụng sẽ thuận lợi hơn vì họ đã nắm chắc các tình tiết của vụ án nên việc điều tra lại hay kiểm sát điều tra lại sẽ không mất nhiều công sức bằng việc thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng đều không muốn như vậy, bởi vì nếu để những Điều tra viên, Kiểm sát viên cũ tiếp tục tiến hành tố tụng thì những nhận định của họ sẽ không được khách quan. Thực tiễn, nhiều vụ án có dấu hiệu oan sai, thay vì tuyên bị cáo không phạm tội, Tòa án cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm lại tuyên hủy án để điều tra lại, và khi không thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tiến hành tố tụng trước đó, dẫn tới việc giải quyết vụ án không được khách quan, làm phát sinh phản ứng tiêu cực của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Đã có trường hợp, Bị cáo A bị Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Y xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tại khoản 3 Điều 260 BLHS 2015. Sau khi bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện X bị hủy để điều tra lại, tại phiên tòa sơ thẩm xét xử lại, do yêu cầu thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên không được chấp nhận nên mỗi khi Kiểm sát viên đặt câu hỏi, bị cáo A phản ứng bằng cách không trả lời. Nhưng cũng với những câu hỏi đó khi chủ tọa phiên tòa đặt câu hỏi lại thì bị cáo A lại trả lời rành mạch, rõ ràng.

Bên cạnh đó, việc thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên trong trường hợp này không giống như việc thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên theo quy định tại khoản 3 Điều 49 BLTTHS. “Căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ” theo khoản 3 Điều 49 là những căn cứ về mối quan hệ mật thiết giữa người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với những người có lợi ích trong vụ án đó như quan hệ về công vụ, kinh tế… thậm chí có mâu thuẫn nghiêm trọng với người đó. Như những trường hợp Điều tra viên một vụ án cướp tài sản mà người bị hại là thầy giáo đã dạy Điều tra viên đó; Thẩm phán xét xử vụ án tham ô tài sản mà bị cáo là em ruột của vợ…

Do vậy, theo tác giả, việc quy định phải thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên trong trường hợp hủy án để điều tra lại là hết sức cần thiết để bảo đảm tính khách quan của vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

Thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên trong trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS. Điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS quy định vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được như sau:

“Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác điịnh sự thật khách quan , toàn diện của vụ án”.

Như vậy, khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung do việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì việc thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên điều tra, kiểm sát điều tra hoặc Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vụ án không được quy định trong BLTTHS. Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS 2015 về trả hồ sơ điều tra bổ sung cũng không quy định việc phải thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Tuy nhiên, trong thực tiễn, đây là vấn đề tồn tại gây khá nhiều bức xúc trong dư luận. Có vụ án Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung, sau đó tạm đình chỉ vụ án hoặc vì năng lực, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên yếu kém nhưng không thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên dẫn đến vụ án kéo dài, hồ sơ trả đi trả lại nhiều lần không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng, mà còn gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng….

Từ những phân tích trên, để hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như bảo đảm sự khách quan trong hoạt động tố tụng giải quyết vụ án, tác giả kiến nghị bổ sung vào quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 52 BLTTHS về thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên như sau:

Bổ sung thêm quy định thay đổi Điều tra viên tra trong trường hợp án bị hủy để điều tra lại, Viện kiểm sát hoặc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vào khoản 1, Điều 51 BLTTHS 2015 như sau:

“1. Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:

a] Trường hợp quy định tại Điều 49 của Bộ luật này;

b] Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án;

c, Tòa án hủy án để điều tra lại, Viện kiểm sát hoặc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”.

Bổ sung thêm quy định thay đổi Kiểm sát viên trong trường hợp án bị hủy để điều tra lại, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vào khoản 1, Điều 52 BLTTHS 2015. Khoản 1 Điều 52 quy định về thay đổi Kiểm sát viên, Kiểm tra viên như sau:

“1. Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:

a] Trường hợp quy định tại Điều 49 của Bộ luật này;

b] Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án.

c, Tòa án hủy án để điều tra lại, trả hồ sơ điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”./.

Theo kiemsat.vn

TAND thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước xét xử vụ án trộm cắp tài sản – Ảnh: Mỹ Nương

Video liên quan

Chủ Đề