Vì sao triều hán tồn tại được trong thời gian lâu dài

Mục lục

  • 1 Từ nguyên
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Tây Hán
    • 2.2 Triều đại của Vương Mãng và nội chiến
    • 2.3 Đông Hán
    • 2.4 Nhà Hán diệt vong
  • 3 Văn hóa và xã hội
    • 3.1 Tầng lớp xã hội
    • 3.2 Hôn nhân, giới tính và quan hệ máu mủ
    • 3.3 Giáo dục, văn học và triết học
    • 3.4 Pháp luật và trật tự
    • 3.5 Thực phẩm
    • 3.6 Quần áo
    • 3.7 Tôn giáo, vũ trụ học và siêu hình học
  • 4 Chính quyền và chính trị
    • 4.1 Chính quyền trung ương
    • 4.2 Chính quyền địa phương
    • 4.3 Vương quốc và hầu quốc
    • 4.4 Quân đội
  • 5 Kinh tế
    • 5.1 Tiền tệ
    • 5.2 Thuế và tài sản
    • 5.3 Sản xuất tư nhân và độc quyền chính phủ
  • 6 Khoa học và công nghệ
    • 6.1 Vật liệu viết
    • 6.2 Luyện kim và nông nghiệp
    • 6.3 Công trình kết cấu và địa kỹ thuật
    • 6.4 Cơ khí và thủy lực
    • 6.5 Toán học
    • 6.6 Thiên văn học
    • 6.7 Bản đồ, tàu thuyền và phương tiện
    • 6.8 Y học
  • 7 Xem thêm
  • 8 Tham khảo
    • 8.1 Chú thích
    • 8.2 Thư mục
  • 9 Đọc thêm
  • 10 Liên kết ngoài

Từ nguyênSửa đổi

Theo Sử ký, sau khi nhà Tần sụp đổ, bá vương Hạng Vũ phong cho Lưu Bang làm vương của vùng đất phong nhỏ Hán Trung được đặt tên theo địa thế ven sông Hán. Về sau, Lưu Bang giành chiến thắng Chiến tranh Hán – Sở, thành lập và đặt tên triều đại mới theo tên vùng đất phong Hán Trung.[7]

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử nhà Hán

Xem thêm thông tin: Niên biểu nhà Hán

Tây HánSửa đổi

Xem thêm: Chiến tranh Hán – Hung Nô và Mở rộng về phía nam của nhà Hán

Xem thêm thông tin: Lâu Lan, Sơ Lặc, Vu Điền, Saka, và Tochari

Hoàng triều đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc là nhà Tần [221 TCN – 207 TCN]. Dù đã chinh phục và thống nhất toàn bộ quốc gia thời Chiến quốc, nhà Tần lâm vào tình trạng bất ổn chính trị ngay sau cái chết của vị hoàng đế đầu tiên Tần Thủy Hoàng. Chỉ trong vòng bốn năm, quyền lực hoàng triều tiêu tan trước áp lực từ nhiều cuộc nổi loạn.[8] Hai nhà cựu lãnh đạo phiến quân là Sở vương Hạng Vũ và Hán vương Lưu Bang, bước vào một cuộc chiến phân định xem ai sẽ là người làm chủ Trung Quốc, giờ đây đã chia thành 18 tiểu quốc đều tuyên bố trung thành với Hạng Vũ hoặc Lưu Bang.[9] Mặc dù tự khẳng định bản thân là một nhà chỉ huy tài ba, Hạng Vũ vẫn bị Lưu Bang đánh bại tại Trận Cai Hạ vào năm 202 TCN. Theo lời thúc giục của bề tôi, Lưu Bang xưng hiệu "hoàng đế", trở thành Hán Cao Tổ [trị. 202 TCN – 195 TCN].[10] Trường An được chọn làm kinh đô mới của Đế quốc Hán thống nhất.[11]

Đầu thời Tây Hán, một phần ba lãnh thổ đế quốc ở phía tây chia thành 13 quận do trung ương trực tiếp quản lý. Trong khi đó, hai phần ba lãnh thổ đế quốc ở phía đông chia thành 10 vương quốc bán tự trị.[12] Để phủ dụ các tướng lĩnh chiến hữu từng cùng chiến đấu với nước Sở, Hán Cao Tổ phong vương cho một vài người trong số họ.

Đến năm 196 TCN, triều đình nhà Hán thay thế gần như tất cả vị vương trên khắp đế quốc [trừ Trường Sa] bằng các hoàng thân họ Lưu, vì ngờ vực lòng trung thành của những người không mang trong mình dòng máu hoàng gia.[12] Sau một số cuộc nổi loạn của các vị vương – lớn nhất là Loạn bảy nước – triều đình ban hành hàng loạt cải cách bắt đầu từ năm 145 TCN, nhằm hạn chế quy mô và quyền lực của các vương quốc bán tự trị, chia chúng thành nhiều quận mới do trung ương kiểm soát.[13] Các vị vương bị tước quyền tự bổ nhiệm nhân sự, nhiệm vụ này sẽ do triều đình đảm nhận.[14][15] Trên danh nghĩa, họ là người đứng đầu vùng đất phong của riêng mình, biến một phần thuế thu trong lãnh địa thành thu nhập cá nhân.[14][15] Các vương quốc không bao giờ bị xóa bỏ hoàn toàn và tiếp tục tồn tại trong suốt phần còn lại của hai thời kỳ Tây Hán và Đông Hán.[16]

Phía bắc Trung Quốc bản thổ, thủ lĩnh du mục Hung Nô Thiền vu Mặc Đốn chinh phục nhiều bộ lạc khác nhau sinh sống ở phần phía đông Thảo nguyên Á – Âu. Cuối thời trị vì, Mặc Đốn đã kiểm soát Mãn Châu, Mông Cổ và Lòng chảo Tarim, khuất phục hơn 20 nhà nước phía đông Samarkand.[17][18] Gặp rắc rối khi dân Hán ở biên cương phía bắc trao đổi ồ ạt vũ khí sắt với Hung Nô, Hán Cao Tổ ban bố một lệnh cấm vận trừng phạt Hung Nô.[19]

Để trả đũa, Hung Nô xâm lược vùng đất mà ngày nay là tỉnh Sơn Tây, đánh bại người Hán tại Trận Bạch Đăng vào năm 200 TCN.[19][20] Sau khi đàm phán, thỏa thuận hòa thân năm 198 TCN trên danh nghĩa đã biến các nhà lãnh đạo Hung Nô và Hán thành những đối tác bình đẳng trong một liên minh hôn nhân hoàng gia. Tuy nhiên, nhà Hán vẫn buộc phải triều cống một lượng lớn cống phẩm như quần áo lụa, thực phẩm và rượu cho Hung Nô.[21][22]

Hán Vũ Đế [trị. 141 TCN – 87 TCN]

Dù nhà Hán chấp nhận triều cống và Hán Văn Đế [trị. 180 TCN – 157 TCN] cùng Thiền vu Lão Thượng đã tiến hành đàm phán mở thị trường biên giới, nhiều bề tôi thiền vu Hung Nô vẫn bất tuân hiệp ước và đột kích định kỳ lãnh thổ nhà Hán ở phía nam Vạn lý Trường thành để lấy thêm hàng hóa.[23][24] Trong một đình nghị do Hán Vũ Đế [trị. 141 TCN – 87 TCN] triệu tập vào năm 135 TCN, đa số đại thần đồng thuận duy trì thỏa thuận hòa thân. Hán Vũ Đế chấp thuận, bất chấp việc Hung Nô vẫn tiếp tục đột kích.[25][26]

Tuy nhiên, trong đình nghị một năm sau đó, đa số đại thần tin rằng một cuộc giao tranh hạn chế tại Mã Ấp liên quan tới kế hoạch thích sát thiền vu Hung Nô, sẽ đẩy liên minh Hung Nô vào cảnh hỗn loạn và mang lại lợi ích cho nhà Hán.[27][28] Khi kế hoạch kể trên thất bại,[29] Hán Vũ Đế quyết định phát động một cuộc xâm lược quân sự quy mô lớn vào lãnh thổ Hung Nô. Đỉnh điểm là vào năm 119 TCN, trong Trận Mạc Bắc, hai tướng Hán là Hoắc Khứ Bệnh và Vệ Thanh đã buộc triều đình Hung Nô phải tháo chạy về phía bắc Sa mạc Gobi.[30][31]

Sau thời Hán Vũ Đế, nhà Hán tiếp tục chiếm ưu thế trước Hung Nô. Thiền vu Hô Hàn Tà chấp nhận để Hung Nô trở thành nước chư hầu triều cống, thần phục nhà Hán. Đối thủ tranh đoạt ngai vị với ông, Thiền vu Chất Chi, bị Trần Thang và Cam Diên Thọ lấy mạng trong Trận Chất Chi, ở Taraz, Kazakhstan hiện đại.[32][33]

Năm 121 TCN, người Hán trục xuất Hung Nô khỏi một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài từ Hành lang Hà Tây tới La Bố Bạc. Năm 111 TCN, cũng tại vùng lãnh thổ phía tây bắc này, nhà Hán đẩy lùi một cuộc xâm lược chung Khương – Hung Nô rồi cho thành lập bốn quận vùng biên mới: Tửu Tuyền, Trương Dịch, Đôn Hoàng và Vũ Uy.[34][35] Phần lớn người sống ở vùng biên cương đều là binh lính.[36] Đôi khi, triều đình cưỡng ép nông dân tá điền đến sống ở các khu định cư biên cương mới, cùng với những nô lệ thuộc sở hữu chính quyền và cả tù nhân khổ sai.[37] Triều đình cũng khuyến khích dân thường – nông dân, thương nhân, điền chủ và người làm thuê – tự nguyện di cư đến vùng biên cương.[38]

Bản đồ sơ lược các chiến dịch chinh phạt của nhà Hán trong thế kỷ thứ 2 TCN

Trước khi nhà Hán bành trướng sang Trung Á, những chuyến công du của nhà ngoại giao Trương Khiên từ năm 139 TCN đến năm 125 TCN đã thiết lập mối liên hệ giữa Trung Quốc với nhiều nền văn minh chung quanh. Trương Khiên từng đi qua Đại Uyên, Khang Cư và Đại Hạ [trước đây là Vương quốc Hy Lạp – Bactria]. Ông còn tổng hợp thêm thông tin về Thiên Trúc và Đế quốc Parthia. Tất cả những quốc gia này đều tiếp nhận sứ thần nhà Hán.[39][40][41] Những mối liên kết kể trên đánh dấu sự khởi đầu của mạng lưới thương mại Con đường Tơ lụa trải dài tới tận Đế quốc La Mã, đưa các loại mặt hàng Trung Quốc như tơ lụa đến La Mã và các loại mặt hàng La Mã như đồ thủy tinh đến Trung Quốc.[42][43]

Từ khoảng năm 115 TCN đến năm 60 TCN, nhà Hán giao chiến với Hung Nô để chiếm quyền kiểm soát các thành bang ốc đảo ở Lòng chảo Tarim. Năm 60 TCN, nhà Hán giành chiến thắng chung cuộc và thành lập Tây Vực đô hộ phủ, nơi giải quyết các vấn đề quốc phòng và đối ngoại trong khu vực.[44][45] Nhà Hán cũng rất tích cực mở mang bờ cõi về phía nam. Cuộc chinh phục Nam Việt vào năm 111 TCN đã mở rộng lãnh thổ nhà Hán bao trùm những vùng đất mà ngày nay là Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc bộ Việt Nam. Vân Nam trở thành một phần lãnh thổ nhà Hán sau cuộc chinh phục Vương quốc Điền năm 109 TCN. Tiếp đó, vào năm 108 TCN, nhà Hán sáp nhập vài phần Bán đảo Cao Ly sau khi chiến thắng Chiến tranh Hán – Triều Tiên và thành lập hai quận thuộc địa Huyền Thố và Lạc Lãng.[46][47] Trong cuộc điều tra dân số toàn quốc đầu tiên tại Trung Quốc, có 57.671.400 cá nhân được ghi danh trong 12.336.470 hộ gia đình.[3]

Để chi trả cho các chiến dịch quân sự và hoạt động mở rộng thuộc địa, Hán Vũ Đế đã quốc hữu hóa một số ngành công nghiệp tư nhân. Ông tạo ra các công ty độc quyền nhà nước do cựu thương nhân quản lý. Chính quyền độc quyền sản xuất muối, sắt và rượu, cũng như độc quyền phát hành tiền xu đồng. Chính sách độc quyền rượu chỉ kéo dài từ năm 98 TCN đến năm 81 TCN, chính sách độc quyền muối và sắt thì hoàn toàn bị bãi bỏ vào đầu thời Đông Hán. Trong khi đó, chính quyền vẫn duy trì độc quyền phát hành tiền xu cho tới cuối triều đại.[48][49][50]

Các chính sách độc quyền chính phủ bị bãi bỏ khi phái cải cách giành được thêm ảnh hưởng trong triều đình. Họ thống trị triều chính thời Hán Vũ Đế và trong những năm phụ chính sau đó của Hoắc Quang. Đối lập với phái cải cách, phái hiện đại ủng hộ một chính sách đối ngoại táo bạo và mang tính bành trướng, được tài trợ bởi nguồn thu có được nhờ sự can thiệp sâu của chính quyền vào kinh tế tư nhân.[51][52]

Triều đại của Vương Mãng và nội chiếnSửa đổi

Bài chi tiết: Vương Mãng và Nhà Tân

Vương Chính Quân lần lượt làm hoàng hậu, hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu thời Hán Nguyên Đế [trị. 49 TCN – 33 TCN], Hán Thành Đế [trị. 33 TCN – 7 TCN] và Hán Ai Đế [trị. 7 TCN – 1 TCN].[53][54] Sau khi Hán Ai Đế băng hà, Vương Mãng, cháu trai Vương Chính Quân, được bổ nhiệm làm đại thần phụ chính cho Hán Bình Đế [trị. 1 TCN – 5] vào ngày 16 tháng 8 năm 1.[55]

Ảnh bên trái: Bình sứ hoa văn thời Tây Hán với phù điêu rồng, phượng và thao thiết
Ảnh bên phải: Mặt sau của một chiếc gương đồng thời Tây Hán có trang trí hoa văn

Ngày 3 tháng 2 năm 6, Hán Bình Đế qua đời, Nhũ Tử Anh trở thành người thừa kế ngai vàng còn Vương Mãng được phong làm Giả hoàng đế, nhiếp chính thay cho tiểu hoàng đế. Vương Mãng hứa sẽ trả lại quyền kiểm soát triều đình cho Tử Anh khi cậu bé đủ lớn.[55] Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, ông thất hứa rồi đàn áp các cuộc nổi loạn phản đối của giới quý tộc. Ngày 10 tháng 1 năm 9, Vương Mãng tuyên bố nhà Hán không còn giữ Thiên mệnh và đã tới hồi diệt vong, nhường chỗ cho triều đại mới của chính mình: nhà Tân [9 – 23].[56][57]

Vương Mãng khởi xướng một loạt cải cách lớn song hầu hết đều thất bại. Chúng bao gồm việc chấm dứt chế độ mua bán nô lệ, quốc hữu hóa đất đai rồi tái phân phối bình quân cho từng hộ gia đình và giới thiệu thêm các loại tiền tệ mới, làm giảm giá trị tiền xu.[58][59] Dù cho loạt cải cách gây ra làn sóng phản đối đáng kể nhưng những trận lũ lụt lớn từ năm 3 tới năm 11 mới là nguyên nhân chính khiến chế độ của Vương Mãng sụp đổ. Lượng phù sa tích tụ lâu ngày đẩy mực nước sông Hoàng Hà dâng cao, chôn vùi các công trình kiểm soát lũ lụt. Sông Hoàng Hà chia làm hai nhánh mới: một nhánh đổ về phía bắc, một nhánh đổ ra Bán đảo Sơn Đông ở phía nam. Mãi tới năm 70, các kỹ sư người Hán mới có thể xây đập cho nhánh sông phía nam.[60][61]

Lũ lụt cướp đi sinh mạng của hàng ngàn nông dân, nhiều nông dân buộc phải tham gia các nhóm thổ phỉ hay nghĩa quân như Xích Mi để sống sót.[60][61] Quân đội dưới quyền Vương Mãng hoàn toàn không đủ khả năng dập tắt phong trào khởi nghĩa đang ngày càng lan rộng. Cuối cùng, một toán nghĩa quân đông đảo tiến vào Vị Ương cung và giết chết Vương Mãng.[62][63]

Hán Canh Thủy Đế [trị. 25 – 27], hậu duệ của Hán Cảnh Đế [trị. 157 TCN – 141 TCN], cố gắng trung hưng nhà Hán và định đô tại Trường An. Tuy nhiên, quân Xích Mi sớm hạ bệ, ám sát Hán Canh Thủy Đế và thay thế ông bằng quân chủ bù nhìn Lưu Bồn Tử.[64][65] Lưu Tú, em họ xa của Hán Canh Thủy Đế, sau khi xác lập được vị thế trong Trận Côn Dương, được bề tôi thúc dục kế vị ngai vàng.[66][67]

Đế quốc Hán đã thực sự phục hưng nhờ Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú [25 – 57]. Năm 25, Hán Quang Vũ Đế chọn Lạc Dương làm kinh đô. Năm 27, hai đại tướng của ông là Đặng Vũ và Phùng Dị buộc quân Xích Mi đầu hàng và xử tử chủ tướng của họ vì tội phản quốc. [67][68]Từ năm 26 đến năm 36, Hán Quang Vũ Đế tiếp tục giao chiến với các lãnh chúa tự xưng hoàng đế. Khi toàn bộ lãnh chúa đều đã bị đánh bại, Trung Quốc lại một lần nữa thống nhất dưới lá cờ nhà Hán.[69][70]

Thời kỳ kể từ khi nhà Hán thành lập tới khi Vương Mãng soán ngôi gọi là Tây Hán hoặc Tiền Hán [206 TCN – 9]. Kinh đô Tây Hán là Trường An. Thời kỳ kể từ khi Hán Quang Vũ Đế lên ngôi tới khi nhà Hán sụp đổ gọi là Đông Hán hoặc Hậu Hán [25 – 220], kinh đô dời về Lạc Dương.[71]

Đông HánSửa đổi

Các lãnh chúa và lực lượng nông dân cát cứ đầu thời Đông Hán

Ngày 5 tháng 8 năm 25, Hán Quang Vũ Đế lên ngôi hoàng đế, khởi đầu thời Đông Hán [25 – 220].[72] Suốt thời gian hoàng quyền Vương Mãng lung lay, Cao Câu Ly tự do đột kích bốn quận thuộc địa nhà Hán trên Bán đảo Cao Ly. Tới năm 30, nhà Hán mới tái khẳng định được quyền kiểm soát khu vực này.[73]

Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống nhà Hán ở Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này bị tướng Hán Mã Viện dập tắt trong một chiến dịch năm 42 – 43.[74] Vương Mãng tái thiết lập thái độ thù địch với người Hung Nô. Nhà Hán tiếp tục lạnh nhạt với Hung Nô cho tới khi thủ lĩnh Hung Nô là Bỉ, đối thủ tranh chấp ngai vị với em họ Bồ Nô, đồng ý trở thành chư hầu triều cống vào năm 50. Điều này khiến Hung Nô bị chia thành hai liên minh đối địch nhau: Nam Hung Nô do Bỉ lãnh đạo, đồng minh của nhà Hán, và Bắc Hung Nô do Bồ Nô lãnh đạo, xem nhà Hán là kẻ thù.[75][76]

Thời Vương Mãng, Trung Quốc cũng đánh mất quyền kiểm soát Lòng chảo Tarim. Năm 63, Bắc Hung Nô chinh phục Lòng chảo Tarim, dùng đây làm căn cứ địa tấn công Hành lang Hà Tây ở Cam Túc.[77] Năm 73, trong Trận Y Ngô Lư, Đậu Cố đánh bại Bắc Hung Nô. Ông ép người Hung Nô tháo chạy khỏi Thổ Lỗ Phiên và truy đuổi họ tới tận hồ Ba Lý Khôn trước khi cắm một đơn vị đồn trú tại Cáp Mật.[78] Sau khi Tây Vực đô hộ Trần Mục bị đồng minh Hung Nô ở Yên Kỳ và Quy Từ giết, đơn vị đồn trú tại Cáp Mật cũng rút lui.[79]

Năm 89, trong Trận Altai, Đậu Hiến đánh bại thiền vu Bắc Hung Nô, buộc ông ta tháo chạy tới dãy núi Altai.[80] Sau khi Bắc Hung Nô dời đến lưu vực sông Y Lê vào năm 91, người du mục Tiên Ti liền chiếm đóng vùng lãnh thổ trải dài từ biên giới Vương quốc Phù Dư ở Mãn Châu đến sông Y Lê của người Ô Tôn.[81] Lãnh thổ của người Tiên Ti bành trướng cực đại dưới thời Đàn Thạch Hòe, người liên tục đánh bại quân đội nhà Hán. Tuy nhiên, liên minh của Đàn Thạch Hòe sớm tan rã ngay sau khi ông qua đời.[82]

Ban Siêu tranh thủ sự trợ giúp từ Đế quốc Quý Sương, chiếm đóng khu vực mà ngày nay là Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan và Tajikistan hòng khuất phục Khách Thập và đồng minh Túc Đặc.[83] Tuy nhiên, khi nhà Hán từ chối yêu cầu thành lập liên minh hôn nhân vào năm 90, nhà cai trị Quý Sương Vima Kadphises liền điều quân tới Wakhan [Afghanistan] tấn công Ban Siêu. Xung đột kết thúc khi quân Quý Sương buộc phải rút lui vì thiếu nhu yếu phẩm.[83] Năm 91, chức Tây Vực đô hộ được tái lập và do chính Ban Siêu đảm nhiệm.[84]

Chữ khắc Đông Hán khắc trên một thỏi chì, dùng chữ Hy Lạp thôi lối Quý Sương, được khai quật ở Thiểm Tây, thế kỷ 1 – 2.[85]

Một mũi tên thời Tây Hán

Trong số du khách nước ngoài đến Đông Hán có nhiều nhà sư biên dịch kinh Phật như An Thế Cao từ Parthia và Lâu-ca-sấm từ Càn-đà-la, Ấn Độ.[86] Ngoài nhận cống phẩm từ Quý Sương, Đế quốc Hán còn từng nhận quà từ Parthia, một vị vua Miến Điện và một nhà cai trị Nhật Bản. Năm 97, triều đình nhà Hán thử phái sứ giả Cam Anh tới Roma song không thành công.[87][88]

Ngụy lược và Hậu Hán thư đều ghi chép về một sứ đoàn thừa mệnh hoàng đế Marcus Arelius, tiếp cận triều đình Hán Hoàn Đế [trị. 146 – 167] vào năm 166.[89] Tuy nhiên, Rafe de Crespgny lại khẳng định rằng sứ đoàn được đề cập trong hai tài liệu trên có thể chỉ là một nhóm thương nhân La Mã mà thôi.[90] Ngoài đồ thủy tinh và tiền xu La Mã ở Trung Quốc,[91] người ta còn tìm thấy huy chương La Mã từ thời Antonius Pius và Marcus Aurelius ở Óc Eo, Việt Nam.[92] Óc Eo nằm gần quận Nhật Nam [hay Giao Chỉ], nơi các nguồn Trung Quốc khẳng định là địa điểm đầu tiên mà người La Mã và một phái đoàn Thiên Trúc đặt chân khi đến nhà Hán vào hai năm 159 và 161.[93] Ngoài ra, Óc Eo cũng được cho là thành phố cảng "Cattigara" mà Ptolemaeus đã mô tả trong Geographia, nằm ở phía đông "Chersonesus Aurea" [bán đảo Mã Lai] dọc theo "Magnus Sinus" [vịnh Thái Lan và Biển Đông], nơi một thủy thủ Hy Lạp từng ghé thăm.[94][95]

Thời Hán Chương Đế [trị. 75 – 88] được các học giả Đông Hán về sau đánh giá là giai đoạn cường thịnh cuối cùng của nhà Hán.[96] Từ sau thời Hán Chương Đế, hoạn quan can thiệp triều chính ngày một nhiều, tham gia nhiều cuộc tranh đoạt quyền lực khốc liệt giữa các nhóm ngoại thích.[97][98] Năm 92, với sự trợ giúp của hoạn quan Trịnh Chúng, Hán Hòa Đế [trị. 88 – 105] giam lỏng Đậu thái hậu, tước hết quyền lực mà gia tộc nhà bà đang nắm giữ. Hán Hòa Đế làm điều này để trả đũa việc Đậu thái hậu từng thanh trừng gia tộc và che giấu danh tính của Lương quý nhân, mẹ ruột hoàng đế.[99][100] Sau khi Hán Hòa Đế băng hà, Đặng thái hậu nhiếp chính giữa lúc nhà Hán lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính và cuộc khởi nghĩa của người Khương đang lan rộng.[101][102]

Khi Đặng thái hậu qua đời, Hán An Đế [trị. 106 – 125] tin lời hai hoạn quan Lý Nhuận và Giang Kinh, cho rằng Đặng thái hậu và gia tộc nhà bà đã lên sẵn kế hoạch phế truất mình. Ông cách chức toàn bộ thành viên gia tộc họ Đặng, đày ải và buộc nhiều người trong số họ phải tự sát.[103][104] Sau khi Hán An Đế băng hà, Diêm thái hậu đưa con trai bà là Bắc Hương hầu Lưu Ý lên ngôi hòng duy trì quyền lực cho gia tộc nhà mình. Tuy nhiên, hoạn quan Tôn Trình đã đảo chính thành công, lập Lưu Bảo làm hoàng đế, tức Hán Thuận Đế [trị. 125 – 144]. Diêm thái hậu bị quản thúc tại gia, người thân bị giết hoặc lưu đày, các đồngminh hoạn quan bị tàn sát.[105][106] Phụ chính Lương Ký, anh trai của Ý Hiên Lương hoàng hậu, giết chết anh rể Đặng Mãnh Nữ, người sau này trở thành hoàng hậu thứ hai, khi Đặng Mạnh Nữ phản kháng nỗ lực kiểm soát của ông. Sau đó, Hán Hoàn Đế [trị. 146 – 167] lợi dụng hoạn quan, hạ bệ và buộc Lương Ký phải tự sát.[107][108]

Nho sinh trường Thái học đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn phản đối hoạn quan trong triều.[109] Hán Hoàn Đế thì ngày càng xa cách bộ máy quan liêu khi khởi xướng nhiều dự án xây dựng hoành tráng và chiêu đãi hàng nghìn thê thiếp giữa thời điểm khủng hoảng kinh tế.[110][111] Lý Ưng và cộng sự ở trường Thái học bị bè lũ hoạn quan cầm tù vì tội phản quốc. Tới năm 167, họ mới được trả tự do khi Đại tướng quân Đậu Vũ thuyết phục thành công con rể Hán Hoàn Đế.[112] Dù là vậy, Hán Hoàn Đế vẫn cách chức vĩnh viễn Lý Ưng và cộng sự, khởi đầu lệnh cấm quan chức kết bè kéo cánh.[112]

Sau khi Hán Hoàn Đế băng hà, Đậu Vũ và Thái phó Trần Phồn đã âm mưu tiến hành một cuộc đảo chính, hạ bệ ba đại hoạn quan Hầu Lãm, Tào Tiết và Vương Phủ. Khi âm mưu bị phanh phui, các hoạn quan lập tức bắt giữ Hoàn Tư Đậu hoàng hậu và Trần Phồn. Tướng Trương Hoán sủng ái hoạn quan, dẫn quân đối đầu với Đậu Vũ và môn khách ngay trước cổng hoàng cung. Hai bên cáo buộc lẫn nhau tội phản quốc. Khi từng môn khách dưới trướng lũ lượt theo phe Trương Hoán, Đậu Vũ buộc phải tự sát.[113]

Dưới thời Hán Linh Đế [trị. 168 – 189], hoạn quan có thêm quyền thanh trừng quan chức kết bè kéo cánh, ngang nhiên bán đấu giá chức vụ cấp cao trong chính quyền.[114] Hán Linh Đế dành phần lớn thời gian chơi trò nhập vai với thê thiếp và tham gia các cuộc duyệt binh, giao hết việc nước cho hai hoạn quan Triệu Trung và Trương Nhượng.[115]

Nhà Hán diệt vongSửa đổi

Bài chi tiết: Nhà Hán diệt vong

Các châu và quận nhà Hán vào năm 219, một năm trước thời điểm diệt vong

Năm 184, lệnh cấm quan chức kết bè kéo cánh bị bãi bỏ giữa lúc Khởi nghĩa Khăn vàng và Khởi nghĩa Ngũ đấu mễ đạo đang bùng nổ, chủ yếu là do triều đình không muốn tiếp tục xa lánh một bộ phận đáng kể tầng lớp thân sĩ, những người hoàn toàn có thể trở cờ khởi nghĩa.[116] Phần tử tham gia Khởi nghĩa Khăn vàng và Khởi nghĩa Ngũ đấu mễ thuộc hai xã hội Đạo giáo có tôn ti khác nhau, lần lượt do hai thầy đồng Trương Giác và Trương Lỗ lãnh đạo.

Cuộc khởi nghĩa của Trương Lỗ ở miền bắc Tứ Xuyên và miền nam Thiểm Tây ngày nay, mãi đến năm 215 mới bị dập tắt.[117] Trong khi đó, Khởi nghĩa Khăn Vàng trên khắp tám châu chấm dứt chỉ trong vòng một năm, có vài lần tái bùng phát trong những thập kỷ tiếp theo.[118] Dù Khởi nghĩa Khăn vàng đã kết thúc, nhiều tướng lĩnh được bổ nhiệm ồ ạt trong thời kỳ chiến loạn, không chịu giải tán lực lượng dân quân tự tuyển mộ của họ và dùng chúng để tích lũy sức mạnh ngoài vòng kiểm soát của hoàng quyền đang lung lay.[119]

Đại tướng quân Hà Tiến, anh cùng cha khác mẹ với Hà thái hậu, cùng Viên Thiệu âm mưu lật đổ các hoạn quan trong triều bằng cách điều vài tướng lĩnh dẫn quân tới vùng ngoại ô kinh đô. Tại đây, họ dâng kiến nghị lên Hà thái hậu, yêu cầu xử tử các hoạn quan.[120] Sau một thời gian đắn đo, Hà thái hậu đồng ý. Tuy nhiên, khi các hoạn quan phát hiện ra âm mưu, họ liền yêu cầu anh trai Hà thái hậu là Hà Miêu thu hồi lệnh xử tử.[121][122] Ngày 22 tháng 9 năm 189, một nhóm hoạn quan ám sát thành công Hà Tiến.

Tào Phi [trị. 216 – 220], người trực tiếp đặt dấu chấm hết cho nhà Hán

Ngay sau khi Hà Tiến bỏ mạng, hai anh em Viên Thiệu, Viên Thuật lần lượt bao vây Bắc cung và Nam cung. Ngày 25 tháng 9 năm 189, cả hai cung điện đều thất thủ, khoảng hai nghìn hoạn quan bị tàn sát.[123][124] Trương Nhượng trước đó đã kịp bỏ trốn cùng Hán Thiếu Đế và em trai Lưu Hiệp, tức Hán Hiến Đế [trị. 189 – 220] tương lai. Khi bị anh em họ Viên truy cùng giết tận, Trương Nhượng nhảy xuống sông Hoàng Hà tự sát.[125]

Tướng Đổng Trác tìm thấy hai anh em tiểu hoàng đế đang lang thang nơi vùng thôn quê. Ông hộ tống họ hồi kinh an toàn và được phong làm Tư không, nắm quyền kiểm soát Lạc Dương và ép Viên Thiệu phải lui binh.[126] Sau khi Đổng Trác phế Hán Thiếu Đế, lập Hán Hiến Đế Lưu Hiệp, Viên Thiệu cầm đầu một liên minh chống Đổng Trác gồm toàn cựu quan chức và cựu sĩ quan. Tháng 9 năm 189, Đổng Trác đầu độc giết chết Hán Thiếu Đế. Tháng 5 năm 191, ông cho thiêu rụi Lạc Dương, dời kinh đô về lại Trường An.[127]

Đổng Trác bị con trai nuôi Lã Bố giết trong một âm mưu do Vương Doãn sắp đặt.[128] Năm 195, Hán Hiến Đế chạy khỏi Trường An, quay lại Lạc Dương hoang tàn. Năm 196, nghe theo lời thuyết phục của Tào Tháo, người lúc này đang là Thứ sử Duyện Châu, Hán Hiến Đế chấp nhận dời đô một lần nữa tới Hứa Xương.[129][130]

Viên Thiệu tuyên chiến với Tào Tháo hòng giành quyền kiểm soát hoàng đế. Sức mạnh của Viên Thiệu suy giảm đáng kể khi ông để thua Tào Tháo trong Trận Quan Độ năm 200. Ngay khi Viên Thiệu vừa qua đời, các con trai ông lao vào một cuộc nội chiến giành quyền thừa kế.[131][132] Năm 205, Tào Tháo giết Viên Đàm, con trai cả Viên Thiệu. Năm 207, Công Tôn Khang giết Viên Hi và Viên Thượng, hai người em của Viên Đàm, gửi thủ cấp tới cho Tào Tháo.[131][132]

Sau thất bại của Tào Tháo trong trận thủy chiến Xích Bích năm 208, Trung Quốc chia thành ba thế lực ảnh hưởng: Tào Tháo thống trị miền bắc, Tôn Quyền thống trị miền nam và Lưu Bị thống trị miền tây.[133][134] Tháng 3 năm 220, Tào Tháo qua đời. Đến tháng 12 cùng năm, con trai ông là Tào Phi ép Hán Hiến Đế nhường ngôi, tự lập Tào Ngụy Văn Đế [trị. 216 – 220]. Sự kiện này chính thức đặt dấu chấm hết cho nhà Hán, mở ra thời kỳ giao tranh ác liệt giữa ba nhà nước: Tào Ngụy [220 – 265], Đông Ngô [229 – 280] và Thục Hán [221 – 263].[135][136]

Đại chiến Hồ-Minh và quyết định sai lầm của Chu Đệ

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Thành Tây Đô ở Thanh Hóa

Một sử gia Phương Tây đã giải thích lý do Hoàng đế Chu Đệ của nhà Minh bỏ 'trật tự thiên hạ' của cha mình để tấn công Đại Việt vào năm 1407 và xóa tên nước này, đổi thành quận Giao Chỉ.

Các sách dạy lịch sử ở Việt Nam thường coi khởi nghĩa Lam Sơn [1418-1427] giống như các cuộc đấu tranh chống xâm lược vào các thời kỳ Tiền Lê, Lý, Trần trước đó và Tây Sơn sau này.

Thực ra khởi nghĩa Lam Sơn có tính chất bước ngoặt hơn cả vì chấm dứt được nỗ lực thuộc địa hóa toàn diện của Minh với xã hội Việt và ngăn tiến trình Hán hóa do di dân Phương Bắc tới.

Tam quốc diễn nghĩa: Vì sao đề cao Lưu Bị, hạ thấp Tào Tháo?

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Ngựa đồng thời Tam quốc

Vì sao Tam quốc diễn nghĩa, tiểu thuyết của La Quán Trung, tập trung ca ngợi Lưu Bị, Quan Vũ, Gia Cát Lượng, châm biếm Tào Tháo, nghiêng hẳn về nhà Thục Hán?

Có thể nói một lý do trụ cột là quan niệm về tính "chính thống" được các trí thức thời Tống, đặc biệt là Chu Hy, cổ vũ trong bối cảnh Trung Quốc bị chia năm xẻ bảy, và "ngoại tộc" đe dọa.

Mikhail Sholokhov: Đời ‘tiến thoái lưỡng nan’ của tác giả Sông Đông êm đềm

Tam quốc diễn nghĩa mô tả cục diện phân tranh một thế kỷ tại Trung Quốc, từ đời Hán Linh Đế [184] đến năm thứ nhất đời Vũ đế [Tư Mã Viêm] Tây Tấn [280].

Quảng cáo

Triều đại Hậu Lê – Lê Trung Hưng [1533 - 1789]

Đăng lúc: 06/10/2021 [GMT+7]

100%

Trung Quốc từng có một triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử, phát triển hùng mạnh vì lãnh thổ nằm trên con đường tơ lụa.

  • Phi tần cả gan "cắm sừng" Hoàng đế sẽ bị xử lý thế nào? Câu trả lời khiến hậu thế không tưởng tượng nổi
  • 3 vị nữ tướng hùng mạnh nhất trong Tam quốc diễn nghĩa, có người khiến Gia Cát Lượng phải kinh sợ, vận dụng trí khôn cả đời để đối phó
  • Kết cục cuối đời của 24 vị danh tướng lừng lẫy thời Tam Quốc: Người hy sinh không toàn thây, người biến mất một cách bí ẩn

Các vương triều cổ đại Trung Quốc dường như không thể thoát khỏi lời nguyền: Thời gian tồn tại chính quyền không vượt quá ngưỡng 300 năm. Triều Đường thịnh vượng một thời kéo dài 289 năm, triều Minh tồn tại 276 năm, triều Thanh trị vì 276 năm, ngay cả tộc Nỗ Nhĩ Cáp Xích thành lập nên Hậu Kim cũng chỉ kéo dài không quá 296 năm.

Trung Quốc cổ đại còn có hai vương triều lớn khác: Nhà Hán tồn tại trên danh nghĩa 407 năm, nhưng là sự hợp lại của Tây Hán và Đông Hán, giữa đó còn có sự kiện Vương Mãng soán ngôi thành lập nước mới nhưng không duy trì được bao lâu. Nhà Tống tồn tại 319 năm, nhưng đây cũng là kết quả tính gộp của Nam Tống và Bắc Tống.

Ngoài những triều đại hùng mạnh trên, các vương triều nhỏ hơn như Ngụy Tấn Nam Bắc triều, Ngũ đại thập quốc càng ngắn ngủi đến đáng thương. Tuy nhiên, vùng đất Hoa Hạ rộng lớn có một vương triều duy nhất từng tồn tại gần 1000 năm, được chấp quản bởi một gia tộc hùng mạnh.

Vương triều này chính là Vu Điền quốc ở Tây vực.

Năm 56, tộc Uất Trì đã thành lập nên nước Vu Điền ở bồn địa Tarim [nay thuộc địa phận Tân Cương, Trung Quốc]. Vì nằm trên con đường Tơ Lụa nên đất nước này nắm giữ vị trí thương mại vô cùng quan trọng, từng có một thời gian phát triển cực thịnh.

Sau khi nhà Tây Hán thành lập chính phủ đô hộ Tây vực, Vu Điền tuyên bố trở thành thuộc địa của nhà Hán nhưng vẫn giữ được nền tảng chính quyền cơ bản.

Người gia tộc Uất Trì có đầu óc ngoại giao xuất chúng. Họ luôn chọn cách thiết lập mối quan hệ với các nước trung nguyên, bên cạnh đó không ngừng “nuốt chửng” những nước nhỏ hơn để tăng cường thế lực.

Đầu những năm của vương triều Đông Hán, nước Vu Điền đã giúp đỡ quân Hán tiến công phương bắc để chiếm Cô Mặc, Tây Ba Sa Xa, Sơ Lặc. Hành động này của Vu Điền không chỉ đơn thuần là nghĩa vụ của nước thuộc địa, mà còn giúp bản thân họ dọn dẹp các nước địch. Nhờ đó, Tây vực chỉ còn lại hai nước là Vu Điền và Thiện Thiện.

Sau khi nuốt trọn các nước nhỏ, Vu Điền đã trở thành một cường quốc Tây vực hùng mạnh. Mặc dù nhân khẩu chỉ hơn mấy chục nghìn người nhưng Vu Điền cũng được xem là nước lớn so với 36 nước trong Tây vực.

Đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, thế cục loạn lạc, nhưng Vu Điền vẫn áp dụng chính sách tiến cống cho các vương triều trung nguyên, trở thành 1 trong 4 nước mạnh nhất của Tây vực thời bấy giờ.

Trinh Quan năm thứ 14 [năm 640], nhà Đường thành lập chính phủ đô hộ An Tây ở khu vực Thổ Lỗ Phiên, quan hệ của giữa Vu Điền và Đại Đường càng trở nên khăng khít. Về sau, Vu Điền chính thức trở thành thuộc địa của Đại Đường.

Gia tộc Uất Trì vô cùng ngưỡng mộ triều Đường, thậm chí còn có hai vị Quốc vương đổi họ thành “Lý”, Uất Trì Tăng Ô Ba đổi thành Lý Thánh Thiên, Uất Trì Tô Lạp đổi thành Lý Tòng Đức.

Năm 906, Vu Điền xung đột với Khách Lạt Hãn quốc [liên minh của các bộ lạc Đột Quyết] vì bất đồng trong tín ngưỡng tôn giáo [Vu Điền tôn thờ Phật giáo]. Theo đó, hai nước đã chiến tranh hơn 40 năm. Trong giai đoạn này, Vu Điền đã bị suy yếu nặng nề, cuối cùng bị diệt vong trong tay của Khách Lạt Hãn quốc vào khoảng năm 993 - 1006.

Lãnh thổ Vu Điền vô cùng rộng lớn, bao gồm rất nhiều huyện và thành phố của Tân Cương hiện nay. Trong lịch sử, Vu Điền nổi tiếng khai thác và buôn bán ngọc thạch nephrit [ngọc hòa điền]. Đó cũng chính là lý do Vu Điền quốc còn được gọi với tên Hòa Điền.

[Nguồn: Sohu]

//afamily.vn/khong-phai-nha-duong-hay-nha-thanh-day-moi-la-trieu-dai-ton-tai-lau-nhat-trong-lich-su-trung-quoc-duoc-tri-vi-boi-1-gia-toc-hung-manh-suot-1000-nam-20220210164607739.chn

3 vị nữ tướng hùng mạnh nhất trong Tam quốc diễn nghĩa, có người khiến Gia Cát Lượng phải kinh sợ, vận dụng trí khôn cả đời để đối phó

Video liên quan

Chủ Đề