Chế độ quân điền dưới thời nhà Đường có nội dung cơ bản là

A. chế độ quân điền

B. chế độ tỉnh điển

C. chế độ tô, dung, điệu

D. chế độ lộc điền

Đáp án A.

Chế độ ruộng đất nổi tiếng dưới thời Đường là chế độ quân điền, cụ thể sau khi nhà Đường được thành lập [618], cùng với biện pháp giảm tô thuế, bớt sưu dịch, nhà Đường lấy đất công và ruộng bỏ hoang chia cho nông dân gọi là chế độ quân điền.

Lý giải việc chọn đáp án A là do:

Tuy các vị hoàng đế sáng lập nhà Đường luôn muốn tái hiện lại sự vinh quang của nhà Hán [202 TCN–220], song tổ chức hành chính nhà Đường về cơ bản mô phỏng hệ thống cũ thời Nam–Bắc triều. Về mặt quân sự, nhà Đường duy trì chế độ Phủ binh của nhà Bắc Chu [thế kỷ thứ 6], binh lính khi thì đóng quân ở Trường An hoặc nơi biên ải, khi thì về địa phương canh tác ruộng đất. Nhà Đường kế thừa chế độ Quân điền từ triều Bắc Ngụy [386–534], song có nhiều cải tiến

Nhà Đường kế thừa chế độ Phủ binh của nhà Tùy, mà theo đó, tráng đinh nam trong độ tuổi phục dịch [21 đến 60 tuổi] sẽ được cho vào phủ binh. Trong thời gian phục dịch, binh lính được miễn trừ tô thuế, nhưng vẫn phải tự phụ trách khẩu phần lương thực và binh khí.

Dưới thời Đường Thái Tông, quân đội toàn quốc do triều đình trực tiếp quản lý, các tướng lĩnh vào thời bình thì phải ở lại triều, chỉ đến khi làm nhiệm vụ mới trực tiếp chỉ huy quân đội.

Tuy nhiên, kể từ thế kỷ 8 trở đi, để tiện việc quản lý, triều đình đã đặt ra chức vụ tiết độ sứ quản lý quân đội từng khu vực ở địa phương. Theo Thông điển, vào thời sơ kỳ nhà Đường, một đội quân viễn chinh thường có tổng cộng 20.000 người, chia thành bảy quân, có 2.600 hoặc 4.000 người.

Chỉ có 14.000 người là trực tiếp tham chiến, số còn lại có nhiệm vụ bảo vệ quân nhu. Số binh lính trực tiếp tham chiến bao gồm 2.000 cung thủ, 2.000 nỗ thủ, 4.000 kỵ binh, số còn lại là bộ binh chính quy, trang bị chủ yếu bằng thương.

Một đơn vị phủ binh thường được cấu tạo từ ba đến năm đoàn, mỗi đoàn có 200 người, chia thành hai lữ có 100 người, bốn đội có 50 người và hai mươi hỏa có 10 người.

Năm 737, Đường Huyền Tông bãi bỏ chế độ phủ binh, thay thế bằng binh lính phục vụ lâu năm trong quân ngũ, thiện chiến và hiệu quả hơn. Đây có thể xem là một biện pháp cải thiện kinh tế, vì việc đào tạo tân binh và điều họ ra biên ải ba năm một lần là cực kỳ tốn kém.

Cuối thế kỷ 7, lính phủ binh bắt đầu bỏ lơ nghĩa vụ quân sự và nhà cửa được ban phát thông qua chế độ quân điền. Tiêu chuẩn 100 mẫu đất cho mỗi hộ trên thực tế đã không còn được bảo đảm ở những nơi dân cư đông đúc.

Tại nhiều khu vực, phần lớn ruộng đất đều rơi vào tay tầng lớp địa chủ. Nông dân hoặc người sống lang thang có hoàn cảnh khó khăn sau đó thường được mời tham gia nghĩa vụ quân sự, với quyền lợi được miễn trừ tô thuế và nghĩa vụ lao động.

Quân điền chế [tiếng Trung: 均田制] là một thể chế về sở hữu và phân phối đất đai trong lịch sử Trung Quốc từ thời Lục triều đến giữa thời nhà Đường.

Thời nhà Hán, chế độ Tỉnh điền dần đã không còn được sử dụng ở Trung Quốc, mặc dù các nhà cải cách như Vương Mãng đã cố gắng khôi phục nó. Thay vào đó, chế độ Quân điền được đưa vào áp dụng vào khoảng năm 485, do Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế áp dụng tại một vương quốc không phải người Hán ở Bắc Trung Quốc, trong thời kỳ Nam - Bắc triều. Thể chế này cuối cùng đã được các triều đình khác chấp nhận và tiếp tục sử dụng nó qua các triều đại Tùy - Đường.[1][2][3]

Mục lục

  • 1 Nền tảng
  • 2 Sự sụp đổ
  • 3 Ảnh hưởng ở Nhật Bản
  • 4 Chú thích

Nền tảngSửa đổi

Thể chế này hoạt động trên cơ sở hầu hết đất đai thuộc sở hữu của triều đình, sau đó sẽ giao cho các gia đình quản lý. Mỗi cá nhân, kể cả nô lệ, được hưởng một diện tích ruộng đất nhất định, tùy thuộc vào khả năng cung ứng lao động của họ. Ví dụ, những người đàn ông khỏe mạnh đã nhận được 40 mẫu đất [tương đương khoảng 1,1 ha hoặc 2,7 mẫu Anh], trong khi phụ nữ nhận được ít hơn, và nhiều khoản đất được cấp thêm một con bò thuộc sở hữu của gia đình. Sau khi người được giao quản lý đất chết, đất sẽ được giao lại cho triều đình để được phân phối lại, mặc dù các điều khoản được cho phép để thừa kế đất cần phát triển lâu dài, chẳng hạn như trang trại cho dâu tằm [đối với tằm].

Thế chế này được dự định để thúc đẩy sự phát triển của đất đai và để đảm bảo rằng không có đất nông nghiệp nào bị bỏ hoang. Điều này ngăn cản giới quý tộc phát triển các cơ sở quyền lực lớn bằng cách độc quyền các lĩnh vực, và cho phép người dân thường tham gia vào canh tác và đảm bảo sinh kế của họ. Từ những điều này, triều đình đã có thể phát triển một cơ sở thuế và làm chậm quá trình tích tụ đất đai bằng những bất động sản rộng lớn. Điều này cũng được các triều đại nhà Đường sử dụng để phá vỡ chu kỳ triều đại. Chu kỳ triều đại là ý tưởng rằng tất cả các triều đại sẽ chấm dứt và điều này sẽ ngăn chặn nó bằng cách người dân nhận được đất từ triều đình; điều này làm cho họ cảm thấy như triều đình đã cho họ một cái gì đó mặc dù nó không bao giờ rời đi.

Sự sụp đổSửa đổi

Thể chế này cuối cùng cũng ngừng áp dụng sau loạn An Sử, khi triều đình bắt đầu mất quyền kiểm soát tập trung đối với các lãnh thổ của mình. Mặc dù tất cả các vùng đất trên lý thuyết thuộc về triều đình, các gia đình quý tộc đã có thể có được đất đai một cách hợp pháp và có thể xây dựng tài sản của họ. Các tự viện Phật giáo cũng vậy, đã kiểm soát nhiều khu ruộng đất rộng lớn. Nông dân thường làm thuê cho các gia đình địa chủ và trở thành nông nô hoặc nô tỳ trong thời gian xảy ra thiên tai và xung đột để đảm bảo an ninh của chính họ. Việc mất dần đất đai chịu thuế là một lý do cho sự suy tàn của nhà Đường. Mô hình địa chủ giữ đất do nông dân thuê canh tác sẽ tiếp tục trong suốt phần còn lại của lịch sử Trung Quốc cho đến khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949.

Ảnh hưởng ở Nhật BảnSửa đổi

Chế độ Quân điền đã được Nhật Bản áp dụng do kết quả của cải cách Taika do Thánh Đức Thái tử thực hiện [xem Ritsuryō], mặc dù vẫn còn tranh cãi về mức độ áp dụng thực sự. Các hành tỉnh gần kinh đô bị quản lý và đánh thuế chặt chẽ hơn, khiến nông dân phải chạy trốn đến các hành tỉnh xa xôi. Ở Nhật Bản cũng vậy, thể chế này không còn được sử dụng khi đất đai trở lại sở hữu tư nhân; các sắc chỉ năm 723 cho rằng các vùng đất mới phát triển có thể được thừa kế trong ba thế hệ trong khi một nghị định sau đó vào năm 743 cho phép các vùng đất phát triển này được giữ vĩnh viễn. Đến năm 800, kế hoạch phân phối lại đất đai thực tế đã bị hủy bỏ do điều tra dân số và phân phối trở nên không thường xuyên. Tuy nhiên, thể chế này vẫn tồn tại, ít nhất là trên lý thuyết, trong nhiều năm sau đó.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Charles Holcombe [tháng 1 năm 2001]. The Genesis of East Asia: 221 B.C. - A.D. 907. University of Hawaii Press. tr.136–. ISBN978-0-8248-2465-5.
  2. ^ David Graff [ngày 2 tháng 9 năm 2003]. Medieval Chinese Warfare 300-900. Routledge. tr.140–. ISBN978-1-134-55353-2.
  3. ^ Dr R K Sahay [ngày 24 tháng 5 năm 2016]. History of China's Military. Vij Books India Pvt Ltd. tr.103–. ISBN978-93-86019-90-5.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề