Đại lý độc quyền là gì

Một số vấn đề pháp lý cần lưu ý khi giao kết hợp đồng đại lý độc quyền

25/06/2020 admin2021-04-20T13:45:45+07:00

Trong bối cảnh hoạt động thương mại không chỉ đơn thuần là các hoạt động bán hàng, cung cấp dịch vụ trực tiếp như hiện nay, việc thiết lập và mở rộng hệ thống phân phối, chuỗi bán hàng đang được càng nhiều chủ thể kinh doanh quan tâm thực hiện bằng nhiều hình thức: mở chi nhánh/ địa điểm kinh doanh, nhượng quyền, mở đại lý thương mại Trong đó, mô hình đại lý là mô hình thường được ưu tiên lựa chọn bởi các ưu thế về chi phí, thời gian quản lý, hạn chế được nhiều rủi ro, đồng thời có thể nhanh chóng mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

Trong quá trình cung cấp các dịch vụ tư vấn, rà soát hợp đồng đại lý, đặc biệt là các hợp đồng đại lý độc quyền, Apolat Legal nhận thấy các chủ thể thực hiện giao dịch thường bỏ qua những vấn đề tuy nhỏ nhưng lại có những ảnh hưởng rất lớn trong quá trình thực hiện Hợp Đồng. Tại bài viết này, Apolat Legal sẽ đưa ra một số vấn đề mà các bên cần lưu tâm trước khi tham gia đàm phán cũng như soạn thảo một Hợp Đồng Đại Lý Độc Quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam để hạn chế những tranh chấp không đáng có trong quá trình thực hiện Hợp Đồng:

1| Đầu tiên là phạm vi lãnh thổ được độc quyền

Pháp luật thương mại định nghĩa đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao[1]. Trong đó, đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định[2].

Theo đó, bản chất độc quyền của hoạt động đại lý độc quyền có thể được thể hiện và ràng buộc trên các yếu tố sau:

  • Số lượng bên nhận đại lý được chỉ định: chỉ một bên nhận đại lý được nhận độc quyền trong một phạm vi đã được các bên thống nhất.
  • Phạm vi lãnh thổ được chỉ định độc quyền: Phạm vi lãnh thổ mà bên đại lý được độc quyền có thể là một huyện, một tỉnh, liên tỉnh, một khu vực, một quốc gia hay thậm chí là nhiều quốc gia, tùy vào năng lực của các bên.
  • Loại hàng hóa, dịch vụ được độc quyền: Bên giao đại lý có thể giao độc quyền một/ một số hoặc toàn bộ loại sản phẩm mà mình sản xuất/ được quyền phân phối.

Theo đó, tùy vào chiến lược kinh doanh mà Bên Giao Đại Lý và Bên Nhận Đại Lý nên xác định rõ ràng phạm vi nên được thỏa thuận độc quyền đối với lãnh thổ và loại sản phẩm độc quyền để có thể khai thác tối đa tiềm năng của thị trường, cũng như giảm thiểu được rủi ro khi tham gia vào hợp đồng đại lý độc quyền. Vấn đề này đặc biệt đáng lưu tâm đối với Bên giao đại lý, vì trong phạm vi được thỏa thuận theo Hợp Đồng độc quyền, họ chỉ được phép cung cấp hàng hóa/dịch vụ của mình cho duy nhất bên nhận đại lý, việc kinh doanh thuận lợi hay không thuận lợi trong phạm vi đó hoàn toàn phụ thuộc vào bên đại lý.

Đơn cử một trường hợp thường gặp về việc phân chia phạm vi độc quyền: công ty X [bên giao đại lý] và công ty Y [bên đại lý] ký kết hợp đồng đại lý độc quyền về việc Công Ty Y sẽ phân phối toàn bộ loại sản phẩm mà công ty X kinh doanh trong khu vực Đông Nam Bộ [bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bình Phước, tỉnh Tây Ninh]. Như vậy, theo thỏa thuận này thì Công ty X chỉ được cung cấp sản phẩm của mình cho công ty Y mà không được cung cấp các sản phẩm của mình cho bất cứ bên thứ ba nào khác hoặc thậm chí tự mình bán hàng tại khu vực Đông Nam Bộ vì làm thế sẽ vi phạm thỏa thuận tại Hợp Đồng và xâm phạm quyền lợi của công ty Y. Tuy nhiên, nếu trong Hợp Đồng, Công ty X chỉ cho phép Công ty Y độc quyền dòng sản phẩm X1 tại khu vực Đông Nam Bộ, thì Công ty X vẫn sẽ có toàn quyền khai thác các dòng sản phẩm khác mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty Y.

Tuy nhiên bên giao đại lý cũng cần lưu ý, trong trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một số loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định thì phải tuân thủ quy định của pháp luật đó[3].

2| Thứ hai, về giá của hàng hóa/dịch vụ

Theo quy định của pháp luật, thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác[4].

Xét về khía cạnh của bên giao đại lý họ luôn muốn bên đại lý của mình bán càng nhiều sản phẩm càng tốt vì suy cho cùng họ là cũng là người có lợi, do đó bên giao đại lý thông thường không can thiệp vào giá của hàng hóa/dịch vụ mà bên đại lý bán/cung cấp cho người tiêu dùng. Tuy nhiên cũng không ít trường hợp bên giao đại lý sẽ đưa ra giới hạn về mức giá bán ra của Sản Phẩm thông qua việc đưa ra định mức, hoặc Giá Bán Lẻ quy định để tạo sự đồng nhất về hình ảnh và giá trị sản phẩm.

Xét về khía cạnh của bên đại lý, xuất phát từ quyền độc quyền trong việc phân phối sản phẩm trong phạm vi địa lý, họ luôn muốn bán giá cao nhất có thể để thu lợi nhuận. Do đó, các Bên Nhận Đại Lý cũng nên lưu ý đến việc hợp đồng đại lý có ràng buộc về giá bán bản phẩm hay không để có những phương án thương lượng phù hợp.

3| Thứ ba, hạn mức đặt hàng hóa/cung cấp dịch vụ tối thiểu

Thông thường, đi kèm với quyền lợi được độc quyền bán các hàng hóa/cung cấp dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ thì bên đại lý cũng sẽ chịu một áp lực nhất định về đầu ra của sản phẩm hoặc doanh số bán hàng. Bên giao đại lý luôn muốn bên đại lý bán nhiều sản phẩm nhất có thể và tùy thuộc vào khoảng thời gian được hai bên thỏa thuận [có thể là hàng tháng, hàng quý] thì bên đại lý phải đặt mua một lượng hàng/cung cấp dịch vụ nhất định hoặc đạt được chỉ tiêu doanh số tối thiểu. Các quy định này thường được xem như là điều kiện cơ bản mà bên giao đại lý đặt ra cho bên đại lý khi bước vào một Hợp Đồng độc quyền, nếu không đạt được các chỉ tiêu này thì tùy vào mức độ mà bên đại lý có thể không được hưởng thù lao, thưởng hay phần chiết khấu hoặc thậm chí bị chấm dứt Hợp Đồng.

Về phần đại lý, dĩ nhiên họ cũng muốn hướng đến mục tiêu bán được càng nhiều hàng càng tốt để vừa có thể thu được nhiều lợi nhuận, vừa có thể được hưởng phần chiết khấu, thù lao từ bên giao đại lý mà không vi phạm hợp đồng. Do đó, trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng đại lý độc quyền thì các bên cần chú trọng đến vấn đề này để cân bằng lợi ích tốt nhất giữa các bên vì đây là một trong những lí do chính gây ra các vụ tranh chấp hợp đồng đại lý độc quyền.

Ngoài các vấn đề trên, bên giao đại lý và bên đại lý cũng cần quan tâm đến các vấn đề giao nhận, thời hạn thanh toán, chính sách đổi trả, thời hạn đại lý trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng đại lý độc quyền. Bên cạnh đó, nếu hợp đồng đại lý độc quyền mà Bên Giao Đại Lý là thương nhân nước ngoài thì các bên phải tham khảo các vấn đề về danh mục hàng hóa được nhập khẩu, nghĩa vụ thu, thủ tục xuất, nhập khẩu từ Điều 50 đến điều 53 Nghị định 69/2018/NĐ-CP và các quy định chung về đại lý thương mại trong Luật Thương mại hiện hành.

Xem thêm:Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với đối tác nội địa tại Việt Nam [phần 1].

[1] Điều 166 Luật Thương Mại 2005

[2] Khoản 2 Điều 169 Luật Thương mại 2005

[3] Khoản 7 Điều 175 Luật thương mại 2005

[4] Khoản 1 Điều 171 Luật Thương mại 2005

Bảo vệ quyền tác giả của trò chơi trực tuyến tại Việt Nam

admin2021-11-26T10:25:27+07:00

Trong vài năm trở lại đây, có thể thấy rằng, ngay cả thời gian khó khăn nhất do đại dịch, ngành công nghiệp trò chơi trực tuyến vẫn là một trong những ngành chứng kiến sự phát triển nhảy vọt. Một trò chơi trực tuyến thành công không chỉ mang lại cho chủ sở hữu lợi nhuận lớn từ việc bán trò chơi hay thu phí người dùng khi tham gia trò chơi trực tuyến, nó còn gợi mở cơ hội thành công cho chủ sở hữu từ nhiều cách khác như bán các các phụ kiện, quần áo và nhiều vật phẩm khác liên quan đến trờ chơi hay sử dụng các nhân vật trong trò chơi trực tuyến đó. Ngoài ra, một công ty kinh doanh trò chơi trực tuyến sở hữu một trò chơi trực tuyến ăn khách cũng có thể thu được lợi nhuận từ việc cấp phép quyền sản xuất phim truyền hình lấy cảm hứng từ trò chơi, chiến dịch quảng cáo hoặc các nội dung trực tuyến khác trên các mạng truyền thông xã hội.

Do đó, việc bảo vệ quyền tác giả, hay quyền sở hữu trí tuệ nói chung, đối với trò chơi trực tuyến là yếu tố then chốt và cực kỳ quan trọng để chủ sở hữu trò chơi trực tuyến được hưởng lợi từ khoản đầu tư của mình vào việc phát triển trò chơi trực tuyến đó. Việc bảo vệ quyền tác giả thậm chí còn trở nên quan trọng hơn vì tính chất không biên giới của hoạt động phát triển, phân phối trò chơi trực tuyến hiện nay.

Các yếu tố nào của một trò chơi trực tuyến có thể được bảo hộ quyền tác giả?

Nói một cách đơn giản, quyền tác giả sẽ bảo vệ sự thể hiện mang tính sáng tạo và nguyên gốc của tác phẩm. Ở Việt Nam, cũng như hầu hết các quốc gia khác, một tác phẩm sáng tạo có thể được tự động bảo hộ quyền tác giả sau khi tác phẩm đã được định hình ở một trạng thái nhất định và đáp ứng tiêu chuẩn về tính nguyên gốc. Trong ngành công nghiệp trò chơi trực tuyến, các yếu tố cơ bản có thể được bảo hộ theo cơ chế quyền tác giả có thể kể đến gồm:

  • Nhân vật của trò chơi;
  • Cách chơi và cốt truyện của trò chơi;
  • Âm thanh và nhạc;
  • Thiết kế đồ hoạ;
  • Mã máy tính hoặc chương trình máy tính.

Mỗi yếu tố trên sẽ yêu cầu các tiêu chuẩn cụ thể khác nhau để được bảo hộ quyền tác giả. Khi các yếu tố nói trên đáp ứng các điều kiện để được bảo vệ quyền tác giả, chủ thể quyền có độc quyền ngăn cấm các bên khác sao chép trò chơi, tạo ra các tác phẩm phái sinh của trò chơi, phân phối các bản sao của trò chơi, thể hiện công khai các yếu tố được bảo vệ quyền tác giả của trò chơi, và nhiều quyền khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước Berne.

Ai là chủ sở hữu quyền tác giả thật sự của trò chơi trực tuyến?

Trong quá trình thương mại hoá một trò chơi trực tuyến, điều quan trọng nhất là xác định ai là chủ sở hữu hợp pháp của quyền tác giả của trò chơi trực tuyến đó là người tạo ra trò chơi hay công ty kinh doanh trò chơi trực tuyến đã đầu tư tài chính vào quá trình sản xuất ra trò chơi trực tuyến đó [trong một kịch bản đơn giản]. Thế giới quan về luật sở hữu trí tuệ có một nguyên tắc khá đơn giản được gọi là tác phẩm được thuê làm. Nguyên tắc này giả định rằng các công ty trò chơi trực tuyến [nói chung là các tổ chức thuê thầu hoặc người sử dụng lao động] sẽ là bên nắm giữ quyền tác giả đối với trò chơi trực tuyến nếu người tạo ra trò chơi [người lập trình, người thiết kế đồ hoạ, ] là người lao động của công ty này hoặc việc sản xuất trò chơi được đầu tư tài chính bởi công ty. Nguyên tắc này là một nguyên tắc nổi tiếng của luật bản quyền Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc trên vào các trường hợp thực tế không hề đơn giản theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Pháp luật Việt Nam không tồn tại một nguyên tắc giống chính xác như nguyên tắc tác phẩm được thuê làm như được nhìn thấy trong pháp luật một số quốc gia theo trường phái thông luật như Hoa Kỳ. Mặc dù luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam vẫn có quy định có hướng tiếp cận tương tự, điều này không áp dụng đối với các quyền nhân thân của tác giả theo Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.

Trên thực tế, rất nhiều lập trình viên, người thiết kế đồ hoạ đang làm việc cho cùng lúc nhiều công ty trò chơi trực tuyến khác nhau với tư cách là một nhà thầu độc lập hoặc freelancer mà không có hợp đồng lao động hay hợp đồng dịch vụ chi tiết. Trong những trường hợp này, bên nào cho rằng mình là chủ sở hữu của quyền tác giả đối với trò chơi trực tuyến sẽ phải có trách nhiệm chứng minh mình là chủ sở hữu thật sự theo quy định của pháp luật. Quá trình này chưa bao giờ là con đường dễ dàng, đặc biệt là đối với các sản phẩm số như trò chơi trực tuyến.

Bảo hộ quyền tác giả thông qua đăng ký tự nguyện

Tương tự như nhiều quốc gia khác, theo luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, quyền tác giả được hình thành tự động ngay sau khi tác phẩm được định hình ở một hình thức nhất định mà không yêu cầu thủ tục đăng ký bắt buộc. Tuy nhiên, cân nhắc đến các tranh chấp tiềm ẩn về quyền sở hữu trí tuệ trong ngành công nghiệp trò chơi trực tuyến hiện nay và nghĩa vụ chứng minh của bên yêu cầu bồi thường vốn rất phức tạp và chủ quan, lời khuyên hữu ích và phổ biến hiện nay là chủ sở hữu trò chơi trực tuyến nên thực hiện đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với trò chơi trực tuyến của mình sớm nhất có thể. Việc đăng ký sẽ trao cho chủ sở hữu quyền lợi thế về việc miễn nghĩa vụ chứng minh quyền tác giả. Do đó, việc xử lý hành vi vi phạm quyền của chủ sở hữu quyền tác giả sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Ngoài ra, Việt Nam hiện là thành viên của Công ước Berne về bảo hộ toàn cầu quyền tác giả đối với tác phẩm. Do vậy, khi trò chơi trực tuyến [hoặc bất kỳ thành phần nào của nó] được đăng ký bảo hộ quyền tác giả thành công tại Việt Nam, trò chơi trực tuyến đó cũng sẽ được bảo hộ tại 179 quốc gia thành viên của Công ước Berne.

Các lưu ý ngắn gọn để nâng cao khả năng bảo vệ quyền tác giả của trò chời trực tuyến:

  • Lưu chứng quá trình phát triển trò chơi trực tuyến để chứng minh quyền sở hữu quyền tác giả của trò chơi trực tuyến đó;
  • Xác định các quyền sở hữu trí tuệ bạn có và cân nhắc thực hiện việc đăng ký bảo hộ [cả với các đối tượng bắt buộc đăng ký hoặc tự nguyện đăng ký];
  • Ký kết hợp đồng với tất cả các bên liên quan trong quá trình phát triển trò chơi trực tuyến trong đó xác định rõ ai là chủ sở hữu quyền tác giả;
  • Đảm bảo giữ bảo mật các thông tin là bí mật thương mại thông qua việc ký kết các Thoả thuận bảo mật với tất cả các bên liên quan;
  • Giám sát thị trường để phát hiện sớm các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Những Lưu Ý Về Quà Tặng Khi Thực Hiện Chương Trình Khuyến Mại

admin2021-11-26T09:10:43+07:00

Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khi một chương trình khuyến mại được tổ chức, người tiêu dùng tham gia thường quan tâm đến quà tặng của chương trình. Theo lý thuyết về kinh doanh, quà tặng [hay còn gọi là hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại theo quy định pháp luật] là một phần, không thể thiếu trong một chương trình khuyến mại bởi nó trực tiếp đem lại lợi ích cho khách hàng tham gia chương trình, góp phần quan trọng vào sự thành công của chiến dịch marketing. Quà tặng khuyến mạihấp dẫn, có giá trị là một cách thức quảng bá doanh nghiệp, tạo dựng thương hiệu cực kỳ hiệu quả. Do đó, việc đưa ra ý tưởng, lưa chọn quà tặng vừa độc đáo, hấp dẫn và phù hợp với quy định của pháp luật là vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm khi thực hiện một chương trình khuyến mại.

Hàng hóa dịch vụ dùng để khuyến mại [quà tặng]

Theo quy định tại Điều 94 Luật Thương mại 2005 thì hàng hóa dùng để khuyến mại là hàng hoá, dịch vụ mà thương nhân thực hiện khuyến mại đang kinh doanh hoặc hàng hoá, dịch vụ khác. Quy định pháp luật hiện hành không cấm thương nhân dùng hàng hóa của thương nhân khác làm hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại. Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định 81/2018/NĐ-CP thì hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại không bao gồm rượu, xổ số, thuốc lá, thuốc chữa bệnh cho người kể cả các loại thuốc đã được phép lưu thông theo quy định của Bộ Y tế [trừ trường hợp khuyến mại cho thương nhân kinh doanh thuốc], hàng hóa, dịch vụ bị cấm lưu hành tại Việt Nam và các hàng hóa, dịch vụ bị cấm khuyến mại khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, hàng hóa, dịch vụ được thương nhân dùng để khuyến mại có thể là hàng hóa, dịch vụ mà thương nhân đó đang kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác và hàng hóa, dịch vụ đó phải được kinh doanh hợp pháp.

Một số lưu ý khi lựa chọn hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại [quà tặng]

Thứ nhất, quyền sở hữu đối với hàng hóa dùng để khuyến mại. Theo quy định của pháp luật khuyến mại, thương nhân có thể dùng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác làm hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại. Tuy nhiên, hàng hóa được sử dụng để khuyến mại phải là hàng hóa thuộc sở hữu hợp pháp của thương nhân thực hiện khuyến mại. Khi thực hiện hồ sơ đăng ký khuyến mại với cơ quan có thẩm quyền, thương nhân phải cung cấp hợp đồng mua bán, thỏa thuận tài trợ, hóa đơn mua hàngđể chứng minh quyền sở hữu của mình đối với hàng hóa dùng để khuyến mại.

Thứ hai, hoạt động quảng cáo quà tặng trong chương trình khuyến mại. Pháp luật về xúc tiến thương mại hiện tại không hạn chế hàng hóa dùng để khuyến mại phải được sự chấp thuận của chủ sở hữu thương hiệu của hàng hóa. Đồng thời, các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại cũng không có hành vi nào liên quan đến sự chấp thuận của chủ sở hữu hàng hóa. Vì vậy, thương nhân có quyền sử dụng bất kỳ hàng hóa được lưu thông hợp pháp nào để làm quà tặng. Tuy nhiên, xuất phát từ việc các hoạt động khuyến mại luôn gắn liền với hoạt động quảng cáo, việc sử dụng hình ảnh của tổ chức, cá nhân khác để quảng cáo khi chưa được tổ chức, cá nhân đó đồng ý là một hành vi quảng cáo thương mại bị cấm theo quy định về quảng cáo. Theo đó, thương nhân không được thực hiện hành vi quảng cáo có chứa các sản phẩm của thương nhân khác mà không được sự đồng ý của thương nhân đó.

Liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của quà tặng, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp [nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp] có quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp nếu việc sử dụng đó không thuộc các trường hợp nhất định được luật cho phép [Điều 125 Luật Sở Hữu Trí Tuệ 2005]. Trong khi đó, hành vi lưu thông sản phẩm mang nhãn hiệu ra thị trường là hành vi sử dụng nhãn hiệu theo Điều 124 Luật Sở Hữu Trí Tuệ 2005. Đây là hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp.

Như vậy, nếu xét riêng về hoạt động khuyến mại thì thương nhân có quyền sử dụng bất kỳ hàng hóa của bất kỳ thương nhân nào được phép lưu thông hợp pháp trên thị trường để dùng là quà tặng. Nhưng vì sự liên quan đến việc sử dụng hình ảnh của các sản phẩm quà tặng để quảng cáo trong hoạt động khuyến mại và quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu/ kiểu dáng của các sản phẩm quà tặng của các thương nhân sản xuất,thương nhân cần phải lưu ý làm rõ mục đích của việc mua hàng hóa để làm quà tặng và quy định rõ trong hợp đồng, thỏa thuận mua bán rằng bên bán chấp thuận cho thương nhân sử dụng hình ảnh/ quyền sở hữu trí tuệ của sản phẩm để thực hiện quảng cáo, khuyến mại.

Thứ ba, lưu ý về giá trị vật chất dùng để khuyến mại. Giá trị vật chất dùng để khuyến mại cho một đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá của đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại đó trước thời gian khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại bằng các hình thức như đưa hàng mẫu, cung cấp dịch vụ mẫu; tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ không kèm theo việc mua hàng; bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi, tổ chứcchươngtrình khách hàng thường xuyên và bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự cácchươngtrình mang tính may rủi

Thứ tư, hóa đơn và vấn đề thuế cho hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại. Theo quy định pháp luật, thương nhân thực hiện khuyến mại vẫn phải lập hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ đối với trường hợp hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại [trừ hàng hóa luân chuyển nội bộ, tiêu dùng nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất]. Ngoài ra, đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại theo quy đinh về pháp luật thương mại [thực hiện đăng ký/ thông báo với cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật], giá tính thuế giá trị gia tăng được xác định bằng không, tức là thương nhân không phải nộp thuế giá trị gia tăng cho hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại. Ngược lại, trong trường hợp thương nhân không thực hiện đúng quy định của pháp luật về thương mại, thương nhân phải kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng như hàng hóa, dịch vụ dùng để tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho.

Bên cạnh đó, thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vẫn được khấu trừ. Như vậy, thương nhân cần lưu ý hàng hóa, dịch vụ khuyến mại cũng cần phải lập hóa đơn, trên hóa đơn ghi tên và số lượng hàng hóa, ghi rõ là hàng khuyến mại và cần tuân thủ quy định về đăng ký/ thông báo khuyến mại theo quy định pháp luật để áp dụng các chính sách thuế phù hợp.

Với quy mô và sức ảnh hưởng to lớn của các chương trình Flash sale cũng như sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường kinh doanh, khuyến mại là một hoạt động không thể thiếu để thúc đẩy lợi thế kinh doanh của thương nhân. Bên cạnh việc tập trung lựa chọn nhữngquà tặng chất lượng, thu hút người tiêu dùng, thương nhân cần lưu ý tuân thủ các quy định pháp luật về quà tặng để chương trình khuyến mại được thực hiện hợp pháp, phù hợp với quy định pháp luật.

Vấn đề thời hiệu khởi kiện trong tranh chấp sở hữu trí tuệ

admin2021-11-25T10:37:43+07:00

Thời hiệu khởi kiện là một vấn đề rất quan trọng, nhưng lại dễ bị lãng quên khi giải quyết tranh chấp hầu hết các loại tranh chấp, bất kể là khởi kiện tại Tòa án hoặc Trọng tài. Vấn đề thời hiệu trong tranh chấp sở hữu trí tuệ cũng không ngoại lệ.

Tài sản sở hữu trí tuệ là một loại tài sản đặc biệt một loại tài sản vô hình nhưng có giá trị thương mại cao, và có tầm ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng với bản chất là tài sản vô hình, các tài sản sở hữu trí tuệ lại rất dễ bị xâm phạm do hành vi sử dụng trái phép. Trên thực tế, khi theo đuổi các biện pháp xử lý liên quan đến tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, một số tổ chức, cá nhân vẫn chưa có được nhận thức phù hợp về vấn đề thời hiệu khởi kiện, từ đó bị mất quyền khởi kiện do hết thời hiệu. Bài viết này sẽ phân tích về vấn đề thời hiệu khởi kiện trong tranh chấp sở hữu trí tuệ và quan điểm của người viết về việc áp dụng thời hiệu trong tranh chấp sở hữu trí tuệ.

1. Một số quy định chung về thời hiệu khởi kiện

1.1 Thời hiệu khởi kiện là gì?

Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành không có quy định riêng về thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, do đó các quy định áp dụng về thời hiệu, thời điểm xác tính thời hiệu khởi kiện sẽ được áp dụng theo quy định của luật chung là Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự.

Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Từ các quy định nêu trên, thời hiệu khởi kiện nói riêng và thời hiệu nói chung là [i] một khoảng thời gian được xác định và do luật quy định; [ii] các chủ thể có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ, tức không thể thỏa thuận điều chỉnh kéo dài hoặc rút ngắn thời hiệu. Xuất phát từ bản chất này, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có tài sản sở hữu trí tuệ đang bị xâm phạm phải chủ động yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm trong thời gian do pháp luật quy định. Nếu hết thời hiệu khởi kiện, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ sẽ mất quyền khởi kiện theo quy định.

Phụ thuộc vào từng tranh chấp cụ thể và việc xác định bản chất của tranh chấp mà việc áp dụng thời hiệu sẽ có sự khác nhau. Điển hình như, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng liên quan đến sở hữu trí tuệ và yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trong khi, Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.

1.2 Có trường hợp ngoại lệ nào cho phép không áp dụng thời hiệu không?

Theo quy định của Bộ luật dân sự hiện hành, có một số trường hợp được cân nhắc là ngoại lệ bởi khi xảy ra một trong số các trường hợp này thì sẽ không áp dụng thời hiệu:

  1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
  2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
  3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
  4. Trường hợp khác do luật quy định.

Ngoài ra, khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật dẫn đến chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có quyền khởi kiện nhưng không thể khởi kiện thì thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan sẽ không tính vào thời hiệu khởi kiện.

1.3 Hậu quả pháp lý khi hết thời hiệu khởi kiện

Trường hợp chủ thể quyền sở hữu trí tuệ khởi kiện khi hết thời hiệu, và bên còn lại yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án, Tòa án sẽ phải đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 217 BLTTDS. Trừ trường hợp tranh chấp thuộc trường hợp [i] không áp dụng thời hiệu khởi kiện hoặc [ii] chứng minh được thời gian không thực hiện quyền khởi kiện là trở ngại khách quan thì thời gian diễn ra trở ngại khách quan sẽ không tính vào thời hiệu khởi kiện. Khi đó thời hiệu khởi kiện sẽ được kéo dài.

2. Áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp sở hữu trí tuệ liệu có đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hay không?

Theo quan điểm của người viết, việc áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp sở hữu trí tuệ không thật sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ. Đầu tiên, như đã đề cập tại phần mở đầu của bài viết, tài sản sở hữu trí tuệ là một loại tài sản đặc biệt bởi tính chất vô hình của chính loại tài sản này. Chủ sở hữu, về lý thuyết, họ không thể tự cầm giữ được tài sản sở hữu trí tuệ. Người sáng tạo tài sản sở hữu trí tuệ được công nhận là chủ sở hữu khi họ đầu tư tiền bạc, công sức, sự sáng tạo của họ để tạo nên tài sản sở hữu trí tuệ, đó có thể là tác phẩm, nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, đồng thời phải đáp ứng được điều kiện đăng ký bảo hộ đối với các đối tượng pháp luật có quy định bắt buộc. Thêm vào đó, việc nói tài sản sở hữu trí tuệ rất dễ bị xâm phạm là vì một tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm họ không nhất thiết phải nắm giữ chính tài sản đó, tức không có hành vi chuyển giao tài sản từ chủ sở hữu sang người thực hiện hành vi xâm phạm. Hành vi xâm phạm có thể được thực hiện đồng thời khi chủ sở hữu vẫn đang sử dụng và đang trong thời gian được bảo hộ độc quyền. Thứ hai, trừ bí mật kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu nổi tiếng thì các loại tài sản đa số đều được bảo hộ trong một thời hạn nhất định. Ý nghĩa quan trọng nhất của việc bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ đó là chủ sở hữu được độc quyền sử dụng tài sản đã được bảo hộ trong phạm vi và thời hạn bảo hộ.

Từ hai cơ sở nêu trên, nếu chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ biết có hành vi vi phạm nhưng không thực hiện quyền khởi kiện và dẫn đến hết thời hiệu khởi kiện thì chủ sở hữu không được yêu cầu Tòa án hoặc trọng tài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mặc dù tài sản sở hữu trí tuệ đó vẫn đang trong thời hạn được bảo hộ. Việc áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tài sản sở hữu trí tuệ vẫn đang trong thời hạn được bảo hộ theo quy định của luật sở hữu trí tuệ là điều chưa thật sự thuyết phục. Trên thực tế, đã có một vụ án mà Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm đã vì áp dụng quy định về hết thời hiệu khởi kiện dẫn đến vụ án bị đình chỉ giải quyết. Theo đó, nguyên đơn là chủ sở hữu của bằng độc quyền giải pháp hữu ích, được cấp bằng bảo hộ độc quyền vào ngày 20/12/2002 và có hiệu lực đến 20/08/2011. Tại thời điểm nguyên đơn phát hiện có hành vi xâm phạm tài sản sở hữu trí tuệ, nguyên đơn đã không khởi kiện. Thay vào đó nguyên đơn đã trình báo với Ủy ban nhân dân cấp huyện, gửi thông báo cho bị đơn để yêu cầu chấm dứt vi phạm. Vụ việc cũng đã được Ủy ban nhân dân cấp huyện, Đoàn Thanh Tra Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp xử lý. Tuy nhiên, từ thời điểm nguyên đơn phát hiện có hành vi xâm phạm [2003] cho đến thời điểm Ủy ban nhân dân chuyển hồ sơ cho Tòa án giải quyết vào ngày 24/3/2008, Tòa án cấp phúc thẩm đã áp dụng quy định về hết thời hiệu khởi kiện để đình chỉ quyết vụ án. Trong vụ án tranh chấp này, nguyên đơn đã phải tốn rất nhiều thời gian để yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích của mình, bắt đầu từ năm 2003 cho đến vào tháng 7 năm 2011, Quyết định giám đốc thẩm số 06/2015/KDTM-GĐT đã hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và giao hồ sơ vụ án để xét xử sơ thẩm lại. Bài học kinh nghiệm từ vụ án tranh chấp nêu trên đó là nguyên đơn vẫn nên chủ động nộp đơn khởi kiện tại thời điểm phát hiện có hành vi xâm phạm. Việc thực hiện quyền khởi kiện và thực hiện đồng thời các biện pháp xử lý khác như bằng biện khác nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình.

Nếu chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ vì hết thời hiệu khởi kiện mà quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, không được pháp luật bảo vệ và bên thực hiện hành vi xâm phạm lại không bị cưỡng chế bắt buộc thực hiện nghĩa vụ là một điều đáng tiếc. Vụ án tranh chấp được nêu trên vẫn còn nhiều điểm bất cập trong quá trình tố tụng, từ việc xác định thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện, chứng cứ, hành vi vi phạm,Do đó, theo quan điểm của tác giả, nếu chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể chủ động đăng ký bảo hộ cho các tài sản sở hữu trí tuệ ngay khi tài sản được sáng tạo và chủ động áp dụng thêm nhiều biện pháp xử lý hành vi vi phạm đúng thời điểm thì đã hạn chế được rủi ro xảy ra. Việc bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ không chỉ đơn thuần là bảo vệ giá trị thương mại mà chính tổ chức, cá nhân đó có thể nhận được. Điều quan trọng là bảo vệ được công sức, uy tín kinh doanh của chính mình trên thị trường, ngăn chặn hành vi làm hàng nhái, hàng giả và góp phần bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng.

Bên cạnh biện pháp khởi kiện dân sự tại bài viết này, chủ sở hữu quyền sỡ hữu trí tuệ vẫn có thể xem xét và lựa chọn áp dụng các biện pháp xử lý tranh chấp khác liên quan đến sở hữu trí tuệ. Các biện pháp này sẽ được đề cập tại bài viết kế tiếp.

Một số biện pháp xử lý khác trong tranh chấp sở hữu trí tuệ

admin2021-11-19T14:49:54+07:00

Như đã trình bày nội dung ở bài viết trước, khi có tranh chấp, biện pháp đầu tiên mà chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ thường áp dụng là khởi kiện tại Tòa án hoặc Trọng tài để giải quyết tranh chấp. Nhưng với thời gian giải quyết kéo dài, khởi kiện dân sự không phải là một biện pháp tối ưu, biện pháp này cũng không giúp chủ sở hữu quyền ngăn chặn được hành vi vi phạm trong thời gian tiến hành khởi kiện. Do đó, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ không nên chỉ áp dụng một biện pháp khởi kiện để giải quyết tranh chấp và bỏ mặc để mặc hành vi xâm phạm diễn ra. Pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành đã mở ra rất nhiều phương án khác nhằm ngặn chặn, xử lý hành vi vi phạm. Theo đó, nội dung bài viết này sẽ tập trung phân tích một số các biện pháp xử lý khác trong tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ để chủ thể quyền có thể kết hợp áp dụng khi phát hiện hành vi xâm quyền.

1. Quy định chung về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Bên cạnh quyền khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây:

  1. Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
  2. Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
  3. Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Như vậy, về nguyên tắc thì chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có 04 quyền đương nhiên để chủ động tự bảo vệ tài sản sở hữu trí đang được bảo hộ. Căn cứ vào tính chất, mức độ xâm phạm mà tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự. Ngoài các biện pháp xử lý nêu trên, trong một số trường hợp cần thiết, tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm còn có thể bị áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính.

Tùy thuộc vào việc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ lựa chọn áp dụng biện pháp xử lý nào mà các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm sẽ có quyền giải quyết tương ứng. Điển hình như áp dụng biện pháp dân sự, hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án; áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp; áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền của cơ quan hải quan.

2. Xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính

Căn cứ quy định tại Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây bị xử phạt vi phạm hành chính:

  1. Thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
  2. Không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mặc dù đã được chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó
  3. Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;
  4. Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.
  5. Thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ.

Theo nguyên tắc chung, khi một tổ chức, cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính thì sẽ bị áp dụng biện pháp xử phạt chính, biện pháp xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả. Căn cứ theo tính chất, mức độ hành vi vi phạm mà cơ quan xử lý sẽ áp dụng các hình thức xử phạt tương ứng.

Theo đó, tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm tài sản sở hữu trí tuệ bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Ngoài ra, hình thức xử phạt bổ sung có thể sẽ được áp dụng đó là tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ; đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.

Liên quan đến biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ thì biện pháp khắc phục hậu quả được xem là cứng rắn và nghiêm khắc bởi sẽ gây ra sự ảnh hưởng và tác động to lớn đến tổ chức, cá nhân đang lưu hành sản phẩm sản phẩm có chứa dấu hiệu vi phạm đối với tài sản đang được bảo hộ. Cụ thể, biện pháp khắc phục hậu quả có thể sẽ được áp dụng đó là:

[i] Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ;

[ii] Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hoá.

[iii] Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.

Tuy nhiên, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ cũng nên lưu ý đến thời hiệu để yêu cầu xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể, thời hiệu yêu cầu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là 02 năm. Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là:

  • Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.
  • Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm.

3. Kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ

Một trong số các biện pháp mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ cần lưu ý để ngăn chặn triệt để hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đó là kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ. Việc áp dụng biện pháp kiểm soát hành hóa nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ bởi họ xứng đáng được hưởng phần lợi nhuận do chính tài sản sở hữu trí tuệ mang lại. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bảo vệ và gìn giữ được uy tín kinh doanh của chính mình trên thị trường nói chung và thị trường liên quan nói riêng.

Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền đề nghị cơ quan hải quan áp dụng biện pháp [1] tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; [2] kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Hai biện pháp kiểm soát này về mặt bản chất là khác nhau nhưng có ý nghĩa hỗ trợ lẫn nhau bởi biện pháp 1 thực hiện nhằm thu thập thông tin, chứng cứ về lô hàng để thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền và yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính. Trong khi đó, biện pháp 2 thực hiện nhằm thu thập thông tin để thực hiện quyền yêu cầu áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan. Tuy nhiên, giới hạn của quy định này đó là nhằm ngăn chặn sự lợi dụng quyền của chủ sở hữu mà có thể sẽ gây ra thiệt hại cho chủ thể bị yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Các biện pháp trên chỉ được áp dụng khi chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có yêu cầu áp dụng, chứng minh chủ thể mình là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và phải nộp khoản tiền bảo đảm bằng 20% giá trị lô hàng cần áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị lô hàng đó hoặc có chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác. Quy định này tương tự với việc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và cần phải được thực hiện theo một thủ tục do luật quy định.

4. Xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự

Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. Đối với hành vi phạm tội trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 05 năm đối với tội phạm ít nghiệm trọng và được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Theo đó, pháp luật hiện hành quy định hai tội danh liên quan hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đó là [i] tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và [ii] tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Trong đó:

[i] Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

+ Xử lý hình sự đối với cá nhân có hành vi phạm tội: Người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

+ Xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại có hành vi phạm tội: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

[ii] Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan

+ Xử lý hình sự đối với cá nhân có hành vi phạm tội:

Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:

[1] Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;

[2] Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình.

+ Xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại có hành vi phạm tội: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Tóm lại, dù pháp luật sở hữu trí tuệ nói riêng và pháp luật nói chung đã quy định rất nhiều các biện pháp xử lý tranh chấp khác nhau nhằm có cơ chế bảo vệ vừa bao quát vừa có chiều sâu nhằm bảo vệ chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ. Chưa kể, các điều ước quốc tế, hiệp định song phương mà Việt Nam là thành viên liên quan đến sở hữu trí tuệ cũng đã tạo ra nhiều cơ hội cho chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ [ví dụ như Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam Hoa Kỳ [các quy định về sở hữu trí tuệ], Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam Nhật Bản [các quy định về sở hữu trí tuệ], Hiệp định thương mại tự do Việt Nam Hàn Quốc [các quy định về sở hữu trí tuệ];]. Tuy nhiên, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ nên hiểu rằng mỗi biện pháp xử lý đều có những điều kiện và quy định riêng mà chủ sở hữu cần tuân thủ. Trong một số trường hợp cũng không thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ do nhũng giới hạn này. Chính vì thế, cách phòng ngừa và bảo vệ tốt nhất đó là chủ động bảo vệ tài sản sở hữu trí tuệ do mình sáng tạo. Tiếp theo đó, khi có tranh chấp xảy ra thì cần hiểu đúng và đầy đủ quy định pháp luật, đồng thời cần áp dụng linh hoạt hình thức xử lý tranh chấp nào là phù hợp để xem xét giải quyết nhanh chóng tranh chấp.

[1] Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 [Luật SHTT];

[2] Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 [Bộ luật hình sự].

[3] Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, sửa đổi năm 2020 [Luật xử lý vi phạm hành chính].

Video liên quan

Chủ Đề