Đánh giá doanh nghiệp nhà nước

Chương này đánh giá vai trò chủ sở hữu của Chính phủ Việt Nam so với Chương II của Bộ hướng dẫn về DNNN. Chương này phân tích mức độ độc lập của các hội đồng và sự sắp xếp của các chức năng sở hữu. Chương còn xem xét cách thức nhà nước thực hiện quyền sở hữu của mình theo cấu trúc pháp lý của từng doanh nghiệp.

Show

    Khuyến nghị tổng thể từ Bộ Hướng dẫn DNNN

    Nhà nước cần đóng vai trò chủ sở hữu có hiểu biết và tích cực, đảm bảo việc quản trị DNNN được thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm với mức độ chuyên nghiệp và hiệu quả cao.

    8.1. Đơn giản hóa hoạt động và hình thức pháp lý

    1. Chính phủ nên đơn giản hóa và chuẩn hóa các hình thức pháp lý của DNNN. Hoạt động của DNNN cần tuân thủ những nguyên tắc hoạt động doanh nghiệp được chấp nhận chung

    DNNN có thể hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp hiện hành không quy định hình thức pháp lý nào khác đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Công ty tư nhân (không có vốn nhà nước) có quyền hoạt động theo các mô hình này nên pháp luật không cho phép DNNN hoạt động theo bất kỳ mô hình độc quyền nào khác với các công ty khác (Xem ).

    Hộp ‎8.1. Các hình thức pháp lý mà DNNN hoạt động

    Điều 88 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định doanh nghiệp nhà nước là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, bao gồm:

    Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức quản lý dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, bao gồm:

    1. a) Doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ (Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ)
    2. b) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, trừ doanh nghiệp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

    Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, bao gồm:

    1. a) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ – công ty con;
    2. b) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

    Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này bao gồm:

    1. a) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ – công ty con;
    2. b) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

    Nguồn: Luật Doanh nghiệp năm 2020, https://thuvienphapluat.vn/

    Về cơ bản, nguyên tắc quản lý DNNN không khác nguyên tắc quản lý công ty tư nhân và công ty niêm yết. Về tổ chức hoạt động, DNNN phải tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật như các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, về quản lý, sử dụng vốn nhà nước, DNNN phải tuân thủ các quy định khác có liên quan. Hiện tại, pháp luật Việt Nam không trao bất kỳ quyền độc quyền hoặc tư cách pháp nhân duy nhất nào cho DNNN nhằm bảo vệ một phần hoặc toàn bộ DNNN khỏi tình trạng vỡ nợ hoặc phá sản. Tuy nhiên, trên thực tế, Chính phủ tăng khả năng tiếp cận ưu đãi các khoản vay và bảo lãnh của Chính phủ cho các DNNN đầu ngành, vì cho rằng các doanh nghiệp này phá sản sẽ dẫn đến sự bất ổn trên toàn ngành và nền kinh tế nói chung. Nhóm công tác của OECD được biết một số DNNN thường “cầu cứu” Chính phủ và/hoặc nhận hỗ trợ và can thiệp từ Chính phủ. Gần đây nhất, Vietnam Airlines đã được Chính phủ hỗ trợ giải quyết những khó khăn về tài chính do đại dịch COVID-19 gây ra.

    Một biện pháp quan trọng nhằm đảm bảo tính trung lập trong cạnh tranh là tránh giải cứu các DNNN tụt hậu bằng nguồn vốn viện trợ nhà nước và chấm dứt bảo lãnh của Chính phủ đối với nợ do DNNN phát hành. Trong khi các khoản bảo lãnh chính phủ đang được công bố công khai nhờ vào mức trần theo luật định áp dụng cho nợ công (60% GDP cho giai đoạn 2021-2025), Chính phủ có thể xem xét công bố các khoản nợ tiềm tàng đối với doanh nghiệp nhà nước (OECD, 2022[1]).

    Về lý thuyết, cơ cấu, thành phần của Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị (HĐQT) phụ thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong DNNN, Nhà nước thường là cổ đông duy nhất hoặc cổ đông đa số, có quyền chỉ định tất cả hoặc đa số thành viên trong Hội đồng thành viên và HĐQT.

    Về quan hệ lao động, DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước phải tuân thủ quy định của Bộ luật Lao động. Về nguyên tắc, các hình thức pháp lý của DNNN không có quy định phân biệt mức đãi ngộ cho người lao động (ví dụ như thù lao, quyền hưởng lương hưu và bảo vệ công ăn việc làm) như các loại hình công ty khác. Quyền lợi của người lao động trong DNNN được thực hiện theo quy định của Chính phủ, Bộ ngành, trong khi các doanh nghiệp khác phải thực hiện chính sách lao động theo cam kết, thỏa thuận với người lao động và quy định của Bộ luật Lao động.

    Chính phủ đã ban hành một số quy định về tiền lương, tiền thưởng đối với người lao động và người quản lý trong DNNN, chẳng hạn như Nghị định số 51/2016/NĐ-CP về quản lý lao động, tiền lương, tiền thưởng đối với người lao động làm việc trong công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; Nghị định số 52/2016/NĐ-CP về tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; và Nghị định số 53/2016/NĐ-CP về lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước.

    8.2. Can thiệp chính trị và quyền tự chủ hoạt động

    1. Chính phủ nên cho phép DNNN có quyền tự chủ hoàn toàn trong hoạt động để đạt được các mục tiêu đã xác định và hạn chế can thiệp vào hoạt động điều hành DNNN. Chính phủ trong vai trò cổ đông nên tránh thay đổi mục tiêu của DNNN theo các hình thức không minh bạch

    Quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của đại diện chủ sở hữu đóng vai trò ngăn chặn sự can thiệp của Chính phủ vào công tác quản lý hằng ngày trong DNNN. Các văn bản quy phạm pháp luật cũng quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của Chính phủ đối với DNNN; và quyền của DNNN trong hoạt động kinh doanh hằng ngày. Điều 5, Luật số 69/2014/QH1335 quy định rõ rằng cơ quan nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu và các cơ quan quản lý không được can thiệp vào hoạt động hằng ngày, quyết định kinh doanh của DNNN.

    Tuy nhiên, không rõ liệu có biện pháp bảo vệ nào để ngăn Chính phủ can thiệp vào việc quản lý hằng ngày trong DNNN hay không và DNNN có phải tuân theo các yêu cầu công bố thông tin trong trường hợp đó hay không. Ngoài ra, phạm vi giám sát của cơ quan đại diện tài sản thuộc sở hữu nhà nước chưa được phân định rõ ràng và chồng chéo với hoạt động giám sát, kiểm soát tài chính của Bộ Tài chính, vốn chịu trách nhiệm giám sát quá trình ra quyết định về hoạt động đầu tư, chế độ thù lao, báo cáo tài chính và cổ tức của DNNN. Luật này chưa quy định rõ trách nhiệm của các bộ chủ quản đối với DNNN.

    Các nghị định liên quan (Nghị định số 131/2018/NĐ-CP, Nghị định số 10/2019/NĐ-CP) có quy định cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp: cơ quan đại diện chủ sở hữu, Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị (HĐQT), Chủ tịch Hội đồng thành viên và Tổng giám đốc. Đồng thời, những văn bản này quy định các trường hợp, lĩnh vực mà Hội đồng thành viên quyết định, các lĩnh vực, trường hợp phải tham khảo ý kiến ​​của cơ quan đại diện chủ sở hữu và các lĩnh vực, trường hợp mà cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định. Điều 9 Nghị định số 10/2019/NĐ-CP quy định quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với điều lệ, chiến lược, kế hoạch của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước như sau:

    1. a) Cơ quan đại diện chủ sở hữu ban hành điều lệ và điều lệ sửa đổi, bổ sung của doanh nghiệp theo đề nghị của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ.
    2. b) Cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt để Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty quyết định kế hoạch 05 năm (bao gồm chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm) và kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.
    3. c) Quyết định phê duyệt các kế hoạch quy định tại khoản 2 Điều này phải bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
      1. i. Mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch;
      2. ii. Các chỉ tiêu đo lường doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách và các chỉ tiêu kế hoạch khác.
      3. iii. Các giải pháp thực hiện kế hoạch;
      4. iv. Phân công tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch.
      5. v. Các nội dung khác.

    Nhóm công tác của OECD nhận thấy DNNN không có toàn quyền tự chủ trong việc ra quyết định của mình. Các cơ quan sở hữu tại Việt Nam đóng vai trò trực tiếp hơn trong việc quản lý chiến lược của DNNN, cũng như trong việc bổ nhiệm Tổng giám đốc và lập kế hoạch kế nhiệm, chế độ đãi ngộ và khuyến khích điều hành. Theo thông lệ tốt, hầu hết các trách nhiệm này phải do hội đồng thực hiện.

    Đầu tiên là trách nhiệm của HĐTV tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước không được phân định rõ ràng với trách nhiệm của Tổng giám đốc cũng như chủ sở hữu vốn nhà nước. Đồng thời, HĐTV gồm những người đại diện phần vốn nhà nước. Mặc dù Chính phủ không trực tiếp chỉ đạo cấp quản lý DNNN, song thường chỉ đạo thông qua cơ quan đại diện chủ sở hữu khi lập, thực hiện phương án sản xuất kinh doanh. Các cơ quan sở hữu của Chính phủ (bao gồm các Bộ, ngành và CMSC) thường xuyên thông báo chính sách thương mại, chiến lược, quy định về hoạt động kinh doanh của DNNN cho Hội đồng thành viên/Chủ tịch/Người đại diện phần vốn nhà nước tại DNNN/các hội đồng tại DNNN.

    Ví dụ, khi một DNNN muốn đầu tư vào một dự án cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp đó thường phải tham khảo ý kiến ​​của một số bên liên quan bao gồm Bộ KH-ĐT và Bộ TC trước khi đưa ra bất kỳ kết luận nào. Tuy nhiên, do các bộ này không phải là nhà đầu tư chuyên nghiệp nên thường mất rất nhiều thời gian khi đưa ra quyết định. Đồng thời, Chính phủ có thể chỉ định DNNN thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh,... hoặc những nhiệm vụ mà doanh nghiệp tư nhân không có đủ điều kiện và nguồn lực để thực hiện.

    Theo quy định tại Điều 5 về thực hiện quyền, trách nhiệm của Chính phủ tại Nghị định số 10/2019/NĐ-CP, CMSC có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến ​​nghị Chính phủ: ban hành, sửa đổi, bổ sung quy chế của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và giao Ủy ban quản lý theo quy định của Chính phủ; ban hành, sửa đổi, bổ sung quy chế quản lý tài chính của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam.

    Đáng chú ý, Nghị định số 87/2015-NĐ-CP về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp cho phép Bộ Tài chính thực hiện vai trò giám sát hoạt động đầu tư, chế độ đãi ngộ, báo cáo tài chính và chính sách cổ tức của DNNN.

    Hiện tại, việc công bố thông tin của DNNN được áp dụng theo Luật Doanh nghiệp năm 2020 (Điều 109 và 110) và Nghị định số 47/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 04 năm 2021 của Chính phủ. Ngoài ra, DNNN đã đăng ký công ty cổ phần giao dịch đại chúng phải tuân thủ thủ tục công bố thông tin theo quy định của Luật Chứng khoán.

    Các chính sách, chiến lược thương mại đều được cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước thông báo rộng rãi cho doanh nghiệp, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị DNNN và doanh nghiệp có vốn góp nhà nước bằng văn bản, trên trang thông tin điện tử, thông cáo báo chí, trừ nội dung được cơ quan có thẩm quyền quy định là bí mật nhà nước, tuy nhiên thông tin không được tổng hợp trên các trang web này.

    8.3. Tính độc lập của các hội đồng

    1. Nhà nước cần cho phép các hội đồng của DNNN thực hiện trách nhiệm của mình và tôn trọng sự độc lập của họ.

    Mức độ chịu trách nhiệm và quyền tự chủ của các hội đồng DNNN trong việc xác định chiến lược công ty sao cho phù hợp với mục tiêu do Chính phủ xác định. Các quy trình mà Chính phủ hoặc đơn vị sở hữu vốn nhà nước sử dụng để đặt ra và truyền đạt mục tiêu cho các hội đồng của DNNN

    Các chiến lược của DNNN thường được xác định trong khoảng thời gian 05 năm (ví dụ như giai đoạn 2021-2025). Quy trình phê duyệt chiến lược của DNNN được quy định trong Luật 69/2014/QH13 Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp và Nghị định số 10/2019/NĐ-CP ngày 30/1/2019 của Chính phủ, cụ thể như sau:

    • Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập: Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược.
    • Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước do cơ quan đại diện chủ sở hữu thành lập: Cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt chiến lược để Hội đồng quản trị và Chủ tịch công ty quyết định.
    • Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ từ 36% vốn trở lên: Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp báo cáo, xin ý kiến ​​cơ quan đại diện chủ sở hữu trước khi đưa ra ý kiến, biểu quyết và quyết định phần vốn nhà nước tại Đại hội đồng cổ đông, cuộc họp Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật và Điều lệ doanh nghiệp.

    Chiến lược của doanh nghiệp được xây dựng dựa trên định hướng của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của quốc gia, cũng như quy hoạch cả nước về các ngành, lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp. Chiến lược của DNNN chỉ hoàn thiện và được cấp có thẩm quyền phê duyệt sau khi đã phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị của doanh nghiệp có trách nhiệm xem xét các nội dung này khi xây dựng chiến lược cho doanh nghiệp.

    Hiện tại, HĐTV/HĐQT vẫn chưa được toàn quyền phụ trách và tự chủ trong việc xây dựng chiến lược cho DNNN. Để trở thành thành viên HĐQT của DNNN, người đó phải được cổ đông (cơ quan đại diện chủ sở hữu) đề cử và được đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) bầu. Đối với công ty 100% vốn nhà nước, Chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên của công ty do cơ quan đại diện chủ sở hữu bổ nhiệm.

    Trách nhiệm, quyền hạn của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần được quy định cụ thể tại Luật 69/2014/QH13 Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Nghị định số 10/2019/NĐ-CP ngày 30/1/2019 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Theo đó, thành viên HĐQT được cơ quan đại diện chủ sở hữu ủy quyền làm đại diện phần vốn nhà nước phải thực hiện quyền, trách nhiệm của mình theo hướng dẫn của cơ quan đại diện chủ sở hữu và báo cáo đầy đủ với cơ quan đại diện chủ sở hữu theo từng trường hợp quy định. Trước khi biểu quyết tại Hội đồng quản trị, người đại diện phần vốn nhà nước phải tham khảo ý kiến ​​của cơ quan đại diện chủ sở hữu về nội dung biểu quyết (xem ).

    DNNN xây dựng và đề xuất nội dung phát triển chiến lược và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hội đồng quản trị (HĐQT) của DNNN xây dựng phương hướng phát triển DNNN của mình phù hợp với mục tiêu phát triển của Chính phủ đề ra. Phương hướng phát triển DNNN được thông qua tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông. Cơ quan đại diện chủ sở hữu chỉ đạo người đại diện phần vốn nhà nước tại DNNN thông qua phương hướng phát triển tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông. Đánh giá quyền tự chủ của hội đồng được trình bày chi tiết tại Chương 7 về Trách nhiệm của Hội đồng quản trị.

    Hộp ‎8.2. Quyền, trách nhiệm của người đại diện phần vốn nhà nước tại Luật quản lý vốn nhà nước năm 2014

    Điều 48. Quyền, trách nhiệm của người đại diện phần vốn nhà nước

    Xin ý kiến cơ quan đại diện chủ sở hữu trước khi tham gia ý kiến, biểu quyết và quyết định tại Đại hội đồng cổ đông, cuộc họp của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên về các vấn đề sau đây:

    1. 1. Ngành, nghề kinh doanh, mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển, kế hoạch sản xuất, kinh doanh;
    2. 2. Ban hành điều lệ, sửa đổi, bổ sung điều lệ; tăng hoặc giảm vốn điều lệ; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, khen thưởng, xử lý vi phạm đối với thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc;
    3. 3. Phân phối lợi nhuận, trích lập các quỹ hằng năm của doanh nghiệp;
    4. 4. Tổ chức lại, giải thể, phá sản;
    5. 5. đ) Các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên.

    Báo cáo kịp thời về việc công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoạt động thua lỗ, không bảo đảm khả năng thanh toán, không hoàn thành nhiệm vụ được giao và những trường hợp sai phạm khác.

    Định kỳ hằng quý, hằng năm và đột xuất theo yêu cầu của cơ quan đại diện chủ sở hữu, người đại diện phần vốn nhà nước tổng hợp, báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính và kiến nghị giải pháp.

    Yêu cầu công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nộp vào ngân sách nhà nước khoản lợi nhuận, cổ tức được chia tương ứng với phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty.

    Không được tiếp tục làm người đại diện khi thực hiện không đúng quyền, trách nhiệm được giao hoặc không còn đáp ứng tiêu chuẩn của người đại diện.

    Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi vi phạm gây tổn thất vốn nhà nước.

    Thực hiện quyền, trách nhiệm khác quy định tại điều lệ công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, pháp luật về doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.

    Nguồn: Luật Quản lý vốn nhà nước năm 2014, Tài liệu đệ trình của Chính phủ Việt Nam, Cổng thông tin điện tử pháp luật Việt Nam, https://thuvienphapluat.vn/.

    8.4. Tập trung hóa chức năng sở hữu

    1. Việc thực hiện các quyền sở hữu cần được xác định rõ ràng trong hệ thống hành chính nhà nước. Việc thực thi các quyền sở hữu cần được thực hiện tập trung trong một cơ quan sở hữu, hoặc nếu không thể, do một cơ quan điều phối thực hiện. “Cơ quan sở hữu” này phải có năng lực và khả năng thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của mình.

    Theo quy định tại Luật 69/2014/QH13 Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, “cơ quan đại diện chủ sở hữu” là cơ quan, tổ chức được Chính phủ giao thực hiện quyền, nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp do Chính phủ quyết định thành lập, quản lý, tiếp nhận quyền, nghĩa vụ đối với một phần vốn nhà nước đầu tư vào các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Theo Luật này, các cơ quan trong khu vực công không bị giới hạn tham gia quản lý quyền sở hữu, thực hiện chức năng chủ sở hữu của DNNN.

    Khung chính sách đối với chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước ở Việt Nam đã dần hoàn thiện trong những năm gần đây. Chính phủ đã thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC) để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 19 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (trừ một số lĩnh vực đặc thù như quốc phòng). Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện chức năng đại diện cơ quan sở hữu tại các doanh nghiệp trên địa bàn.

    Hiện nay, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC), SCIC, một số Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DNNN (xem ). Tất cả các cơ quan đại diện chủ sở hữu phải tuân thủ quy định của Luật 69 về bổ nhiệm các hội đồng và kiểm soát hoạt động. Mặc dù có nhiều cơ quan đại diện chủ sở hữu như đã đề cập ở trên, song tại mỗi DNNN chỉ có một cơ quan đại diện chủ sở hữu và chịu trách nhiệm trực tiếp đối với DNNN đó. Quy định pháp luật thường xuyên được sửa đổi, bổ sung để giải quyết những khó khăn, vướng mắc.

    CMSC được Chính phủ thành lập năm 2018, thực hiện vai trò là cơ quan đại diện chủ sở hữu tại 19 tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, trừ lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, v.v. CMSC thực hiện quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu tại DNNN theo quy định tại Luật 69/2014/QH13 Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định số 131/2018/NĐ-CP và Nghị định số 10/2019/NĐ-CP. CMSC cũng phải tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý tài chính doanh nghiệp, giám sát tài chính doanh nghiệp đối với DNNN mà mình là đại diện chủ sở hữu. Theo quy định này, khi thực hiện quyền, trách nhiệm đại diện chủ sở hữu, CMSC có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước khác giám sát tài chính, phân loại doanh nghiệp, rà soát, thẩm định các dự án đầu tư, cho vay, v.v. CMSC và DNNN do CMSC làm đại diện chủ sở hữu phải quản lý, sử dụng vốn nhà nước phù hợp với chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển ngành đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. CMSC làm việc với các cơ quan liên quan để ủy thác hoặc giao DNNN thực hiện các dịch vụ vì lợi ích chung hoặc các nhiệm vụ kinh tế - xã hội khác theo quy định của pháp luật.

    Hộp ‎8.3. Nghị định số 10/2019/NĐ-CP về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước

    Chương I, Điều 4 - Cơ quan đại diện chủ sở hữu

    Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là cơ quan đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ.

    Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Bộ), Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) là cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với các đối tượng sau đây:

    1. 1. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp do Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc được giao quản lý và không thuộc đối tượng chuyển giao về Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước theo quy định của pháp luật;
    2. 2. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp thuộc đối tượng chuyển giao về Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước trong thời gian chưa chuyển giao.

    Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp được chuyển giao từ các Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật.

    Nguồn: Tài liệu đệ trình của Chính phủ Việt Nam, Cổng thông tin điện tử pháp luật Việt Nam.

    Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) là doanh nghiệp có chức năng thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các Bộ và địa phương. Các doanh nghiệp do CMSC và SCIC đại diện hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, không cố định cho một số ngành nhất định của nền kinh tế. Chính phủ hiện đang ưu tiên đẩy mạnh chuyển giao doanh nghiệp về SCIC.

    8.5. Trách nhiệm giải trình của chủ thể sở hữu

    1. Cơ quan sở hữu phải chịu trách nhiệm trước các cơ quan đại diện liên quan và phải xác định rõ ràng mối quan hệ với các cơ quan nhà nước liên quan, kể cả cơ quan kiểm toán tối cao của Nhà nước.

    Các Bộ có trách nhiệm xây dựng hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định, chính sách về quản lý các loại hình doanh nghiệp trong xã hội, trong đó có DNNN, và trình Thủ tướng Chính phủ. Theo quy định nêu trên, các Bộ, cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước căn cứ yêu cầu của Chính phủ phải thường xuyên báo cáo Chính phủ về tình hình thực hiện chính sách tài chính ngành, lĩnh vực của DNNN và đề xuất, thực hiện các giải pháp khả thi trong phạm vi quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Ví dụ, Bộ Tài chính xây dựng chính sách và thu thuế từ DNNN. Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ, Quốc hội điều chỉnh chính sách thuế theo yêu cầu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 05 năm cho từng thời kỳ.

    Kiểm toán Nhà nước là cơ quan nhà nước chịu sự quản lý của Quốc hội. Kiểm toán Nhà nước có quyền thanh tra, kiểm toán việc sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước cho hoạt động của các cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, bao gồm cả CMSC; kiểm tra, kiểm toán việc sử dụng vốn nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do các cơ quan này làm đại diện chủ sở hữu. Theo quy định tại Điều 9, 10 và 11 Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đưa ra đánh giá, kết luận và kiến ​​nghị về quản lý, sử dụng công quỹ và tài sản công.

    8.6. Nhà nước thực hiện quyền sở hữu

    1. Nhà nước phải hành động với tư cách chủ sở hữu tích cực và có hiểu biết và phải thực hiện quyền sở hữu phù hợp với cơ cấu pháp lý của mỗi doanh nghiệp. Các trách nhiệm chính của Nhà nước bao gồm:

    F.1. Có đại diện tại Đại hội đồng cổ đông và biểu quyết và thực hiện hiệu quả quyền biểu quyết;

    Theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, Nhà nước với tư cách là cổ đông tại các công ty cổ phần, về nguyên tắc, có quyền và lợi ích như các cổ đông khác. Luật này quy định Nhà nước chỉ nên đóng vai trò là cổ đông, chứ không phải là cơ quan quản lý cấp cao. Với tư cách là cổ đông, Nhà nước tham gia vào các quyết định kinh doanh và nhân sự cấp doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn nhà nước trong vốn điều lệ của DNNN.

    Căn cứ quy định của cơ quan đại diện chủ sở hữu về quyền, nghĩa vụ của người đại diện phần vốn nhà nước tại các cuộc họp HĐQT và đại hội đồng cổ đông, đối với DNNN là công ty cổ phần, người đại diện phần vốn lấy ý kiến ​​và xin ý kiến ​​chấp thuận của cơ quan đại diện chủ sở hữu (cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước) trước khi biểu quyết tại đại hội đồng cổ đông. Trình tự, thủ tục và phương thức hoạt động của Hội đồng thành viên đối với công ty 100% vốn nhà nước được quy định tại Luật 69/2014/QH13 Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp năm 2020 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Cụ thể, chế độ, điều kiện làm việc và thủ tục tiến hành họp Hội đồng thành viên của công ty 100% vốn nhà nước thực hiện theo quy định tại Điều 98 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

    F.2. [Các trách nhiệm chính của Nhà nước bao gồm:] Xây dựng quy trình đề cử HĐQT rõ ràng, dựa trên năng lực, và minh bạch ở các doanh nghiệp mà nhà nước sở hữu toàn bộ hoặc phần lớn cổ phần và chủ động tham gia vào việc đề cử HĐQT của tất cả các DNNN và góp phần tạo nên sự đa dạng của HĐQT;

    Chưa ban hành khung chính sách để đảm bảo quy trình đề cử hội đồng minh bạch và chặt chẽ. Thủ tục đề cử người đại diện vào HĐQT thực hiện theo quy định của Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Nghị định số 159/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ về quản lý người giữ chức danh, chức vụ và người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Xem ). Quy trình bầu HĐQT tại DNNN phải tuân thủ Luật Doanh nghiệp 2020 và Quy chế ứng cử, đề cử và bầu cử của Đại hội đồng cổ đông.

    Hộp ‎8.4. Yêu cầu đối với việc cử người đại diện phần vốn nhà nước tại Nghị định số 159/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ

    Điều 48. Hồ sơ cử người đại diện phần vốn nhà nước

    Tờ trình về việc đề nghị cử người đại diện phần vốn nhà nước do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ký.

    Sơ yếu lý lịch do cá nhân tự khai theo mẫu quy định, được cấp có thẩm quyền xác nhận, có dán ảnh màu khổ 4x6 cm, chụp trong thời gian không quá 06 tháng.

    Bản tự kiểm điểm 3 năm công tác gần nhất.

    Nhận xét, đánh giá của tập thể lãnh đạo và cấp ủy cơ quan, tổ chức đang quản lý người được đề nghị cử làm người đại diện phần vốn nhà nước.

    Kết luận của cấp ủy có thẩm quyền về tiêu chuẩn chính trị.

    Nhận xét của chi ủy nơi cư trú đối với bản thân và gia đình. Trường hợp nơi cư trú của bản thân khác với nơi cư trú của gia đình thì phải lấy nhận xét của chi ủy nơi bản thân cư trú và nơi gia đình cư trú.

    Bản kê khai tài sản, thu nhập theo mẫu quy định.

    Bản sao các văn bằng, chứng chỉ theo yêu cầu của tiêu chuẩn chức vụ, chức danh bổ nhiệm. Trường hợp nhân sự có bằng tốt nghiệp do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp thì phải được công nhận tại Việt Nam theo quy định.

    Giấy khám sức khỏe của cơ sở y tế có thẩm quyền cấp trong thời hạn 06 tháng.

    Bản cam kết tuân thủ các chủ trương, nghị quyết, chỉ đạo của chủ sở hữu và việc thực hiện các vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của người đại diện phần vốn nhà nước với chủ sở hữu đã được cơ quan đại diện chủ sở hữu thông qua.

    Nguồn: Nghị định số 159/2020/NĐ-CP, Cổng thông tin điện tử pháp luật Việt Nam.

    Ở Việt Nam, đối với DNNN sở hữu 100% vốn, tất cả các ứng viên tiềm năng phải do các hội đồng của DNNN đề xuất và cơ quan nhà nước đề cử. Trong các cuộc họp cổ đông, những ứng viên do bộ trưởng đề cử phải được biểu quyết vào hội đồng của DNNN. Tuy nhiên, khi tiến hành quy trình tái cơ cấu hoặc thiếu ứng viên, Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng khác hoặc các cơ quan liên quan được ủy quyền bổ nhiệm trực tiếp vào hội đồng. Trên thực tế, Chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên thường do cơ quan đại diện chủ sở hữu bổ nhiệm. Khi các cơ quan nhà nước đề cử một quan chức nhà nước vào hội đồng của DNNN, thì người đó sẽ không còn hoạt động như một quan chức nữa.

    Thủ tục bầu HĐQT đối với DNNN nắm giữ một phần vốn được thực hiện theo hình thức biểu quyết dồn phiếu theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Điều lệ công ty cổ phần. Tại Đại hội đồng cổ đông, cổ đông có cổ phần biểu quyết được gộp số phiếu biểu quyết của mình lại với nhau khi đề cử thành viên HĐQT. Việc đề cử thành viên HĐQT trong công ty cổ phần phụ thuộc vào số lượng cổ phần mà người đó nắm giữ trong công ty theo quy định tại Điều lệ công ty cổ phần. Nếu Nhà nước nắm giữ nhiều cổ phần hơn số cổ phần tối thiểu quy định thì Nhà nước sẽ có quyền đề cử. Nếu không, Nhà nước sẽ phải thuyết phục các cổ đông khác tham gia đề cử. Số lượng ứng cử viên mà mỗi nhóm có thể đề cử phụ thuộc vào số lượng ứng viên mà Đại hội đồng cổ đông quyết định và tỷ lệ cổ phần mà mỗi nhóm cổ đông nắm giữ. Không quảng cáo rộng rãi về vị trí tuyển dụng trong hội đồng của DNNN và không sử dụng công ty, cá nhân cung cấp dịch vụ tuyển dụng nhân sự điều hành.

    F.3. [Các trách nhiệm chính của Nhà nước bao gồm:] Thiết lập và giám sát thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu chung cho DNNN, bao gồm các mục tiêu tài chính, mục tiêu cơ cấu vốn, và mức độ chịu đựng rủi ro;

    Cơ quan đại diện chủ sở hữu có trách nhiệm giám sát DNNN thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ được giao, bao gồm cả mục tiêu, nhiệm vụ tài chính. Ví dụ, các nhiệm vụ, mục tiêu của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước do Nhà nước giám sát thông qua cơ quan đại diện chủ sở hữu. Mục tiêu mà Nhà nước đặt ra cho các công ty này bao gồm mục tiêu tài chính và mục tiêu cơ cấu vốn, nhưng không có quy định về mức độ chấp nhận rủi ro.

    Theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 10/2019/NĐ-CP, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước năm 2014 và quy định pháp luật có liên quan, cơ quan đại diện chủ sở hữu có quyền, trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của DNNN. Trong đó, Khoản 4 Điều 9 Nghị định số 10/2019/NĐ-CP quy định vai trò của cơ quan đại diện chủ sở hữu trong việc giám sát, kiểm tra thực hiện kế hoạch đã được phê duyệt như sau:

    1. a) Cơ quan đại diện chủ sở hữu phải thực hiện giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch quy định tại khoản 2 Điều này và đánh giá kết quả thực hiện.
    2. b) Cơ quan đại diện chủ sở hữu hướng dẫn, đôn đốc doanh nghiệp xây dựng, gửi báo cáo giữa kỳ và báo cáo cuối kỳ về tình hình thực hiện các kế hoạch để phục vụ công tác giám sát, kiểm tra, bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
      1. i. Tình hình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch được giao;
      2. ii. Tình hình thực hiện các giải pháp đã đề ra trong kế hoạch;
      3. iii. Hạn chế, nguyên nhân của việc không thực hiện hoặc thực hiện không tốt kế hoạch (nếu có);
      4. iv. Các giải pháp tiếp theo để hoàn thành các mục tiêu trong kế hoạch kỳ kế tiếp.
    3. c) Trình tự và thời hạn gửi các báo cáo thực hiện theo quy định Chính phủ về chế độ giám sát, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ được giao của doanh nghiệp nhà nước.

    F.4. [Các trách nhiệm chính của Nhà nước bao gồm:] Thiết lập hệ thống báo cáo cho phép cơ quan sở hữu thường xuyên giám sát, kiểm toán, và đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN và theo dõi, giám sát sự tuân thủ các chuẩn mực quản trị công ty hiện hành;

    Đối với các bộ, ngành, giám sát, quản lý vốn Nhà nước theo ngành, lĩnh vực, quản lý thông qua chế độ báo cáo định kỳ được quy định trong các chính sách cụ thể; tiến hành kiểm tra định kỳ (phối hợp với cơ quan sở hữu) việc thực hiện chính sách, kiểm tra việc triển khai các dự án hoặc toàn bộ DNNN theo chỉ đạo của Chính phủ hoặc theo yêu cầu của cấp có thẩm quyền nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm.

    Cơ quan sở hữu hiện đang giám sát hoạt động của DNNN và cơ chế báo cáo độc lập DNNN theo quy định của Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Cơ quan sở hữu có thể thực hiện kiểm soát thông qua Ban kiểm soát do cơ quan đại diện chủ sở hữu thành lập; báo cáo định kỳ/đột xuất; thanh tra, kiểm tra định kỳ/đột xuất; và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

    Đối với DNNN là công ty cổ phần giao dịch đại chúng, việc báo cáo của DNNN phải tuân thủ quy định của pháp luật về chứng khoán. Các cơ quan mà DNNN thường xuyên báo cáo bao gồm cơ quan đại diện chủ sở hữu, Bộ KH-ĐT, Bộ TC và Bộ LĐ-TBXH. DNNN nằm trong danh mục đầu tư của CMSC phải báo cáo đầy đủ các vấn đề thuộc diện phải báo cáo CMSC theo quy định của pháp luật. CMSC thực hiện giám sát tài chính doanh nghiệp đối với DNNN trong danh mục đầu tư của mình.

    Ngoài các báo cáo áp dụng chung cho doanh nghiệp (như báo cáo thuế, báo cáo lao động, thực hiện bảo hiểm xã hội ...), DNNN còn phải nộp báo cáo định kỳ về báo cáo tài chính và tình hình sử dụng vốn nhà nước cho các cơ quan sở hữu; báo cáo thống kê, cụ thể theo yêu cầu của các Bộ, cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực. Ví dụ, báo cáo nợ công về việc sử dụng trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và báo cáo về các khoản vay nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh phải được trình lên Bộ TC.

    Ngoài ra, tùy theo ngành, nghề kinh doanh cụ thể, doanh nghiệp còn phải báo cáo cơ quan quản lý chuyên ngành có liên quan theo văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước Mobifone nằm trong danh mục đầu tư của CMSC phải báo cáo Cục Viễn thông - Bộ Thông tin và Truyền thông theo Luật Viễn thông 2009, đồng thời báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về các vấn đề liên quan đến việc cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian và báo cáo Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử về các vấn đề liên quan đến việc cung cấp dịch vụ thông tin.

    Tuy nhiên, nhóm công tác của OECD nhận thấy rằng trên thực tế, tiền lương và thù lao của HĐQT DNNN vẫn chưa dựa trên đánh giá của đại diện chủ sở hữu nhà nước về hiệu quả công việc và gắn với KPI của doanh nghiệp (năng suất, lợi nhuận, v.v.), điều đó cho thấy HĐQT chưa đủ trách nhiệm giải trình trong việc điều hành doanh nghiệp. Nhìn chung, tiền lương và thù lao của HĐQT trong DNNN thấp hơn khu vực tư nhân.