Gãy chân mất bao lâu thì lành
Trong thời gian phục hồi thì có những bài tập nào để tăng cường sức khỏe và hỗ trợ xương khớp mau lành hay không? (Facebook Nông Sản Vườn). Trả lời: Trường hợp gãy xương vùng cẳng tay thường khoảng 3 tháng, xương ở những ngón tay thì sẽ lành nhanh hơn. Ở xương đùi hoặc xương cẳng chân sẽ mất khoảng 4-6 tháng mới lành. Thời gian lành còn tùy thuộc vào kiểu gãy và cơ địa của từng người. Trong quá trình xương của bạn chưa lành thì không nên vận động gì nhiều ngoài những bài tập phục hồi ở vùng khớp. Đó là những bài tập với cường độ nhẹ nhàng để giữ cho cơ đừng teo và khớp đừng cứng. Khi xương đã lành, lúc đó bạn mới bắt đầu thực hiện những bài tập để phục hồi hoàn toàn về lực cơ, độ thăng bằng, tính phản xạ. Sau đó, mới đến giai đoạn bạn có thể dần hoạt động thể thao trở lại. Điều cần thiết là bạn nên đến gặp bác sĩ để chụp X quang và kiểm tra chính xác phần chấn thương của mình đang ở trong giai đoạn nào, xác định được xương đã lành hay chưa, thì mới có giáo án luyện tập phù hợp. Ths. BS Nguyễn Thị Song Hà Gãy xương cẳng chân là tình trạng gãy một hoặc cả hai xương thuộc cẳng chân, thường xảy ra sau té ngã, va đập hoặc có một lực tác động cực mạnh lên chân. Sau chấn thương, bệnh nhân có thể bị gãy kín hoặc gãy hở. Tùy thuộc vào tình trạng, bác sĩ sẽ tiến hành sơ cứu và điều trị gãy xương với những phương pháp thích hợp nhất. Cẳng chân có hai xương, bao gồm xương mác và xương chày. Trong đó xương chày là một trong những xương lớn, dài và khỏe nhất của cơ thể, nằm trước và bên trong của cẳng chân. Xương mác là xương dài, thon, nằm phía sau xương chày và bên ngoài cẳng chân. Cẳng chân có bốn khoang, thành khoang chắc nhưng cấu tạo khoang hẹp. Do đó nếu có gãy xương gây phù nề kèm theo chảy máu trong khoang, bệnh nhân sẽ dễ mắc hội chứng chèn ép khoang và tăng nguy cơ cụt chân. Gãy xương cẳng chân là tình trạng một hoặc cả hai xương của cẳng chân có vết nứt/ gãy. Tuy nhiên phần lớn các trường hợp chỉ có một xương gãy (gãy xương mác/ gãy xương chày). Tùy thuộc vào vị trí và lực tác động, bệnh nhân có thể bị gãy xương kín hoặc gãy xương hở, có chèn ép khoang hoặc không. Thông thường gãy thấp dễ dẫn đến gãy hở, gãy cao dễ dẫn đến chèn ép khoang. Gãy xương cẳng chân cần được sơ cứu, điều trị kịp thời và đúng cách để giảm nguy cơ nhiễm trùng, sốc và nhiều biến chứng nghiêm trọng khác. Gãy xương cẳng chân thường xảy ra do những nguyên nhân dưới đây:
Gãy xương cẳng chân có hai cơ chế:
So với chấn thương gián tiếp, chấn thương trực tiếp gây ra những tổn thương phần mềm với mức độ nghiêm trọng hơn. Gãy xương cẳng chân thường có mức độ phức tạp cao. Sau khi xương gãy, người bệnh sẽ nhận thấy những triệu chứng nghiêm trọng sau:
Có nhiều cách phân loại gãy xương cẳng chân, cụ thể:
Phân loại gãy xương kín cẳng chân theo A.O: Độ A: Gãy đơn giản
Độ B: Gãy có mảnh rời
Độ C: Gãy phức tạp
Gãy xương mác
Theo Gustilo và Anderson (1984), gãy xương hở được chia thành ba mức độ. Cụ thể:
Gãy xương cẳng chân (đặc biệt là gãy thân xương chày) thường nguy hiểm và có biến chứng nghiêm trọng hơn so với những trường hợp gãy xương khác. Dưới đây là những biến chứng có thể gặp: Những biến chứng có thể xảy ra ngay khi xương gãy:
Những biến chứng dưới đây có thể xuất hiện muộn hơn, khoảng trong và sau thời gian điều trị gãy xương cẳng chân:
Ngay khi bị gãy xương cẳng chân, người bệnh cần giữ bình tĩnh. Sau đó thực hiện những bước xử lý và cố định tạm thời gãy xương. Điều này giúp hạn chế tối đa nguy cơ nhiễm trùng, gãy xương thêm di lệch và tổn thương phần mềm. Người bệnh cần giữ bình tĩnh và thực hiện những bước xử lý dưới đây sau khi té ngã/ va đập gây gãy xương cẳng chân.
Những bước cơ bản trong cố định tạm thời gãy xương cẳng chân: Chuẩn bị
Tư thế bệnh nhân
Đặt nẹp và đệm lót
Cố định nẹp
Hỗ trợ chân gãy
Trong quá trình thăm khám, bác sĩ sẽ tiến hành kiểm tra vùng bị ảnh hưởng. Sau đó đánh giá mức độ nghiêm trọng dựa trên những yếu tố sau:
Ngoài ra người bệnh sẽ được chụp X-quang để xác định chính xác loại gãy xương, vị trí của vết gãy và mức độ tổn thương của các khớp lân cận. Nếu gãy xương hở gây tổn thương phần mềm nhiều, bác sĩ có thể chỉ định thêm một số kỹ thuật chẩn đoán chi tiết hơn. Cụ thể như chụp cộng hưởng từ (MRI) và chụp cắt lớp vi tính (CT). Tùy thuộc vào vị trí xương gãy và loại gãy xương, phương pháp điều trị gãy xương cẳng chân không giống nhau ở mỗi đối tượng. Những phương pháp thường được áp dụng: Nghỉ ngơi và bất động ngắn hạn được áp dụng cho những bệnh nhân bị gãy xương do căng thẳng. Biện pháp này có tác dụng tạo điều kiện và thời gian cho xương gãy tự lành, giảm áp lực và ngăn những tác động bên ngoài làm nặng thêm vết nứt, hạn chế phát sinh cơn đau. Sau một thời gian nghỉ ngơi và bất động, người bệnh nên đi bộ và duy trì vận động với những bài tập nhẹ nhàng. Hạn chế tối đa việc lạm dụng và tăng áp lực lên bàn chân. Bó bột điều trị gãy xương cẳng chân được áp dụng cho những trường hợp gãy di lệch ít hoặc không di lệch. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ sẽ tiến hành bó bột đùi, cẳng chân và bàn chân có rạch dọc. Bệnh nhân ngồi với tư thế gối hơi gấp bàn chân 90° trong khi bó bột. Bệnh nhân được hướng dẫn nghỉ ngơi và hạn chế vận động tạm thời. Sau 7 – 10 ngày hoặc khi dấu hiệu sưng nề thuyên giảm, người bệnh có thể được thay bột khác hoặc quấn thêm bột kín nếu bột quá lỏng. Trong 3 tuần đầu, bệnh nhân được hướng dẫn dạng, khép và đưa cao cẳng chân. Trong những tuần tiếp theo, tập đi với nạng và tập chống chân bệnh để phục hồi vận động và hạn chế rối loạn dinh dưỡng. Sau 8 – 10 tuần có thể cắt bột. Ngoài ra bó bột cũng được áp dụng cho những bệnh nhân bị gãy xương cẳng chân đã nắn chỉnh hoặc điều trị phẫu thuật. Đối với những trường hợp này, bó bột nhằm vào mục đích giữ cho xương gãy nằm yên, không bị di lệch trong quá trình lành lại. Đối với những bệnh nhân bị gãy xương cẳng chân có di lệch nhiều, bác sĩ sẽ tiến hành gây tê ổ gãy và nắn/ kéo xương ngay khi chẩn đoán xong. Thông thường người bệnh được nắn xương trên khung kéo với kiểu Boehler, dùng tạ 7 – 14kg để kéo. Thời gian thực hiện từ 10 – 20 phút. Mục đích:
Sau nắn và kéo chỉnh xương, bác sĩ tiến hành bó bột đùi, cẳng chân và bàn chân để giữ cho các đầu xương gãy ở vị trí đúng, không di lệch. Nếu còn di lệch ít (kiểm tra trên hình ảnh X-quang), người bệnh được hướng dẫn nằm trên giường với tư thế kê cao chân từ 3 – 4 ngày. Ngoài ra kê cao chân trong vài ngày cũng giúp phòng ngừa rối loạn dinh dưỡng. Sau 3 tuần bó bột, tập đi với nạng và tập chống chân bệnh. Có thể cắt bột sau 6 – 8 tuần nếu còn bất thường. Trong trường hợp còn bất thường (di lệch trong bột) khi kiểm tra X-quang, nên kéo tạ trên bột trên giàn Braun trong 3 tuần. Kéo tạ được áp dụng cho những bệnh nhân bị gãy xương cẳng chân di lệch nhiều, gãy không vững. Phương pháp này có tác dụng khắc phục tình trạng xoay ngoài, nắn chỉnh di lệch chồng ngắn và những phần di lệch ngang. Khi tiến hành kéo tạ, đinh Kirschner hoặc đinh Steimann có kích thước lớn được gắn xuyên qua xương gót để liên tục kéo xương trên giàn Braun. Trong lần đầu tiên, tạ kéo được sử dụng có trọng lượng bằng 1/10 trọng lượng cơ thể. Tăng dần trọng lượng của tạ kéo sau mỗi giờ. Sau khi có can lâm sàng, người bệnh được băng bột để cố định xương gãy và thu ngắn thời gian nằm trên giường. Điều trị phẫu thuật được áp dụng cho các trường hợp:
Tùy thuộc vào phân loại gãy xương và mức độ nghiêm trọng, bệnh nhân được phẫu thuật điều trị với những phương pháp sau: Đóng đinh nội tủy được áp dụng cho phần lớn các trường hợp gãy chân nói chung và gãy xương cẳng chân nói riêng. Đặc biệt là những trường hợp có cơ chế chấn thương trực tiếp gây gãy xương và bầm dập nhiều phần mềm, gãy 1/3 dưới hoặc 1/3 giữa thân xương chày. Không được chỉ định cho bệnh nhân gãy 1/3 trên xương chày. Tuy nhiên bác sĩ có thể chỉ định mở rộng cho bệnh nhân gãy cao 1/3 trên để chống di lệch xoay bằng đinh có chốt. Trong khi điều trị phẫu thuật và đóng đinh nội tủy, bác sĩ chuyên khoa có thể mở ổ gãy hoặc đóng kín, sắp xếp hai đầu xương gãy về vị trí cũ để khắc phục tình trạng di lệch. Cuối cùng đóng đinh nội tủy để giữ xương gãy và giúp xương lành đúng hướng. Sau khi đóng đinh nội tủy, bó bột sẽ được chỉ định để hỗ trợ giữ xương gãy và hạn chế tác động từ bên ngoài lên vết thương.
Những bệnh nhân bị gãy xương có mảnh rời (gãy nhiều mảnh hoặc gãy chéo xoắn có mảnh thứ 3), gãy cao xương chày sẽ được phẫu thuật kết hợp xương nẹp vít để điều trị. Phương pháp này được thực hiện tương tự như đóng đinh nội tủy. Tuy nhiên cần dùng thêm nẹp vít để cố định đồng thời các mảnh xương gãy, tránh di lệch hoặc rơi rớt. Tùy thuộc vào tình trạng và mục đích điều trị, nẹp vít và đinh nội tủy sẽ được lấy ra sau một năm. Cố định ngoài được chỉ định cho những bệnh nhân bị gãy xương cẳng chân với tổn thương phần mềm nhiều, gãy phức tạp, gãy hở độ II và độ III. Phương pháp này có tác dụng cố định xương hiệu quả nhưng không làm ảnh hưởng đến phần mềm đang tổn thương. Khi cố đinh ngoài, những đầu xương gãy sẽ được sắp xếp lại. Đinh và vít kim loại được đặt ở phía dưới và ở trên vết nứt để các đầu xương luôn được giữ ở vị trí thẳng hàng. Những dụng cụ này sẽ được kết nối với một thanh kim loại đặt ngoài da. Từ đó hình thành một khung cố định xương gãy vững chắc. Thông thường tổn thương mô mềm và xương sẽ được chữa lành đồng thời. Khi ổ gãy có can, cố định ngoài sẽ được lấy bỏ. Những loại thuốc dưới đây có thể được sử dụng trước và trong khi điều trị:
Thông thường sau phẫu thuật điều trị gãy xương cẳng chân, bệnh nhân sẽ được yêu cầu nghỉ ngơi trên giường với tư thế nâng cao chân để hạn chế phù nề. Sau phẫu thuật vài ngày, vật lý trị liệu sẽ được áp dụng để phục hồi chức năng vận động, phòng ngừa các biến chứng sau gãy chân (rối loạn dinh dưỡng, ngón chân vuốt, cứng khớp). Trong thời gian đầu, bệnh nhân được luyện tập cơ nhẹ nhàng. Những bài tập này thường không đau, có tác dụng hạn chế biến chứng, chống teo cơ và làm quen với các tư thế cơ bản. Những tuần tiếp theo, bệnh nhân được tập đi với nạng, tập chống chân bệnh và thực hiện những bài tập có cường độ cao hơn. Điều này giúp chân bị thương sớm phục hồi chức năng và khả năng vận động.
Do có nhiều yếu tố tác động nên quá trình liền xương gãy không giống nhau ở mỗi người. Thông thường bệnh nhân bị gãy xương cẳng chân cần mất 3 – 4 tháng để xương liền vững, sau 8 – 10 tuần có thể tháo bột và mất từ 6 – 12 tháng để phục hồi hoàn toàn. Có thể giảm nguy cơ gãy xương cẳng chân bằng những biện pháp sau:
Nhìn chung gãy xương cẳng chân là một tình trạng nghiêm trọng, dễ phát sinh biến chứng nên cần được điều trị sớm và đúng cách. Vì thế người bệnh cần nhanh chóng gọi cấp cứu y tế, đánh giá tình trạng, sơ cứu kịp thời và điều trị theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Ngoài ra sau điều trị, bệnh nhân cần tập phục hồi chức năng để sớm trở về với đời sống bình thường.
|