Hậu quả xảy ra ở bệnh nhân đau là gì

Trao đổi với bệnh nhân | © adobe.stock

Nếu bác sĩ nước ngoài có kiến thức tiếng Đức hạn chế, điều đó có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng. Một nghiên cứu đầu tiên về các cuộc trao đổi có thật với bệnh nhân chỉ ra những vấn đề và đưa ra những lưu ý đối với giờ học tiếng Đức

Cuộc trao đổi với bệnh nhân là đối tượng nghiên cứu

Mối quan tâm đến một nghiên cứu về các thách thức ngôn ngữ trong các cuộc trao đổi với bệnh nhân ra đời trong những khóa tiếng Đức dành cho nhân viên y tế. Tại đó thấy rõ rằng, tài liệu và giáo án cho giờ dạy tiếng Đức chuyên ngành có nhiếu khiếm khuyết và điều đó lại xuất phát từ tình trạng còn thiếu một cơ sở để nghiên cứu. Mục tiêu của nghiên cứu này là bằng cách phân tích các cuộc trao đổi tìm ra, năng lực tiếng Đức hạn chế của bác sĩ trong thực tế có ảnh hưởng gì lên các cuộc trao đổi với bệnh nhân.

Vì thế, để phục vụ cho nghiên cứu này, trong một ngày ở bệnh viện đã quay phim 9 cuộc trao đổi do các bác sĩ gây mê thực hiện. Những người nói tiếng Đức là ngôn ngữ thứ hai và bằng tốt nghiệp của họ không được cấp ở Đức, được coi là người nước ngoài. Vào thời điểm thu thập dữ liệu, những người tham gia đã làm việc từ 3 đến 5 năm tại các bệnh viện ở Đức.

một ví dụ trao đổi rút ra nhiều thông tin

Đã có thể cho thấy rằng, những hạn chế ngôn ngữ phần nào tạo ra khá nhiều rối loạn trong các cuộc trao đổi. Trong ví dụ sau đây nữ bác sĩ [A] chỉ dẫn cho nữ bệnh nhân [P] không được ăn uống gì khi đến phẫu thuật ngoại trú. Chị bệnh nhân đặt ba câu hỏi về thuốc của mình:
  Chị bệnh nhân muốn được chị bác sĩ chỉ dẫn chị vào ngày mổ được phép dùng thuốc nào trong số những loại thuốc chị vẫn phải dùng thường xuyên. Mong muốn này kéo dài suốt cuộc trao đổi. Ngay từ đầu chị bệnh nhân đã chỉ cho chị bác sĩ danh sách thuốc của mình. Sau khi chị bác sĩ kết thúc việc hỏi đáp liên quan đến gây mê và chuyển sang chỉ dẫn về cách thức sinh hoạt vào ngày mổ, chị bệnh nhân một lần nữa hướng sự chú ý của chị bác sĩ vào danh sách thuốc và hỏi trực tiếp về danh sách đó. Chị bác sĩ trả lời là ngày mổ cấn phải „bỏ tất cả“. Giờ thì chị bệnh nhân đặt hai câu hỏi. Chị muốn biết, thuốc nhỏ mắt của mình và lọ xịt hen có thực sự phải „bỏ đi“ không. Cuối cuộc trao đổi chị bệnh nhân đặt một câu hỏi nữa. Chị muốn biết, có cần tiêm thuốc chống nghẽn mạch vào ngày mổ không. Chị bác sĩ trả lời có và nói thêm „trong mọi trường hợp điều đó là quan trọng“.

phân tích các cuộc trao đổi với bệnh nhân trong giờ học tiếng đức

Trong khóa học tiếng Đức có thể cùng đọc và suy ngẫm một đoạn ghi chép lại như đoạn trên. Đối với ví dụ trên có thể thảo luận những câu hỏi sau đây:
  1. Thấy rõ sự hiểu lầm nào trong câu trả lời „đề nghị chị đến ngày mổ bỏ tất cả“ của chị bác sĩ?
  2. Điều gì đã có thể xảy ra, nếu chị bệnh nhân không kiên trì hỏi lại?
  3. Điều gì lẽ ra chị bác sĩ có thể làm tốt hơn?
  Có thể cố gắng đạt được những kết quả thảo luận sau đây về các câu hỏi trên:
  1. Sự hiểu lầm xuất phát từ chỗ, chị bác sĩ chỉ nghĩ đến loại thuốc viên dùng để uống. Tuy nhiên chị bệnh nhân lại nghĩ đến từng loại thuốc [thuốc xịt, thuốc rỏ mắt, thuốc tiêm]. Bác sĩ và bệnh nhân theo đuổi hai mục đích khác nhau: chị bệnh nhân muốn được chỉ dẫn về thuốc thang của mình. Trong khi đó chị bác sĩ lại chỉ dẫn chị bệnh nhân là khi đến mổ, dạ dày phải trống rỗng.
  2. Có thể là buổi sáng trước khi mổ, chị bệnh nhân không dùng thuốc của mình. Nếu vậy việc không tiêm thuốc chống nghẽn mạch có thể gây ra hậu quả đáng kể. Có thể đưa thêm thông tin là chị bệnh nhân này trước kia từng là y tá và có lẽ chỉ vì thế chị mới kiên trì hỏi đi hỏi lại như vậy.
  3. Lẽ ra chị bác sĩ đã có thể chú ý tốt hơn đến mong muốn của chị bệnh nhân. Việc định hướng đến những chu trình trao đổi đã luyện tập trước và học thuộc lòng các bài hội thoại có thể hữu ích ban đầu và truyền đạt một sự chắc chắn nào đó. Tuy vậy vẫn cần phải chú ý đầy đủ đến mục đích của bệnh nhân. Như thế có thể giảm thiểu đáng kể tình trạng làm phức tạp hóa các cuộc trao đổi, việc hỏi đi, hỏi lại và những hiểu lầm. Bên cạnh những hậu quả về sức khỏe có thể xảy ra với bệnh nhân, những hiểu lầm loại này còn có thể làm hạn chế các gọi là đồng ý sau khi thông thiểu [xem Borowski và Andere 2019].

những khuyến nghị về phương pháp ngôn ngữ

Các cuộc trao đổi với bệnh nhân được ghi chép lại trong nghiên cứu này cung cấp tài liệu có thật cho giờ học tiếng Đức. Ngoài ra từ đó còn có thể đưa ra những khuyến nghị về việc phát triển, kiến tạo và tổ chức các khóa học tiếng cho nhân viên y tế:
  1. Bác sĩ cần phải theo học các khóa học tiếng chung [B2 đến C2] và cả các khóa học tiếng chuyên ngành y.
  2. Cần thiết phải có các khóa học tiếng chuẩn bị cho nghề nghiệp và cả các khóa trong khi hành nghề.
  3. Các khóa học tiếng chuyên ngành y cần phải hướng tới những thách thức ngôn ngữ có thật trong thực tế. Có thể đạt được điều đó bằng những điểm sau đây:

a. Các khóa học tiếng trong khi hành nghề cần phải được tiến hành tại nơi làm việc và tập trung đến bối cảnh đặc biệt. b. Các khóa học tiếng trong khi hành nghề cần phải có thêm nội dung luyện tiếng tại nơi làm việc [xem tài liệu tham khảo].

c. Các khóa học tiếng chuyên ngành y cần phải làm việc với các tài liệu có thật. Một trong những khả năng là dùng tài liệu ghi chép lại các cuộc trao đổi giữa bác sĩ với bệnh nhân.

  Bằng cách này có thể có được một sự đan xen chặt chẽ giữa các chương trình ngôn ngữ với thực tế nghề nghiệp. Chỉ như vậy mới có thể đề cập đến những thách thức ngôn ngữ thực sự trong những tình huống giao tiếp nghề nghiệp khác nhau và giải quyết cụ thể vấn đề ngôn ngữ.  

Borowski, Damaris [2018]: Sprachliche Herausforderungen ausländischer Anästhesisten[inn]en bei Aufklärungsgesprächen. Eine gesprächsanalytische Studie zu Deutsch als Zweitsprache im Beruf. Berlin: Frank & Timme.
 
Borowski, Damaris [2014]: Dokumentation und kritischen Reflexion des berufsbegleitenden Kurses "Deutsch für Ärzte/innen im Krankenhaus". IQ-Landesnetzwerk NRW.

Borowski, Damaris; Koreik, Uwe; Ohm, Udo; Rahe-Meyer, Niels; Riedmer, Claudia [2019]: Informed consent at stake? Language barriers in medical interactions with immigrant anaesthetists: A conversation analytical study. BMC Health Services Research.


 
Ferber-Brull, Rosa [2018]: Sprachcoaching. Hilfe zur Selbsthilfe. Hamburg: IQ-Netzwerk.  

Passage gGmbH [2015]: Praxisguide Deutsch im Krankenhaus. Die sprachliche Integration internationaler Ärztinnen und Ärzte. Eine Handreichung für Klinikleitungen, Deutschlehrkräfte und Bildungsfachleute. Hamburg: IQ-Netzwerk.

 

Weissenberg, Jens [2012]: Sprachbedarfsermittlung im berufsbezogenen Unterricht Deutsch als Zweitsprache. Ein Leitfaden für die Praxis. Hamburg: IQ-Netzwerk.


 

TS. Damaris Borowski là cán bộ khoa học của Tübinger School of Education và Viện Ngôn ngữ Đức của trường Đại học Eberhard Karl, làm việc trong bộ phận đào tạo chất lượng giáo viên. Trọng tâm nghiên cứu của bà nằm trong các lĩnh vực giảng dạy ngôn ngữ chuyên ngành và tiếng Đức cho nhân viên y tế.

Biên dịch: Chris Cave Bản quyền: Goethe-Institut e. V., Redaktion Magazin Sprache

Tháng 6 2019

Bạn có câu hỏi về bài viết này? Hãy viết thư cho chúng tôi!

Hậu COVID-19 là tình trạng bệnh lý xảy ra ở những người có tiền sử nhiễm SARS-CoV-2, thường xuất hiện trong vòng 3 tháng từ khi khởi phát bệnh COVID-19, kéo dài ít nhất 2 tháng và không thể giải thích bằng các bệnh lý khác.

Dịch tễ hậu COVID-19

Mặc dù đa số người bệnh hồi phục hoàn toàn, nhưng:

- 10-35% bệnh nhân COVID-19 điều trị ngoại trú [bệnh nhẹ] bị hậu COVID bất kể tình trạng bệnh nền.

- Đối với bệnh nhân COVID-19 phải điều trị nội trú thì tỷ lệ này lên đến 85% bị hậu COVID.

- Tỷ lệ này tăng lên theo độ tuổi, nữ giới, theo tình trạng bệnh nền [hô hấp mãn tính, béo phì, ĐTĐ, tim mạch mạn tính, ghép tạng, bệnh thận mạn, ung thư..], theo mức độ nghiêm trọng ban đầu của COVID-19 [nhất là các bệnh COVID-19 mức độ nặng, phải thở máy].

- Và các nghiên cứu chỉ ra rằng, nếu tiêm đủ số mũi vaccin cơ bản [từ 2 mũi trở lên] thì tỷ lệ bị hậu COVID-19 giảm đi một nữa.

Các biểu hiện hậu COVID-19

Bệnh nhân bị hậu COVID có thể biểu hiện triệu chứng ở nhiều cơ quan, hệ thống trong cơ thể như  hô hấp, tim mạch, thần kinh- tâm thần, ngoài da và toàn thân… ở người lớn và cả trẻ em.

- Các biểu hiện thường gặp giai đoạn sớm sau COVID-19: mệt mỏi, khó thở, đau khớp, tức ngực, ho, thay đổi khứu giác hoặc vị giác, rối loạn nhận thức, khàn giọng

- Các biểu hiện ít gặp hơn: mất ngủ, sốt nhẹ, đau đầu, đau cơ, suy nhược, triệu chứng tiêu hóa, phát ban, trầm cảm…

- Đối với trẻ em, có một tỷ lệ nhỏ gây ra hội chứng viêm đa hệ thống trong hoặc ngay sau khi nhiễm COVID-19 [tức là nhiều bộ phận trong cơ thể đều bị viêm: viêm tim, viêm phổi, viêm thận, viêm não, viêm mắt, viêm đường ruột…]

- Di chứng ở cơ quan hô hấp là phổ biến hơn cả [chiếm khoảng 50% tổng số biểu hiện hậu COVID-19], bao gồm:

+ Hội chứng tăng phản ứng đường thở sau viêm: với các biểu hiện khó thở nhẹ, ho khan kéo dài, tức ngực, cảm giác hụt hơi. Nếu được chẩn đoán đúng, việc điều trị khá đơn giản bằng corticoid uống hoặc khí dung và có thể chấm dứt sau khoảng 4 tuần điều trị.

+ Rối loạn đông máu: tăng đông máu dẫn đến thuyên tắc động mạch phổi. Hiện tượng này xảy ra ở COVID-19 là đáng kể hơn hơn các bệnh do virus khác. Các biểu hiện thuyên tắc động mạch phổi như sau: khó thở, đau tức ngực, ho và có thể ho ra máu, tăng nhịp tim-nhịp thở, có thể ngất. Đối với các trường hợp này, cần xét nghiệm kiểm tra chức năng đông máu của cơ thể, điện tim, siêu âm tim, chụp CT-Scan ngực có thuốc cản quang để chẩn đoán xác định huyết khối động mạch phổi. Để phòng ngừa biến chứng này, cần dùng thuốc chống đông sớm và kéo dài theo hướng dẫn.

- Xơ phổi mô kẽ hậu COVID-19: đây được xem là biến chứng nghiêm trọng nhất của hậu COVID-19, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và tuổi thọ của bệnh nhân. Cơ chế được giải thích là quá trình viêm giải phóng các chất viêm như CRP, LDH, IL6, đặc biệt là cytokine [cơn bão cytokine]…là các tác nhân gây xơ phổi. Xơ phổi mô kẽ thường xảy ra nhiều ở những bệnh nhân thở máy, viêm phổi nặng, hút thuốc lá, nghiện rượu và khi thở oxy áp lực cao. Tuy nhiên, xơ phổi vẫn có thể xảy ra ở những bệnh nhân COVID nhẹ, điều trị ngoại trú, trẻ tuổi. Biểu hiện lâm sàng là những bệnh nhân này mệt mỏi, khó thở thường xuyên, tăng khi gắng sức, trên phim CT Scan ngực tổn thương xơ tiến triển ở mô kẽ kết hợp tổn thương đông đặc không hoàn toàn 2 phổi [dạng kính mờ], đo chức năng hô hấp bệnh nhân có rối loạn thông khí hạn chế, đo khí máu động mạch có giảm oxy rõ, có biểu hiện suy hô hấp. Việc phòng ngừa và điều trị biến chứng này cần có kinh nghiệm của bác sĩ điều trị như cố gắng hạn chế thở máy, cố gắng thở áp lực thấp có thể, điều trị kháng viêm sớm, điều trị thuốc kháng virus sớm và cần theo dõi cho đến 3 tháng sau COVID-19 để sử dụng thuốc chống xơ nếu quá trình xơ không cải thiện. Vật lý trị liệu- Phục hồi chức năng hô hấp là phương pháp quan trọng nhất để điều trị di chứng này.

 

Bạn nên làm gì khi có biểu hiện hậu COVID-19

Đa phần các biểu hiện hậu COVID là nhẹ và nhanh chóng chấm dứt sau 1 đến 2 tuần, vì vậy bạn không cần quá lo lắng. Khi bạn thấy có những biểu hiện hậu COVID-19 kéo dài hoặc gây ra các trạng thái sức khỏe ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hoặc bệnh nhân lớn tuổi, thuộc nhóm có nguy cơ hậu COVID hoặc mắc COVID-19 từ mức độ trung bình trở lên thì nên đến cơ sở y  tế để xác định tình trạng bệnh và được hướng dẫn điều trị.

Việc điều trị tình trạng hậu COVID-19 là điều trị không đặc hiệu, có nghĩa là phát hiện sớm di chứng, điều trị triệu chứng, phục hồi chức năng.

Cách tốt nhất để ngăn ngừa các di chứng COVID là phòng ngừa tránh mắc bệnh COVID-19 bằng cách tiêm phòng vaccin. Cần tuân thủ hướng dẫn điều trị của bác sĩ trong và sau khi bị COVID-19.

>>> Thăm khám sức khỏe hậu COVID-19: Khám gì, khi nào và ở đâu?

ThS Bs Nguyễn Anh Tuyến
Khoa Nội Tổng hợp – Bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng

Video liên quan

Chủ Đề