Hay liệt kế các nguyên tắc to chức và hoạt động của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam căn cứ pháp lý

Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương hợp thành hệ thống được tổ chức, hoạt động theo những nguyên tắc thống nhất, tạo thành cơ chế đồng bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà nước. Liên quan đến Bộ máy nhà nước, có nhiều người chưa nắm rõ và đặt câu hỏi Bộ máy nhà nước chxhcn Việt Nam hiện nay gồm có những cơ quan nào?

Trong bài viết này, chúng tôi xin chia sẻ đến bạn đọc những nội dung liên quan đến câu hỏi Bộ máy nhà nước chxhcn Việt Nam hiện nay gồm có những cơ quan nào?

Các cơ quan trong Bộ máy Nhà nước hiện nay

1/ Quốc hội

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Nhiệm vụ, quyền hạn: Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định về những nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.

2/ Chủ tịch nước

Điều 86 Hiến pháp năm 2013 quy định: “ Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.”

Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.

 Nhiệm vụ, quyền hạn:

Điều 88 Hiến pháp năm 2013 quy định về những nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước.

3/ Chính phủ

Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: “ Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.”

Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Nhiệm vụ, quyền hạn

Điều 96 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

“1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

2. Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;

3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;

4. Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;

6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;

7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;

8. Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”

4/ Toà án nhân dân tối cao

Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: “ Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

5/ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.”

6/ Tổ chức bộ máy cấp địa phương

Hội đồng nhân dân, gồm: Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hội đồng nhân dân huyện; Hội đồng nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận; Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn.

Ủy ban nhân dân, gồm: Tỉnh và cấp tương đương: gồm các sở, các ủy ban, các cơ quan khác thuộc Ủy ban nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân; Huyện và cấp tương đương: gồm các phòng, ban, các cơ quan khác thuộc Ủy ban nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân; Xã và cấp tương đương: các ban và văn phòng.

Toà án nhân dân địa phương, gồm:  Toà án tỉnh và cấp tương đương và Toà án nhân dân huyện.

Viện kiểm sát nhân dân địa phương: Gồm cấp tỉnh và huyện.

Vai trò, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương được quy định cụ thể trong Luật Hiến pháp 2013.

Phân loại cơ quan Nhà nước

Các cơ quan trong bộ máy nhà nước có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa vào các tiêu chí khác nhau.

Căn cứ vào thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ, các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan trung ương và cơ quan địa phương. Cơ quan trung ương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động trên toàn lãnh thổ, cơ quan địa phương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động chỉ trong phạm vi địa phương.

Căn cứ vào chức năng, các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp [có chức năng xây dựng pháp luật]; cơ quan hành pháp [có chức năng tổ chức thực hiện pháp luật]; cơ quan tư pháp [có chức năng bảo vệ pháp luật].

Bên cạnh hai căn cứ để phân loại trên, còn có một số căn cứ để phân loại cơ quan Nhà nước khác.

Trên đây là những nội dung mà chúng tôi muốn chia sẻ đến bạn đọc liên quan đến câu hỏi Bộ máy nhà nước chxhcn Việt Nam hiện nay gồm có những cơ quan nào? Nếu có bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến Bộ máy nhà nước chxhcn Việt Nam hiện nay gồm có những cơ quan nào? Bạn đọc vui lòng liên hệ đến tổng đài 1900 6557 để được tư vấn trực tiếp.

Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 2013

01/05/2014

TS. ĐINH XUÂN THẢO

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

Hiến pháp [sửa đổi] năm 2013[1] đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013 với đa số phiếu tuyệt đối [97,59% tổng số đại biểu Quốc hội]. Có thể nói, đây là một sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.

Trong điều kiện lịch sử mới, trên cơ sở Cương lĩnh năm 1991 [bổ sung, phát triển năm 2011], kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước[2], những thành tựu của lịch sử lập hiến nước nhà, với sự đồng thuận của nhân dân, Hiến pháp mới đã được sửa đổi, bổ sung cả về nội dung, bố cục và kỹ thuật lập hiến, bảo đảm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Một trong những nội dung quan trọng được Hiến pháp mới tiếp tục kế thừa và phát triển, đó là nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[3]. Đây là quy định có tính nguyên tắc, không chỉ chi phối chủ đạo đối với chương về Chế độ chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước mà xuyên suốt toàn bộ Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc.

Ảnh minh họa: nguồn internet

1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực Nhà nước

Ở nước ta, nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN là “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Kế thừa những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, Đảng ta đã khẳng định nhất quán quan điểm: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[4]. Tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện và phát triển quan điểm nói trên của Cương lĩnh 1991 trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[5]. Tiếp theo đó, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền củadân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[6]. Đếnnăm 2001, Quốc hội khóa X đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, trong đó đã thể chế các quan điểm trên của Đảng trở thành một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ đạo của bộ máy nhà nước ta. Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi [2001] ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[7].

Tiếp đó, cùng với sự phát triển tư duy lý luận trong thời kỳ lịch sử mới, trên cơ sở tổng kết thực tiễn của quá trình 25 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011], trong đó tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[8]. So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh 2011 đã thể hiện sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trước bối cảnh lịch sử mới. Cương lĩnh không chỉ khẳng định rõ ràng: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN” mà còn đưa một nội dung mới vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là: “Kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Sự bổ sung và phát triển này có ý nghĩa to lớn, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn lịch sử mới hiện nay.

Có thể nói, tư tưởng về sự thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp với nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được thể hiện nhất quán trong tư duy lý luận của Đảng ta. Đây là một trong những quan điểm quan trọng, thể hiện sự phát triển về nhận thức lý luận của Đảng và Nhà nước trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trở thành nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.

Thực tế cho thấy, trong bối cảnh một Đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị, dựa trên nền tảng là khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam; mục đích của việc giành chính quyền không phải là giành quyền thống trị cho riêng mình, mà để giải phóng toàn xã hội, đưa người lao động, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”[9]…, thì quan điểm về “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” càng được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam.

2. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp mới

Xuất phát từ những hạn chế nhất định trong cách thức tổ chức quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 1992[10], Hiến pháp mới đã có những bước tiến quan trọng khi bổ sung, hoàn thiện nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tại Điều 2 của Hiến pháp. Cụ thể là, Hiến pháp mới khẳng định:

“Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soátgiữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[11].

Việc hiến định nguyên tắc trên đã thể hiện bước phát triển lớn trong tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền nhân dân, về nguyên tắc, mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Về lý luận, tổ chức quyền lực của bộ máy nhà nước ta dựa trên quan điểm về sự thống nhất quyền lực: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”của tư tưởng dân chủ XHCN[12]. Nguyên lý này không những được quy định trong các bản Hiến pháp của nước ta mà hầu hết các nước có chế độ chính trị dân chủ và pháp quyền trên thế giới. Theo đó, nhân dân thực hiện quyền dân chủ đại diện bằng cách trao một phần quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp, đồng thời giữ lại một phần quyền lực của mình để thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp. Theo Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Kế thừa tư tưởng đó, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định rõ nguyên tắc phân công phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp khi quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọngcủa đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước[13]; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội[14]; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp[15].

Thực tế ở nước ta chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” như Đảng ta đã chỉ ra.

Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất nói trên là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Ngược lại, mỗi cơ quan sẽ có điều kiện phát huy đầy đủ trách nhiệm và thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân dân.

Về thực tiễn, là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nên tất yếu nhân dân phải kiểm soát được quyền lực đó. Chính vì vậy, Cương lĩnh xây đựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta [sửa đổi, bổ sung năm 2011] và Điều 2 Hiến pháp mới đã xác định kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc trong tổ chức quyền lực ở nước ta. Đồng thời, Hiến pháp mới chỉ rõ phương thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân [HĐND] và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[16].

Tuy nhiên, kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp và quyền lực nhà nước chỉ có thể được kiểm soát khi Nhà nước có cơ chế xác định rõ ràng và có các điều kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm hình thức kiểm soát theo chiều ngang [là sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước] và hình thức kiểm soát theo chiều dọc [là sự kiểm soát giữa trung ương và địa phương thông qua việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương; sự kiểm soát của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước đối với các cơ quan được ủy quyền thực thi quyền lực nhà nước]. Theo đó, những nội dung này đã được Hiến pháp mới thể hiện một cách rõ hơn.

Về hình thức kiểm soát theo chiều ngang

Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực bên trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở trung ương: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Một là, Hiến pháp mới đã thể hiện rõ sự phân công quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.

Đối với các cơ quan ở trung ương, Hiến pháp mới khẳng định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước; Chính phủ được khẳng định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội; Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan xét xử và là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, việc phân biệt rõ ràng các nhóm quyền thuộc ba quyền này cũng được Hiến pháp mới quy định.

Như vậy, mặc dù Nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập nhưng Hiến pháp mới đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập” khi đã ghi nhận rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến pháp mới và trên thực tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy, chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước mới có hiệu quả.

Đối với việc phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương: để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” [Khoản 1, Điều 112]; “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và ở mỗi cấp chính quyền địa phương” [Khoản 2, Điều 112]. Cách quy định như vậy không những tạo sự phân công, phân nhiệm rành mạch mà còn tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Hai là, Hiến pháp mới thể hiện rõ hơn sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực thi quyền lực nhà nước.

Cùng với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thực hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh sự lấn sân, chồng chéo khi thực thi các chức năng, nhiệm vụ đó.

a] Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp:

Hiến pháp mới khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp.Theo đó, sự phối hợp, kiểm soát hoạt động của Quốc hội cũng được thể hiện ở việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này. Cụ thể:

Quyền lập hiến: Hiến pháp mới quy định rõ việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp như sau: “1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội [UBTVQH], Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; 2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định;3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp;4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểuQuốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”[17]. Như vậy, việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp không chỉ riêng Quốc hội thực hiện mà dựa trên ý kiến của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.

Quyền lập pháp: Hiến pháp 1992 quy định quyền lập pháp do Quốc hội thực hiện. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định việc thông qua hay không thông qua các dự án luật. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng quy định sự tham gia và phối hợp của nhiều chủ thể khác nhau trong việc trình các dự án luật[18]. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề sáng kiến lập pháp, Hiến pháp mới tiếp tục ghi nhận các chủ thể có quyền trình các dự án luật tại Điều 84 như sau: “Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật trước Quốc hội”[19].

Như vậy, Hiến pháp mới đã ghi nhận quyền sáng kiến lập pháp của nhiều chủ thể và có quy định rõ sự khác nhau về quyền sáng kiến lập pháp của cá nhân đại biểu Quốc hội với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền[20]. Trên thực tế ở nước ta hiện nay, có hơn 95% các dự án luật là do Chính phủ trình, một số văn bản luật do Tòa án nhân dân tối cao soạn thảo và trình Quốc hội. Sự tham gia của các cơ quan trong quá trình soạn thảo và trình các dự án luật đã thể hiện rõ sự phối hợp giữa Quốc hội với các cơ quan hành pháp, tư pháp trong việc thực hiện quyền lập pháp.

Bênh cạnh đó, Chủ tịch nước cũng tham gia vào quá trình lập pháp này với vai trò sáng kiến lập pháp, công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Trong quá trình công bố các văn bản pháp luật, Chủ tịch nước cũng có quyền không công bố pháp lệnh đã được UBTVQH thông qua và có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại Pháp lệnh đó. Trong trường hợp UBTVQH vẫn tán thành quyết định đó thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại ở kỳ họp gần nhất. Đây là cách thức Chủ tịch nước vừa tham gia, vừa kiểm soát quyền ban hành Pháp lệnh của UBTVQH.

b] Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp

Hiến pháp mới khẳng định: Chính phủlà cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ của mình. Đây là một điểm mới được quy định trong Hiến pháp mới so với Hiến pháp năm 1992. Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định Chính phủ có quyền ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH thì Hiến pháp mới đã khẳng định sự độc lập của Chính phủ trong việc ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý thống nhất các cơ quan trong bộ máy nhà nước­ của mình[21].

Trong việc thực hiện quyền hành pháp, mối quan hệ phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ còn được thể hiện rõ ở quyền quyết định và hoạch định chính sách. Theo đó, Quốc hội chỉ quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định hướng quốc gia; còn Chính phủ sẽ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang tính chất điều hành, thể hiện sự phản ứng linh hoạt của Nhà nước với thực tiễn phát triển trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp còn được thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập mới, phân chia điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt…; UBTVQH thì có quyền quyết định, thành lập mới, nhập, chia điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

c] Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền tư pháp

Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của Tòa án là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Việc bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của quyền tư pháp. Do đó, các cơ quan, tổ chức và cá nhân tôn trọng, giữ gìn, bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa án chính là cách thức thể hiện sự phối hợp quan trọng nhất, giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

Ba là, cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước

Nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc quy định rõ sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới còn khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó, Hiến pháp đã bổ sung các quy định cụ thể vào chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập pháp, quy định một chương riêng về hai thiết chế hiến định độc lập, bao gồm: Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc ghi nhận hai thiết chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước.

Kiểm soát đối với quyền lập pháp: Cùng với việc phân công rành mạch các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới đồng thời khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó, việc lập hiến, lập pháp được thực hiện bởi Quốc hội nhưng phải dựa trên ý kiến của nhân dân, được sự đồng thuận của các đại biểu Quốc hội và ý kiến của Chính phủ, Chủ tịch nước…

Hiến pháp mới quy định: Quốc hội thực hiện quyền lập hiến [Điều 69]. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới đã bỏ cụm từ “duy nhất”, nhằm gắn với khả năng thực hiện trưng cầu ý dân về Hiến pháp trong quy trình sửa đổi Hiến pháp trong tương lai. Theo đó, Chương XI của Hiến pháp mới quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp, đã bổ sung quy định: “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”[22]. Quốc hội với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được trao thẩm quyền quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước.

Kiểm soát quyền hành pháp: Cơ chế kiểm soát đối với quyền hành pháp được thực hiện trước hết từ cơ quan lập pháp. Theo đó, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ; có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng... Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật sai trái của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội và thực hiện quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, xem xét báo cáo của Chính phủ.

Sau khi Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm được thông qua thì một cơ chế kiểm soát mới từ phía Quốc hội đối với Chính phủ được thực hiện. Theo đó, Quốc hội có quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu như Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn như Phó Thủ tướng, các bộ trưởng… Về phía các cơ quan tư pháp, việc thực hiện cơ chế kiểm soát từ phía tư pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp cũng được xác lập thông qua cơ chế phán quyết của Tòa hành chính đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cán bộ thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà nước.

Kiểm soát quyền tư pháp: Tòa án được xác địnhlà cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Hiện nay, trong cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp tham gia vào quyền lập pháp.

Theo Hiến pháp mới, cơ chế kiểm soát từ phía lập pháp đối với quyền tư pháp được thể hiện thông qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do mình bầu ra như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao[23].

Cơ chế kiểm soát thứ hai đối với quyền tư pháp là Chủ tịch nước thực hiện quyền kiểm soát tư pháp thông qua việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp…

Kiểm soát hai thiết chế hiến định độc lập: Đây là là hai thiết chế hoạt động độc lập nhưng vẫn chịu sự giám sát của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó,Chương X của Hiến pháp mới đã có các điều chỉnh tương ứng liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội, như: trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao, đã bổ sung quy định Quốc hội thực hiện việc “xét báo cáo công tác của Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập”[24]; trong việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia[25] v.v..

Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước theo chiều ngang chính là cơ chế kiểm soát bên trong giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thông qua việc phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới không chỉ tạo ra cơ chế ngăn chặn sự lạm quyền mà còn tạo được sự chủ động trong hoạt động của mỗi cơ quan, tiến tới sự hoạt động đồng bộ của bộ máy nhà nước.

Về hình thức kiểm soát theo chiều dọc

Hình thức kiểm soát này được hiểu là sự kiểm soát của nhân dân đối với các cơ quan công quyền [theo chiều từ trên xuống và từ dưới lên] và sự phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương.

Trước hết, cơ chế kiểm soát theo chiều dọc được thực hiện thông qua hình thức kiểm soát quan trọng nhất, kiểm soát của nhân dân - chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực của người chủ đối với chủ thể được ủy quyền là các cơ quan nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhân dân có quyền kiểm soát trực tiếp các cơ quan nhà nước thông qua việc tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước; bầu, miễn nhiệm Đại biểu Quốc hội, giám sát hoạt động của Đại biểu Quốc hội; thông qua Quốc hội, nhân dân thực hiện quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn… Bên cạnh đó, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp của mình, nhân dân thực hiện việc giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức[26]. Đối với cách tiếp cận giám sát từ dưới lên: nhân dân có quyền nêu ý kiến, nguyện vọng của mình đối với Quốc hội, các cơ quan và tổ chức hữu quan thông qua các đại biểu do mình bầu ra…

Thứ hai, về sự phân cấp, phân quyền, kiểm soát giữa trung ương và địa phương: Hiến pháp mới ghi nhận HĐND và UBND là một thể thống nhất [dưới tên chung là chính quyền địa phương], có vị trí quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Điều 111, Hiến pháp mới quy định: “1.Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. HĐND, UBND được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền do luật định”.

“Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương”[27].

Như vậy, trong mối quan hệ với các cơ quan trung ương, Hiến pháp mới đã quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc về vị ví, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Việc quy định này vừa bảo đảm cho chính quyền địa phương chủ động, linh hoạt trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn tại địa phương, vừa giúp các cơ quan trung ương có điều kiện kiểm soát việc thực thi nhiệm vụ của cơ quan này. Theo đó, sự kiểm soát từ phía cơ quan lập pháp đối với chính quyền địa phương được thể hiện qua việc UBTVQH có quyền giám sát, hướng dẫn hoạt động của HĐND, có quyền bãi bỏ các nghị quyết sai trái của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong trường hợp HĐND đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân[28].

Từ phía cơ quan hành pháp, bên cạnh chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo công tác của UBND các cấp, Chính phủ có quyền kiểm tra HĐND trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên[29].... Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ, bãi bỏ các văn bản pháp luật của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành Nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị UBTVQH bãi bỏ[30]./.

[1] Sau đây gọi là Hiến pháp mới

[2] và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991

[3] Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, sửa đổi năm 2013. Bản ký chứng thực ngày 28/12/2013

[4] Trích Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Nguồn www.dangcongsan.vn

[5] Điểm 2, mục X Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nguồn Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng cộng sản. http//www.dangcongsan.vn

[6] Điểm 1 mục IX - Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Nguồn Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng cộng sản. http//www.dangcongsan.vn

[7] Điều 2 Hiến pháp Nước cộng hòa XHCN Việt Nam, sửa đổi bổ sung năm 2001.

[8] Trích Điểm 2, Mục IV – Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng,Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bổ sung, phát triển năm 2011.

[9]Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19/01/2011.

[10]Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” trong Hiến pháp năm 1992 chưa được thể hiện một cách đầy đủ trên cả hai hình thức là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.Cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước trên thực tế chưa đầy đủ. Việc sử dụng quyền lực nhà nước của nhân dân theo Hiến pháp năm 1992 còn chủ yếu thể hiện ở hình thức dân chủ đại diện. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN nhưng nguyên tắc này chưa được thể hiện rõ ràng trong bản Hiến pháp khi chưa xác định rõ chủ thể thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; chưa thể hiện rõ yêu cầu mới về “kiểm soát quyền lực nhà nước” trong nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước…

[11] Hiến pháp 2013, Điều 2

[12] Dân chủ XHCN đòi hỏi nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng hình thức dân chủ đại diện mà còn bằng cả dân chủ trực tiếp, trong đó có trưng cầu ý dân, lấy ý nhân dân về những vấn đề quan trọng của đất nước.

[13] Hiến pháp 2013, khoản 1, 2 Điều 69

[14] Hiến pháp 2013, khoản 1 Điều 94

[15] Hiến pháp 2013, khoản 1 Điều 102

[16] Hiến pháp 2013, Điều 6

[17] Hiến pháp 2013, Điều 120

[18] Điều 87 Hiến pháp 1992 ghi rõ: “Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội.Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định”.

[19] Hiến pháp 2013, Điều 84

[20] Theo đó, đại biểu Quốc hội có hai quyền là quyền trình dự án luật và quyền trình kiến nghị về luật; còn các chủ thể là các cơ quan, tổ chức có quyền trình dự án luật.

[21] Điều 100 Hiến pháp mới quy định: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.

[22] Hiến pháp 2013, khoản 4 Điều 120

[23]Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm nhưng lại do Quốc hội phê chuẩn, do đó sẽ do Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm.

[24] Hiến pháp 2013, điểm 2 Điều 70

[25] Hiến pháp 2013, điểm 7 Điều 70

[26] Hiến pháp 2013, Điều 9, Điều 10

[27] Hiến pháp 2013, Điều 112

[28]Hiến pháp 2013, khoản 6, Điều 74

[29]Hiến pháp 2013, khoản 5 Điều 96

[30] Hiến pháp 2013, khoản 4 Điều 98

[Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 10[266], tháng 5/2014]

Video liên quan

Chủ Đề