Hướng dẫn trò chơi âm nhạc 2003

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

NGUYỄN QUANG MINH

TRÒ CHƠI TRONG GIỜ HỌC ÂM NHẠC,
TRƯỜNG PHỔ THÔNG THỰC HÀNH SƯ PHẠM
AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC
Khoá 5 (2015 - 2017)

Hà Nội, 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

NGUYỄN QUANG MINH

TRÒ CHƠI TRONG GIỜ HỌC ÂM NHẠC,
TRƯỜNG PHỔ THÔNG THỰC HÀNH SƯ PHẠM
AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc
Mã số: 60140111

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ THỊ NAM

Hà Nội, 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa được ai công bố ở
bất kỳ công trình nào. Nếu có điều gì sai với lời cam đoan, tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 30 tháng 8 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Quang Minh

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AN

Âm nhạc

Cao đẳng

CNTT

Công nghệ thông tin

ĐH

Đại học

GDĐT

Giáo dục và Đào tạo

GDTH

Giáo dục tiểu học

GV

Giáo viên

Hoạt động

HS

Học sinh

Nxb

Nhà xuất bản

PP

Phương pháp

PTTHSP

Phổ thông Thực hành Sư phạm

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

SP

Sư phạm

SV

Sinh viên

TĐN

Tập đọc nhạc

TH

Tiểu học

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TNSP

Thực nghiệm sư phạm

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................ 8
1.1. Giải thích một số khái niệm, thuật ngữ .................................................... 8
1.1.1. Trò chơi ................................................................................................ 8
1.1.2. Trò chơi âm nhạc ................................................................................ 11
1.2. Giờ học Âm nhạc ở trường tiểu học ....................................................... 13
1.2.1. Chương trình môn Âm nhạc ở trường tiểu học.................................... 13
1.2.2. Cấu trúc giờ học âm nhạc trong sách lớp 4, lớp 5 ............................... 13
1.2.3. Tìm hiểu về trò chơi âm nhạc trong SGV Âm nhạc tiểu học ............... 15
1.3. Tác dụng của trò chơi âm nhạc đối với học sinh lớp 4, lớp 5 ................. 19
1.3.1. Đặc điểm khả năng âm nhạc của học sinh lớp 4, lớp 5 ........................ 19
1.3.2. Hiệu quả của trò chơi âm nhạc đối với học sinh lớp 4, lớp 5............... 22
1.4. Thực trạng tổ chức trò chơi trong giờ học Âm nhạc Trường Phổ thông
Thực hành Sư phạm An Giang ..................................................................... 24
1.4.1. Khái quát về Trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An Giang ........... 24
1.4.2. Đặc điểm khả năng âm nhạc học sinh lớp 4, lớp 5 Trường Phổ thông
Thực hành Sư phạm An Giang ..................................................................... 26
1.4.3. Tình hình tổ chức trò chơi âm nhạc ở lớp 4, lớp 5 ................................ 28

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 37
Chương 2: XÂY DỰNG TRÒ CHƠI TRONG GIỜ HỌC ÂM NHẠC
CHO HỌC LỚP 4, LỚP 5 ............................................................................ 39
2.1. Tiêu chí xây dựng trò chơi âm nhạc cho học sinh lớp 4, lớp 5 ............... 39
2.1.1. Âm nhạc là yếu tố quyết định trò chơi ................................................ 39
2.1.2. Căn cứ trên chương trình SGK và kế hoạch dạy học AN của trường .. 40
2.1.3. Phù hợp với lứa tuổi học sinh và giáo viên lớp 4 hoặc lớp 5 ............... 41
2.1.4. Có tính thi đua giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm ......................... 42
2.1.5. Có quy định về không gian và thời gian.............................................. 42

2.1.6. Có cách chơi rõ ràng ........................................................................... 43
2.1.7. Có khai thác đồ chơi, đạo cụ, sử dụng tối đa công nghệ hiện đại ........ 43
2.2. Lựa chọn tiết học âm nhạc ở lớp 4, lớp 5 ............................................... 44
2.2.1. Lựa chọn tiết học âm nhạc lớp 4 ......................................................... 45
2.2.2. Lựa chọn tiết học âm nhạc lớp 5 ......................................................... 46
2.2.3. Lựa chọn phần mềm, thiết bị .............................................................. 47
2.3. Xây dựng trò chơi âm nhạc cho học sinh lớp 4, lớp 5 ............................ 49
2.3.1. Trò chơi âm nhạc cho học sinh lớp 4................................................... 50
2.3.2. Trò chơi âm nhạc cho học sinh lớp 5 .................................................. 64
2.4. Thực nghiệm sư phạm ........................................................................... 72
2.4.1. Thực nghiệm diện hẹp ........................................................................ 72
2.4.2. Thực nghiệm diện rộng ....................................................................... 77
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 88
KẾT LUẬN.................................................................................................. 89
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................. 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92
PHỤ LỤC .................................................................................................... 97

DANH MỤC BIỂU BẢNG
Biểu đồ 1.1. So sánh số lượng trò chơi âm nhạc của các lớp......................... 18
Biểu đồ 1.2. Thái độ của học sinh lớp 4, lớp 5 đối với trò chơi âm nhạc....... 30
Biểu đồ 1.3. Hiểu biết của học sinh lớp 4, lớp 5 đối với trò chơi âm nhạc ... 31
Biểu đồ 1.4. Kỹ năng chơi trò chơi âm nhạc của học sinh lớp 4, lớp 5 ......... 32
Biểu đồ 1.6. Hiểu biết của giáo viên TH đối với việc sử dụng ...................... 34
trò chơi âm nhạc ........................................................................................... 34
Biểu đồ 1.7. Kỹ năng tổ chức, điều khiển trò chơi âm nhạc của giáo viên
tiểu học......................................................................................................... 35
DANH MỤC HÌNH HƯỚNG DẪN

Hình 2.1. Hình gợi ý cho câu hỏi số 12 ........................................................ 53
Hình 2.2. Hình gợi ý cho câu hỏi số 12 ........................................................ 60
Hình 2.3. Hình gợi ý cho câu hỏi số 14 ........................................................ 60
Hình 2.4. Hình gợi ý cho câu hỏi số 15 ........................................................ 61

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Âm nhạc là phương tiện giáo dục hết sức quan trọng đối với con
người đặc biệt đối với trẻ em. Nó tác động rất nhanh vào thế giới cảm xúc
và góp phần phát triển nhân cách của trẻ. Âm nhạc còn giúp các em phát
triển tư duy, nhận ra cái đẹp, cái thiện của cuộc sống. Mặt khác, âm nhạc
với những hoạt động ca hát, biểu diễn cụ thể, lành mạnh, còn là sân chơi
giúp các em thể hiện chính mình. Vì vậy, âm nhạc đã được đưa vào giảng
dạy ở các cấp học từ Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở...
Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) ngày
04/11/2013 có viết: “Mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo là… Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt

nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân” [33, tr.3]. Việc nghiên
cứu những giải pháp để đổi mới toàn diện tất cả các môn học nói chung
trong đó có dạy học âm nhạc nói riêng như đổi mới về nội dung, phương
pháp, hình thức và các phương tiện dạy học hiện đại nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học, đồng thời phát huy được tiềm năng của mỗi học sinh là
một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết đối với từng trường học.
Trường tiểu học có nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện học sinh lứa tuổi từ
6 đến 11 tuổi, chia thành 5 khối lớp từ lớp 1 đến lớp 5. Học sinh ở lứa tuổi
này còn rất ham chơi, ham thích khám phá, tìm tòi những cái mới, hào
hứng với các hoạt động nghệ thuật, thể dục, mỹ thuật, đặc biệt đối với âm
nhạc. Các em có khả năng ca hát, nghe nhạc, nhạy cảm với tiết tấu và giai
điệu âm nhạc. Nhận thức chung của các nước trên thế giới đều cho rằng
“trẻ em không vui chơi sẽ không phát triển được”. Trẻ em do được chơi
nên phát triển. Do vậy, chơi là hoạt động chủ đạo trong giáo dục trẻ em.
Qua dự giờ thăm lớp và khảo sát ý kiến học sinh, chúng tôi cũng nhận thấy
rằng các em rất thích học môn Âm nhạc.

2
Trường ĐH An Giang là trường đào tạo đa ngành cho sinh viên trong
tỉnh và các tỉnh lân cận thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Để hỗ
trợ cho sinh viên ngành sư phạm kiến tập, thực tập, nhà trường đã thành lập
trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An Giang. Ngoài cấp THPT và
THCS, trường có 25 giáo viên tiểu học dạy tất cả các môn học trong đó có
âm nhạc.
Môn học Âm nhạc ở trường tiểu học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5. Ở
lớp 1, 2, 3 học sinh được học hát, phát triển khả năng nghe nhạc. Với hai
nội dung này, phần âm nhạc trong sách Nghệ thuật được lồng ghép khá
nhiều trò chơi âm nhạc nên rất thu hút học sinh khi tham gia học tập. Lên
lớp 4, lớp 5 ngoài hai nội dung trên học sinh còn được học tập đọc nhạc.

Tuy nhiên, sách giáo viên âm nhạc ở hai khối lớp này lại có rất ít các gợi ý
về trò chơi âm nhạc như các lớp 1, 2, 3.
Ngoài ra, một số trò chơi âm nhạc gợi ý trong sách giáo viên được
xây dựng dựa trên phạm vi cả nước, thiếu yếu tố vùng miền, chưa thực sự
đa dạng và phong phú, có nhiều bất cập khi sử dụng. Đặc biệt khi sử dụng
các trò chơi âm nhạc này vào từng địa phương, từng trường, học sinh tham
gia còn gượng ép, chiếu lệ, thiếu tự nhiên, ít hứng thú. Từ đó làm giảm hiệu
quả của trò chơi trong dạy học âm nhạc.
Bên cạnh đó, giáo viên tiểu học Trường Phổ thông Thực hành Sư
Phạm An Giang được đào tạo để dạy tất cả các môn học trong đó có môn
Âm nhạc nên khả năng về âm nhạc chỉ đạt ở một mức độ nhất định, còn
lúng túng trong việc tổ chức trò chơi âm nhạc cho học sinh. Qua dự giờ,
quan sát giáo viên lớp 4, lớp 5 tại trường thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy
trong dạy học âm nhạc, giáo viên thường tập trung quá nhiều vào nội dung
bài học, bám sát các hoạt động chính trên lớp theo hướng dẫn của sách giáo
viên mà chưa chú ý đến các hoạt động thư giãn mang tính vừa chơi, vừa

3
học theo phương châm “chơi mà học, học mà chơi” từ những trò chơi âm
nhạc, để từ đó sẽ giúp cho học sinh có thêm sự hưng phấn trong học tập,
tiếp thu bài học tốt, nhớ bài lâu, rèn luyện kỹ năng âm nhạc và lớp học trở
nên sinh động hơn.
Từ những băn khoăn trên, chúng tôi nhận thấy việc cần thiết phải xây
dựng và tổ chức sử dụng thêm các trò chơi âm nhạc vào giờ học âm nhạc
cho học sinh lớp 4, lớp 5 tại trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An
Giang là vấn đề cấp thiết trong việc góp phần giáo dục toàn diện cho HS,
đáp ứng được mục tiêu chương trình giáo dục tiểu học đã đề ra.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn nói trên, chúng tôi đã lựa chọn đề
tài nghiên cứu Trò chơi trong giờ học âm nhạc, trường Phổ thông Thực

hành Sư phạm An Giang cho luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và
Phương pháp dạy học Âm nhạc.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu này, có không ít các tác giả đã
nghiên cứu về nhiều khía cạnh đối với âm nhạc và trò chơi âm nhạc, tiêu
biểu như:
Ngô Thị Nam (chủ biên) (1996), Sách Âm nhạc và phương pháp giáo
dục âm nhạc (Tập 2), dùng cho giáo sinh các hệ sư phạm Mầm non, Nxb Giáo
dục. Tác giả đã trình bày về vai trò và cách tổ chức trò chơi âm nhạc cho trẻ
trước tuổi học.
Hoàng Văn Yến (1996), Sách Trò chơi âm nhạc cho trẻ mầm non,
Tác giả đã trình bày, giới thiệu, hướng dẫn cách tổ chức trò chơi âm nhạc
cho trẻ mầm non, Nxb Giáo dục.
Ngô Thị Nam (2001), Phương pháp dạy học âm nhạc, giáo trình hệ
CĐSP đào tạo giáo viên âm nhạc trung học cơ sở, Nxb Giáo dục. Tác giả
trình bày các cơ sở lý luận chung về dạy học AN, phương pháp dạy hát và
tổ chức các hoạt động ngoại khoá ở trường THCS.

4
Thái Phong Minh (2004), Sách Lịch sử trò chơi, Tác giả đã trình bày
về bản chất, đặc điểm và lịch sử phát triển của trò chơi, đồng thời mô tả các
loại hình trò chơi trong đời sống xã hội, sách do Nxb Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh phát hành.
Lý Thu Hiền (2007), Trò chơi âm nhạc cho trẻ từ 2 đến 6 tuổi theo
hướng tích hợp chủ đề, Nxb Giáo dục Hà Nội. Tác giả xây dựng và phân
tích các trò chơi âm nhạc tích hợp theo chủ đề nhằm để tổ chức các hoạt
động cho trẻ từ 2 đến 6 tuổi.
Lê Thu Hương (2010), Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện,
câu đố theo chủ đề cho trẻ 5-6 tuổi, Nxb Giáo dục Việt Nam. Tác giả sưu

tầm và tuyển chọn các trò chơi, bài hát, thơ ca... theo chủ đề nhằm để dạy
học cho trẻ 5-6 tuổi.
Phạm Thị Hoà (2014), Giáo trình Phương pháp Giáo dục Âm nhạc
trong trường Mầm non, Nxb Đại học Sư phạm. Giáo trình gồm 4 chương,
ngoài các phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động âm nhạc, tác giả
dành trọn mục IV ở chương 2 để trình bày các dạng trò chơi âm nhạc và
hướng dẫn cách chơi.
Vũ Thị Mến (2003), Xây dựng một số trò chơi âm nhạc cho trẻ lứa
tuổi 5 - 6 tuổi, đề tài nghiên cứu khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội;
tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục âm nhạc ở
trường mầm non, làm cơ sở để xây dựng các trò chơi âm nhạc phù hợp đặc
điểm và khả năng của trẻ lứa tuổi 5 - 6 tuổi; tìm hiểu các trò chơi âm nhạc
trong dân gian và trên các phương tiện thông tin để tổ chức cho trẻ chơi
nhằm phát triển các kỹ năng âm nhạc, từ đó góp phần vào việc phát triển trí
tuệ và nhân cách của trẻ.
Nguyễn Thị Hòa (2010), Phát huy tính tích cực nhận thức của trẻ
mẫu giáo 5-6 trong trò chơi học tập, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội cho
rằng, bằng các trò chơi học tập dưới hình thức chơi nhẹ nhàng sẽ nâng

5
cao hứng thú cho trẻ, phát triển năng lực tập trung chú ý, đảm bảo cho
việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng một cách tốt hơn.
Trần Đình Lộc (2009), Thực trạng giảng dạy môn Âm nhạc ở một số
trường tiểu học tỉnh An Giang đã đi sâu nghiên cứu về thực trạng dạy học
âm nhạc ở cấp tiểu học để làm rõ ưu - nhược điểm của giáo viên tiểu học
An Giang trong dạy học âm nhạc.
Nguyễn Thị Thanh Loan (2014), Một số bài hát đồng dao sử dụng
trong trò chơi âm nhạc tại trường tiểu học Ỷ La thành phố Tuyên Quang,
Luận văn thạc sĩ Khóa 3 (2014-2016), Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương.

Vũ Thị Thanh Nhiều (2014), Xây dựng trò chơi để biết những ký hiệu
âm nhạc sơ giảng trong dạy trẻ năng khiếu của các trường học mầm non Hà
Nội, Luận văn thạc sĩ Khóa 3, Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương.
Lê Ngọc Tuyền (2014), Đổi mới phương pháp dạy học âm nhạc cho
học sinh lớp 4, 5 trường tiểu học Ban Mai - Hà Đông - Hà Nội, Luận văn
thạc sĩ Khóa 3, Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương.
Nguyễn Thị Thu Trang (2016), Trò chơi âm nhạc trong giờ học tăng
cường của học sinh tiểu học tại thành phố Nam Định, Luận văn thạc sĩ
Khóa 4, Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương.
Phạm Công Thành (2004), Tìm hiểu bài hát sử dụng trong chương
trình trò chơi âm nhạc ở trường Mẫu giáo, Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP
Âm nhạc chuyên tu Khoá 3.
Đây chính là nguồn tư liệu quý báu để chúng tôi có thể tiếp cận trong
nghiên cứu cơ sở lý luận cho nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Giúp học sinh củng cố kiến thức, ôn luyện những kỹ năng âm nhạc,
tạo hứng thú trong học tập, khơi dậy lòng yêu thích đối với môn âm nhạc ở
các em, giáo viên sẽ thuận lợi hơn trong việc tổ chức hoạt động trò chơi

6
trên lớp. Từ đó, nhằm để nâng cao chất lượng môn Âm nhạc hướng tới hiệu
quả giáo dục thẩm mỹ âm nhạc, hình thành nhân cách và phát triển toàn
diện cho học sinh thông qua trò chơi âm nhạc phù hợp với đặc điểm của
học sinh tiểu học Trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An Giang góp
phần cải tiến cách tổ chức dạy học âm nhạc tại trường.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện 3 nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Tìm hiểu các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu, cụ thể

là trò chơi âm nhạc.
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng trò chơi âm nhạc trong dạy và học âm
nhạc khối lớp 4, lớp 5.
- Thiết kế và tổ chức thực nghiệm sư phạm một số trò chơi âm nhạc
cho học sinh lớp 4, 5 Trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sử dụng trò chơi trong giờ học âm nhạc cho HS tiểu học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khối lớp 4 và 5 tại trường Phổ thông thực hành Sư phạm An Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng 3 phương pháp nghiên cứu chính như sau:
- Dùng phương pháp phân tích tổng hợp các tài liệu liên quan đến
vấn đề nghiên cứu để thu thập những thông tin, số liệu cần thiết làm cơ sở
lý luận cho luận văn.
- Dùng phương pháp điều tra thông qua dự giờ, quan sát, phỏng vấn
trao đổi trực tiếp và khảo sát ý kiến giáo viên, học sinh đối với việc tổ chức
trò chơi âm nhạc trong dạy học âm nhạc ở lớp 4, lớp 5 để có cái nhìn tổng
quan cũng như hiểu rõ về tình hình dạy học âm nhạc của GV tiểu học.

7
- Dùng phương pháp thực nghiệm sư phạm ở khối lớp 4 và lớp 5 để
kiểm chứng một số trò chơi âm nhạc được thiết kế mới nhằm kiểm định
tính khả thi từ những biện pháp đã đề xuất.
Ngoài ra, đề tài còn tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học
của những tác giả đi trước để kế thừa và phát triển.
6. Những đóng góp của đề tài
Luận văn nghiên cứu thành công sẽ có những đóng góp trong việc
tạo hứng thú cho học sinh, giúp giáo viên tiểu học có điều kiện thuận lợi

hơn trong việc tổ chức trò chơi âm nhạc cho các em, đồng thời với mong
muốn nâng cao chất lượng dạy học âm nhạc cấp tiểu học tại trường Phổ
thông thực hành Sư phạm An Giang, góp phần giáo dục thẩm mỹ âm nhạc,
hình thành nhân cách phát triển toàn diện cho học sinh. Những đóng góp
thiết thực của luận văn cụ thể là:
Thứ nhất, tìm hiểu rõ kỹ năng thiết kế và tổ chức trò chơi âm nhạc
của GV tiểu học trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An Giang.
Thứ hai, xây dựng một số trò chơi âm nhạc cho HS lớp 4, lớp 5
trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An Giang.
Thứ ba, xây dựng quy trình tổ chức thực hiện trò chơi âm nhạc cho
HS lớp 4, lớp 5 trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An Giang.
Sản phẩm nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
văn gồm 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Xây dựng trò chơi trong giờ học âm nhạc cho học sinh
lớp 4, lớp 5

8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Trong chương một, chúng tôi sẽ nghiên cứu một số nội dung cần
thiết để làm cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài như: làm rõ một số khái
niệm công cụ, tìm hiểu về môn học Âm nhạc ở cấp tiểu học, vai trò của trò
chơi âm nhạc đối với học sinh lớp 4, lớp 5 và thực trạng sử dụng trò chơi
trong giờ học Âm nhạc tại trường Phổ thông Thực hành Sư phạm An giang.
1.1. Giải thích một số khái niệm, thuật ngữ

Liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cho rằng cần
giải thích các khái niệm, thuật ngữ về “trò chơi” và “trò chơi âm nhạc”.
1.1.1. Trò chơi
“Trò” và “chơi” tuy có những ý nghĩa khác nhau, nhưng trong thực
tế cuộc sống, “trò” và “chơi” hay kết hợp với nhau tạo thành một từ ghép
có nghĩa chung là “trò chơi”.
Trong các Từ điển Tiếng Việt năm 2006, năm 2013 cùng cho rằng:
“Trò chơi là một hoạt động vui chơi, giải trí” [42, tr.1241], [34, tr.1122]
như: trò chơi dân gian, trò chơi âm nhạc, trò chơi vận động…
Cũng là “trò chơi” nhưng tác giả Hoàng Phê (2016) giải thích như
sau: “Trò chơi là hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí” [37, tr.1314] như:
Ngày hội có nhiều trò chơi, Coi việc đó như một trò chơi.
Tóm lại, “trò chơi” được hiểu là những hoạt động làm thỏa mãn
những nhu cầu của con người, trước hết là vui chơi, giải trí. Tuy nhiên,
theo chúng tôi, “trò chơi” là một hoạt động có tính quy tắc, thoả mãn nhu
cầu giải trí và còn có ý nghĩa giáo dục đối với con người. Nhằm để giúp
cho mọi người thư giãn sau những giờ học mệt mỏi hay làm việc vất vả.
Vậy trò chơi có những đặc điểm gì?

9
Về vấn đề này, tác giả Thái Phong Minh “Lịch sử trò chơi” năm
2004, cho rằng trò chơi có ba đặc điểm chính: “Một là tính giải trí, hai là
tính quy tắc, ba là tính văn hóa” [26, tr.11-13]. Tác giả giải thích như sau:
Tính giải trí: Kết quả của trò chơi sẽ có ảnh hưởng quan trọng tới
tinh thần của con người, đó chính là làm cho con người cảm thấy
vui vẻ về mặt tình cảm. Qua hoạt động trò chơi nhất định, con
người sẽ sinh ra cảm giác thoải mái, hưng phấn, cảm thấy được
thoả mãn về mặt tinh thần. Trong xã hội thời cổ có rất nhiều
người thích chơi trò chơi, thậm chí ngay cả một số hoàng đế cao

quý và các văn nhân nhàn rỗi đều thích trò chơi, điều họ theo đuổi
chính là tính giải trí của trò chơi.
Tính quy tắc: Trò chơi là một hoạt động vui chơi giải trí bị hạn
chế bởi các quy tắc nhất định. Đây là bản chất đặc trưng vô cùng
quan trọng của trò chơi. Cho nên trò chơi đều phải tiến hành trong
quy tắc đã quy định trước và mọi người đều tuân theo, nếu không
nó không được gọi là trò chơi nữa, như rất nhiều hoạt động giải trí
trong phong tục tập quán ngày lễ thời cổ đều có bộ quy tắc hoạt
động cố định, vì thế đều là hoạt động trò chơi. Dù có tính giải trí
nhưng do mang nặng tính tuỳ ý nên không được gọi là trò chơi.
Tính văn hoá: Trò chơi tuy là một hoạt động bản năng của con
người nhưng lại có tính văn hoá quan trọng. Tính văn hoá này chủ
yếu thể hiện ở chỗ khi con người theo đuổi các hoạt động trò chơi
thì đã hoà nhập tinh thần chủ quan và khuynh hướng giá trị của
mình vào với trò chơi. Người ta thường căn cứ vào yêu cầu, mục
đích của mình để thiết kế và theo đuổi hoạt động trò chơi. Vì thế,
hoạt động trò chơi thể hiện sức mạnh bản chất của con người và
có ý nghĩa văn hoá sâu sắc.

10
Có nhận thức về đặc điểm trò chơi, chúng ta sẽ dễ dàng nắm vững
nội dung của trò chơi và có thể không khó khăn gì để vạch ra
được ranh giới tương đối rõ ràng giữa trò chơi với các hình thức
văn hoá khác. Ví dụ chúng ta có thể dựa vào đó để phân biệt sự
khác biệt giữa trò chơi với rèn luyện thể dục, giữa trò chơi với
biểu diễn văn nghệ, giữa trò chơi với hoạt động giải trí nói chung
[26, tr.11-13].
Bàn về đặc điểm của trò chơi, tác giả Hoàng Thị Tám “Phương pháp
trò chơi trong dạy học Toán ở trường tiểu học” cho rằng [38, tr.3,4]:

Trò chơi là một hoạt động tự do: Tất cả các em tham gia vào trò chơi
đều không bị gò ép, bắt buộc. Đây cũng là một đặc trưng hấp dẫn và thu
hút khi chính các em tham gia. Bởi lẽ trong không khí vui vẻ, náo nức ấy
các em có thể phát huy cao nhất khả năng và những sáng kiến của mình để
đem về phần thắng mà không phụ thuộc vào người khác. Tự do tham gia,
tự do cổ vũ, tự do tìm tòi sáng tạo trong sự chứng kiến của tập thể giúp các
em phát huy cao nhất năng lực của mình.
Trò chơi được giới hạn bởi không gian và thời gian: Nội dung của trò
chơi và mục đích giáo dục của trò chơi phụ thuộc vào người tổ chức trò
chơi. Vì thế, phải có các không gian khác nhau để đáp ứng với từng trò
chơi. Mặt khác, dù ở bất kì quy mô nào thì trò chơi cũng mất một thời gian
nhất định. Do đó người tổ chức, hướng dẫn phải có sự tính toán về thời
gian sao cho hợp lí, vừa đáp ứng được mục đích, yêu cầu đề ra, vừa đảm
bảo được kế hoạch thời gian chung.
Trò chơi không làm ra của cải: Không những không làm ra của cải
mà khi chơi còn cần có những điều kiện và phương tiện vật chất nhất định.
Cuộc chơi có quy mô lớn, phức tạp, đông người thì vật chất cũng tỉ lệ thuận
với tính chất đó.

11
Trò chơi là một hoạt động giả định: Dù trò chơi có nguồn gốc từ đâu
thì bao giờ cũng tạo ra một cuộc sống khác hẳn với cuộc sống bình thường
và luôn gây cho người chơi một nhận thức, cảm giác đối với thực tại.
Như vậy, chúng tôi nhận thấy rằng, giữa các tác giả trên khi nêu đặc
điểm của trò chơi lại có những mâu thuẫn. Thái Phong Minh thì cho rằng
trò chơi có tính quy tắc nhưng theo tác giả Hoàng Thị Tám thì lại cho rằng
trò chơi là một hoạt động tự do. Theo quan điểm của chúng tôi, trò chơi
không hoàn toàn là một hoạt động tự do. Trò chơi có quy tắc trong luật
chơi chung, tuy nhiên người chơi được thể hiện cách chơi của mình bằng

sự tự do nhất định, có như thế trò chơi mới thực sự thú vị. Nhà tâm lý học
J.Piaget cũng đã nhấn mạnh rằng trẻ em từ 7 đến 11 tuổi thuộc giai đoạn
thứ ba trong quá trình phát triển nhận thức đó là “Giai đoạn trò chơi có
luật” [32, tr.13].
Từ những lý luận trên, chúng tôi nhận thấy rằng mọi trò chơi đều có
những đặc điểm chung là có tính giải trí, có tính quy tắc, tính tranh đua
đồng thời được giới hạn bởi không gian và thời gian.
1.1.2. Trò chơi âm nhạc
Nghiên cứu về trò chơi âm nhạc, tác giả Ngô Thị Nam Âm nhạc và
Phương pháp giáo dục âm nhạc [27, tr.131] cho rằng: “Trò chơi âm nhạc là
dạng hoạt động âm nhạc tương đối tổng hợp, có sử dụng tất cả các dạng
hoạt động âm nhạc khác như: ca hát, vận động theo nhạc, nhảy múa, nghe
nhạc… dưới những hình thức hấp dẫn, vừa sức và được trẻ rất yêu thích”.
Cũng là khái niệm về trò chơi âm nhạc, tác giả Vũ Thị Thanh Nhiều
trong luận văn Thiết kế trò chơi nhận biết ký hiệu âm nhạc cho trẻ năng
khiếu ở các trường mầm non thành phố Hà Nội [35, tr.16]: “Trò chơi âm
nhạc chính là những hoạt động vui chơi, trải nghiệm và thu nhận các kiến
thức, kỹ năng thực hành âm nhạc cho trẻ”.

12
Trò chơi vừa là hình thức, đồng thời là biện pháp để giúp học sinh
thu nhận, tích lũy, thực hành kỹ năng, hình thành tri thức và kinh nghiệm
hoạt động âm nhạc. Với mỗi trò chơi âm nhạc bao giờ cũng bao gồm hai
yếu tố kết hợp chặt chẽ và tích hợp trong nhau không thể chia tách, các nội
dung và yêu cầu chơi luôn được thể hiện qua những yêu cầu về kỹ năng
thực hành âm nhạc. Hay có thể nói, nội dung và yêu cầu thực hành kỹ năng
âm nhạc luôn luôn song hành với nhau, hai yếu tố này sẽ luôn quyết định
tính chất và hành động trong những trò chơi âm nhạc. Tác giả Ngô Thị
Nam cho rằng: “Đặc trưng cơ bản nhất của trò chơi âm nhạc là âm nhạc

quyết định nội dung và tính chất các hoạt động” [27, tr.131].
Như vậy, chúng tôi hiểu rằng “trò chơi âm nhạc” là một hoạt động
vui chơi nhằm giúp cho học sinh củng cố những kiến thức và kỹ năng âm
nhạc đã học, cảm thấy thoải mái hơn trong học tập theo nguyên tắc “Chơi
mà học”.
Trong mỗi trò chơi âm nhạc, bao giờ cũng nhằm mục đích tạo sự vui
tươi, thoải mái cho học sinh, làm tăng thêm cảm xúc với âm nhạc, đồng
thời cũng giải quyết các nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể về nhận thức, rèn luyện
hay củng cố những kiến thức đã học, kỹ năng thực hành âm nhạc. Chính vì
vậy, mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, hành động chơi, luật chơi, thời gian, quá
trình chơi đều phải tôn trọng những đặc trưng, những thành tố, tính thẩm
mỹ của nghệ thuật âm nhạc, căn cứ vào khả năng thực hành của học sinh,
bên cạnh việc đảm bảo các điều kiện về phương tiện, thiết bị cơ sở vật chất
và an toàn với học sinh qua từng tiết học ở trường tiểu học.
Tóm lại, qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu cách giải thích các khái
niệm, thuật ngữ như: “trò”, “chơi”, “trò chơi” và “trò chơi âm nhạc” để từ
đó làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo trong luận văn này.

13
1.2. Giờ học Âm nhạc ở trường tiểu học
1.2.1. Chương trình môn Âm nhạc ở trường tiểu học
Mục tiêu chung của chương trình Âm nhạc tiểu học là: Thông qua
môn học Âm nhạc mà các em học sinh được hoạt động, được nhận thức,
được cảm thụ âm nhạc… đồng thời trang bị cho học sinh một số kiến thức
về văn hoá âm nhạc phổ thông và cùng với những môn học khác giáo dục
nhân cách, góp phần phát triển toàn diện học sinh.
Chương trình môn Âm nhạc ở trường tiểu học được xây dựng theo
các nội dung chính sau đây [PL2, tr.101]:
Đối với lớp 1, 2, 3:

- Học hát
- Phát triển khả năng nghe nhạc
Đối với lớp 4, 5:
- Học hát
- Phát triển khả năng âm nhạc
- Tập đọc nhạc
Phân phối thời lượng chương trình: Mỗi lớp học 35 tiết, mỗi tuần
học 1 tiết, mỗi tiết 35 phút [PLl, tr.99].
Tóm lại, chương trình môn âm nhạc ở trường tiểu học được xây
dựng theo 3 nội dung chính đó là: học hát, phát triển khả năng âm nhạc và
tập đọc nhạc.
1.2.2. Cấu trúc giờ học âm nhạc trong sách lớp 4, lớp 5
Từ lớp 1 đến lớp 3, âm nhạc là một phần trong sách Nghệ thuật (cùng
các môn Mĩ thuật và Thủ công). Đối với lớp 4 và lớp 5, âm nhạc được tách
ra thành một môn học độc lập với tên gọi Âm nhạc 4 và Âm nhạc 5.
Trong giờ học âm nhạc lớp 4, lớp 5, tiết thứ nhất dành toàn bộ cho
việc dạy học bài hát, tiết thứ 2 ôn lại bài hát đã học và thêm một nội dung

14
mới như: tập đọc nhạc, nghe nhạc hoặc kể chuyện âm nhạc... Giờ học âm
nhạc lớp 4, lớp 5 có hai dạng tiết đó là dạng tiết có 1 hoạt động và dạng tiết
có 2 hoạt động:
Dạng thứ nhất: Giờ học chỉ có 1 hoạt động thường là học hát.
- Ở lớp 4 có 8 tiết học hát, gồm: tiết 2, 8, 10, 12, 21, 23, 26, 28.
- Lớp 5 có 10 tiết học hát, gồm: tiết 2, 4, 6, 9, 12, 19, 21, 24, 26, 30.
- Ngoài ra, trong sách Âm nhạc lớp 4, 5 còn có các tiết học bài hát do địa
phương tự chọn như: tiết 15, 32 ở lớp 4; tiết 16, 32 ở lớp 5 và các tiết kiểm tra
học kỳ.

Dạng thứ hai: Giờ học có 2 hoạt động
- Ôn tập bài hát
- Hoạt động kết hợp:
 Làm quen các ký hiệu âm nhạc cơ bản: Tên nốt, hình nốt, dấu lặng
đen, lặng đơn, khuông nhạc, khoá sol,…
 Nghe nhạc: Một số bài hát có lời hoặc không lời Việt Nam, nước
ngoài, một số bài dân ca.
 Kể chuyện âm nhạc: Một số truyện kể mang tính thần thoại về âm
nhạc Việt Nam, nước ngoài, về các nhạc sĩ trong nước và thế giới.
 Tập đọc nhạc: Các bài tập đọc nhạc đơn giản được soạn mới
hoặc trích từ những bài hát đã học ở các lớp 1, 2, 3, thông thường có 8
hoặc 12 ô nhịp và hầu hết viết ở giọng Đô trưởng.
 Trò chơi âm nhạc: Một số trò chơi theo nội dung tiết học trong
chương trình âm nhạc nội khoá [PL14, tr.149].
Tóm lại, cấu trúc giờ học âm nhạc trong sách Âm nhạc lớp 4, lớp 5
được thiết kế theo 2 dạng tiết, cụ thể là: dạng tiết có 1 hoạt động và dạng
tiết có 2 hoạt động.

15
1.2.3. Tìm hiểu về trò chơi âm nhạc trong SGV Âm nhạc tiểu học
Chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, phân loại,
tổng hợp để tìm hiểu về trò chơi trong sách Âm nhạc tiểu học, chúng tôi
nhận thấy rằng: Các lớp 1, 2, 3 có nhiều gợi ý hướng dẫn về trò chơi âm nhạc
với tổng cộng 59 trò chơi. Đối với lớp 4 và lớp 5 có rất ít các gợi ý hướng dẫn
chỉ vỏn vẹn 4 trò chơi âm nhạc cho cả 2 lớp [PL14, tr.149], còn lại chủ yếu là
gợi ý một số động tác phụ hoạ cho các bài hát, cụ thể như sau:
1.2.3.1. Sách giáo viên Âm nhạc lớp 1, 2, 3
Trong SGV Âm nhạc lớp 1, có tổng cộng 16 trò chơi được hướng dẫn
cụ thể, phân phối đều cho cả năm học. Mỗi trò chơi gắn liền với một tiết

học được gợi ý tổ chức có thể giữa tiết hoặc cuối tiết. Trong số đó, một số
trò chơi được sử dụng lập lại vài lần nhưng cũng có trò chơi chỉ dùng một
lần trong suốt năm học. Chẳng hạn như trò chơi Tên tôi tên bạn, Nói thơ
hay Đọc thơ theo tiết tấu được gợi ý tổ chức ở các tiết 9, 10, 14, 15, 16 đây
là dạng trò chơi mà HS phải đọc hoặc nói thơ theo một kiểu tiết tấu đơn
giản, trích từ một bài hát cụ thể nhằm để ôn luyện tiết tấu đã học trước đó.
Loại trò chơi phát triển tai nghe về cao độ như Phân biệt âm thanh cao
thấp, Phân biệt hướng đi của âm thanh ở tiết 20, 22. Trò chơi Hát nối tiếp,
Hát đối đáp ở hai tiết 17, 30 nhằm phát triển triển khả năng chú ý lắng
nghe để có thể hát được câu hát của nhóm mình đúng nhịp và đúng cao độ
cùng với những nhóm khác. Trò chơi Tiếng hát ở đâu tiết 17, giúp HS phát
triển khả năng nghe, phán đoán, định hướng được vị trí phát ra âm thanh,
phân biệt được số lượng 1 người hay nhiều người hát, cũng có thể đoán có
khoảng bao nhiêu người. Các trò chơi gắn liền với bài đồng dao hay gắn
với tên bài hát liên quan đến trò chơi dân gian như Ngựa ông đã về, Tập
tầm vông, Có - không ở các tiết 4, 5, 21, 23. Bên cạnh đó cũng có trò chơi
sắm vai theo bài hát Năm ngón tay ngoan như tiết 32.

16
Đối với lớp 2, SGV hướng dẫn cụ thể 21 trò chơi âm nhạc được phân
bổ như sau: Giống như lớp 1, một số trò chơi ở lớp 2 cũng được lập lại như
Đọc thơ theo tiết tấu ở tiết 14, 32. Trò chơi Hát đối đáp, Hát nối tiếp cũng
được phát triển từ 2 trò ở lớp 1 lên 3 trò chơi ở lớp 2 trong các tiết 22, 25,
28. Để phát triển tai nghe về cao độ với trò chơi Phân biệt âm thanh cao thấp, dài - ngắn ở tiết 8, rèn luyện về tiết tấu có trò chơi Nghe tiết tấu đoán
câu hát, tên bài hát ở các tiết 5, 22, 29. Các trò chơi kết hợp với nhạc cụ gõ
như phách, song loan, mõ, trống; trò chơi thay lời hát bằng âm thanh tượng
trưng cho tiếng đàn, tiếng kèn, tiếng trống hay thay lời hát bằng các nguyên
âm a, e, i, o, u trong các tiết 3, 5, 14. Dạng trò chơi gắn với tên bài hát như
Cộc cách tùng cheng, Chiến sĩ tí hon, Chú ếch con, Chim bay - cò bay ở

tiết 11, 13, 17, 29, 33. Ngoài ra, tiết 10 có trò chơi đố vui Phân biệt nhịp 2,
nhịp 3 và tiết 16 với trò chơi Nghe tiếng hát tìm đồ vật. Các trò chơi gắn
liền với bài đồng dao, gắn với một loại trò chơi dân gian như Rồng rắn lên
mây, Bắc kim thang tiết 20 và 32. Như vậy, so với lớp 1, số lượng trò chơi
ở lớp 2 tăng thêm 5.
Lên lớp 3, phần âm nhạc trong SGV hướng dẫn tổng cộng 22 trò
chơi, phân phối đều ở các tiết học cho cả năm học. Ngoài những trò chơi
giống ở lớp 1, lớp 2 như Hát nối tiếp, Hát đối đáp trong các tiết 3, 4, 9, 19.
Hát bằng nguyên âm, Đoán tên bài hát bằng cách hát lời bài hát bởi các
nguyên âm ở tiết 6, 17, 18. Dạng trò chơi Nói theo tiết tấu từ 1 đến 100
theo bài Đếm sao tiết 6 trong chương trình. Nhũng trò chơi ở lớp 3 cũng bắt
đầu có độ khó tăng dần, đồng thời khai thác một số lý thuyết âm nhạc đưa
vào trò chơi như trò chơi Khuông nhạc và bàn tay, Gắn nốt nhạc trên
khuông, Bảy anh em trong các tiết 16, 20, 24, 29, 31. Dạng trò chơi giúp
học sinh phân biệt 2 tiết tấu ở tiết 11, 19 đó là So sánh tiết tấu câu đầu hoặc

17
cả bài của 2 bài hát đã học. Các trò chơi giúp rèn luyện gõ phách mạnh,
phách nhẹ, ôn luyện về tiết tấu trong tiết 12, 21 như Vỗ tay theo nhịp 3/4.
Ngoài ra, tiết 31, 32 có trò chơi khác Phân biệt âm sắc hay Hát những bài
hát có tên con vật cũng được đưa vào chương trình âm nhạc lớp 3.
Qua phân tích SGV, phần âm nhạc lớp 1, 2, 3, chúng tôi nhận thấy
rằng, số lượng và độ khó của các trò chơi âm nhạc tăng dần theo từng lớp.
Nhiều dạng trò chơi khác nhau được bố trí trong suốt năm học tạo điều kiện
thuận lợi rất nhiều cho giáo viên tiểu học khi soạn bài và dạy học trên lớp.
1.2.3.2. Sách giáo viên Âm nhạc lớp 4, 5
Đến lớp 4, lớp 5, mỗi lớp chỉ có 2 trò chơi trong đó 1 trò chơi được
lập lại ở lớp 3 đó là Khuông nhạc và bàn tay. Cả hai lớp này cũng có cùng
trò chơi Đọc tiết tấu theo tiếng trống. Có thể thấy, số lượng trò chơi ở lớp

4, lớp 5 rất ít, trùng lấp và thiếu phong phú, không có sự phân bổ đồng đều
như các lớp 1, 2, 3 mà hầu hết tập trung vào học kỳ I: tiết 1, 3 lớp 4 và tiết
7, 13 lớp 5 cụ thể như sau:
 Lớp 4: Chỉ có 2 trò chơi
Tiết 1, trò chơi Khuông nhạc và bàn tay.
Tiết 3, trò chơi đọc tiết tấu bắt chước tiếng trống “tùng tùng…”.
 Lớp 5: Chỉ có 2 trò chơi
Tiết 7, trò chơi nghe, đoán tên nốt nhạc và đọc lên cao độ.
Tiết 13, trò chơi bắt chước tiếng trống: nốt đen - đọc tùng, nốt móc
đơn - đọc rinh, nốt trắng - đọc tùng ngân dài.
Có thể nói, ở lớp 4, lớp 5, GV tiểu học sẽ gặp những khó khăn nhất
định trong khi soạn bài để dạy học, cũng như tổ chức trò chơi trên lớp cho
HS bởi số lượng trò chơi được gợi ý hướng dẫn trong SGV quá ít ỏi. Như
vậy, đối với các lớp 1, 2, 3 với số lượng trò chơi vượt trội, tăng dần theo
từng lớp so với lớp 4, lớp 5, điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho GV tiểu

18
học khi dạy học trên lớp rất nhiều đặc biệt là tổ chức chơi trò chơi âm nhạc
cho các em. Tuy nhiên, sự đa dạng và phong phú của các trò chơi trong
chương trình âm nhạc chưa cao, thiếu yếu tố vùng miền, một số trò chơi
được lập đi lập lại tạo nên sự nhàm chán đối với HS.
Qua những số liệu trên, chúng tôi lập biểu đồ nhằm để so sánh sự
chênh lệch rõ rệt số lượng trò chơi âm nhạc giữa các lớp 1, 2, 3 và lớp 4, 5.

Biểu đồ 1.1. So sánh số lượng trò chơi âm nhạc của các lớp
Qua biểu đồ, chúng tôi nhận thấy rằng, môn Âm nhạc ở lớp 4, lớp 5 có
rất ít các gợi ý hướng dẫn về trò chơi âm nhạc, mỗi lớp chỉ có 2 trò chơi. Vì
thế, học sinh lớp 4, lớp 5 ít được chơi trò chơi hơn đối với các em lớp 1, 2,
3, trong khi lứa tuổi này còn khá nhỏ cũng rất hồn nhiên, hiếu động, thích

được vui chơi đặc biệt là trong học tập. Chúng tôi cho rằng, điều đó có thể
làm ảnh hưởng phần nào đến chất lượng giờ học âm nhạc.
Tóm lại, trong mục này, chúng tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu về trò chơi
âm nhạc trong sách giáo viên âm nhạc tiểu học từ lớp 1 đến 5 và nhận thấy