Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 viết được một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu
I. ĐẶT VẤN ĐỀDạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng trên. Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện, hoàn cảnh sống của học sinh ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ…Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng. Show
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em đựơc làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý. Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp mình. Đây là lý do tôi chọn và áp dụng “Một số kinh nghiệm để giúp học sinh lớp 2A viết được đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu”. Sau đây, tôi xin trình bày một số giải pháp mà bản thân đã đúc kết được trong thời gian qua. Skkn giúp học sinh lớp 2 viết được đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC ĐOẠN VĂN NGẮN TỪ 3 ĐẾN 5 CÂU” 1 PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lí luận: Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và của bậc Tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy không phải là mối quan tâm của một cá nhân nào, mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục bậc tiểu học sẽ góp phần tạo con người mới một cách có hệ thống và vững chắc. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy học ơ bậc tiểu học là làm sao để giáo viên không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới. - Trong trường tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh bơi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ơ các em những cơ sơ của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới. - Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội đủ 4 kỹ năng trên. Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bơi ơ lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, hạn hẹp, chưa định rõ trong giao tiếp, viết câu còn cụt lủn, hoặc câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn chưa rõ ràng. Việc trình bày diễn đạt ý của các em có 2 mức độ rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của HS ơ địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, HS nghèo vốn từ ngữ…Điều này ảnh hương nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng. 2. Cơ sở thực tế: - Quá trình dạy học là một quá trình tư duy sáng tạo – người giáo viên là một kĩ sư của tâm hồn, hơn nữa còn là một nhà làm nghệ thuật. Và việc dạy học ngày nay luôn dựa trên cơ sơ phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Chính vì thế nó đòi hỏi người giáo viên phải luôn có sự sáng tạo, tự cải tiến phương pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học. Mỗi môn học ơ Tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho trẻ những kiến thức cần thiết. Phân môn Tập làm văn ơ Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kĩ năng nói và viết.( ơ lớp 1 các em chưa được học. Lên lớp 2 học sinh mới bắt đầu được học, được làm quen.)Môn Tập làm văn giúp học sinh có kĩ năng sử dụng Tiéng Việt được phát triển từ thấp đến cao, từ luyện đọc cho đến luyện nói, luyện viết thành bài văn theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ nhỏ những hiểu biết sơ đẳng đó cũng chính là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng. Con người văn hoá sẽ hình thành ơ các em từ những việc nhỏ nhất, tương như không quan trọng đó. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ học phân môn Tập làm văn vì các em không biết nói gì ? viết gì ? Ngay cả bản thân giáo viên đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các môn học khác . Do đó khi đứng lớp tôi luôn chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng làm Tập làm văn cho học sinh lớp tôi phụ trách. 3 Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em được làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều HS làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai,cách chấm câu còn hạn chế có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý. Là một giáo viên giảng dạy ơ lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trơ: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho HS của lớp mình. Đây là lý do tôi chọn và viết sáng kiến kinh nghiệm với nội dungg “ “Một biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắntừ 3 đến 5 câu trong giờ Tập làm văn”. Sau đây, tôi xin trình bày một số kinh nghiệm mà bản thân đã đúc kết được trong thời gian qua. II. ĐỐI TƯỢNG – THỜI GIAN - PHẠM VI NGHIÊN CỨU: - Đối tượng và phạm vi: - Sách Tiếng Việt 2, Sách giáo viên Tiếng Việt 2, Tài liệu giảng dạy Tiếng Việt 2, Các bài viết của học sinh lớp 2 3 Trường Tiểu học số 2 Đồng Sơn - TP Đồng Hới. - Thực trạng: Dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 2 còn nhiều khó khăn và hạn chế : Nhiều học sinh còn bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập một cách khoa học và hợp lý. Học sinh viết câu còn cụt lủn, dùng từ sai, câu chưa đúng. Thực tế lớp 2 3 do tôi chủ nhiệm, qua khảo sát kết quả như sau: + Đạt yêu cầu: 10 em + Chưa đạt: 18 em chiếm: 35,7% chiếm: 64,3% PHẦN II. PHẦN NỘI DUNG 4 I. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN TỪ 3 ĐẾN 5 CÂU. Để giúp HS học tốt tiết Tập làm văn viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu của đề bài dưới dạng kiểu bài quan sát và trả lời câu hỏi. Tôi thường vận dụng các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. a. Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp: Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ơ nhà. Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng , mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật. Để làm được dạng bài này các em phải biết quan sát các đối tượng khác nhau: một bức tranh, một cây cối, một con vật. Biết quan sát tức là các em dùng các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, da) để nhận biết đặc điểm của bức tranh hay con vật, cây cối (hình dạng của chúng thế nào, chúng có màu sắc, mùi vị gì, các hoạt động của chúng ra sao). Khi quan sát, đầu tiên các em phải có một cái nhìn chung để xác định được mình đang phải quan sát gì? quan sát cảnh gì ? quan sát con gì? Tiếp theo các em phải biết cách chia đối tượng thành nhiều phần rồi lần lượt quan sát theo nhiều góc độ. Quan sát tranh, sau cái nhìn chung ban đầu, có thể quan sát từ trái sang phải, từ trên xuống dưới; quan sát từ cảnh ơ gần đến những cảnh ơ xa; quan sát những cảnh, nhân vật chính rồi đến cảnh, nhân vật phụ. Ví dụ: Quan sát tranh (QST) về cảnh biển: Quan sát chung: cảnh biển 5 Quan sát từ cảnh gần (sóng biển) đến cảnh xa (những con thuyền, chim, mây, ông mặt trời). + Khi quan sát con vật, các em nhớ quan sát hình dáng bên ngoài, từ hình dáng chung đến đầu, mình, chân, đuôi… con vật: tiếp đó em quan sát hoạt động của chúng. Ví dụ: Quan sát con mèo lúc chạy, lúc ăn. + Khi quan sát cây cối, các em cũng cần quan sát bao quát toàn cây rồi quan sát tán cây, lá, hoa, quả, thân và gốc cây. Ví dụ: Từ xa nhìn lại cây bàng trông như một cây nấm khổng lồ màu xanh. - Cần lưu ý tập trung quan sát những bộ phận chính, lướt qua những bộ phận phụ, nên tập trung vào những gì có khả năng gây sự chú ý mạnh mẽ, những gì là đặc điểm riêng của đối tượng quan sát. Điều quan trọng là không chỉ quan sát bằng giác quan mà bằng cả tấm lòng, quan sát bằng cả tình yêu thiên nhiên, loài vật. Sau khi đã quan sát, em phải biết dùng lời để nêu những nhận xét về những gì mà mình quan sát được, tập trung nói về những gì gây ấn tượng nhất. - Để định hướng cho các em quan sát cũng như nêu nhận xét của mình, bài Tập làm văn có một số câu hỏi gợi ý. Vì vậy, các em sẽ lần lượt trả lời từng câu hỏi này. Đầu tiên, các em gắng trả lời cho đúng điều câu hỏi yêu cầu. Sau đó, các em nên sửa lại lời bằng cách chọn lọc các từ ngữ, sử dụng các từ chỉ hình ảnh, màu sắc… để câu trả lời ngày càng hay hơn, có ý riêng và cách diễn đạt riêng của mình hơn. Các em nhớ câu trả lời hay không phải là câu trả lời chỉ nêu được chính xác đặc điểm của đối tượng được quan sát mà còn thể hiện được thái độ, tình yêu của các đối tượng với sự vật. 6 Yêu cầu các em vừa trả lời những ý các em cần nói. Nhưng muốn nói (viết) thành đoạn, thành bài, lại phải nói (hoặc viết) liên tục nhiều câu làm sao để các câu gắn liền với nhau. c. Phương pháp thực hành giao tiếp: Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng nói, trình bày miệng bài nói trước khi làm bài viết. Trên cơ sơ đó, giáo viên điều chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này,tôi thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong nhóm ) Cho học sinh quan sát có định hướng: Hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác quan sát. - Diễn đạt những điều quan sát được bằng ngôn ngữ có tính tạo hình: hướng dẫn học sinh tìm từ ngữ để thể hiện một cách có hình ảnh những điều quan sát được. - Diễn đạt thành lời văn có hình ảnh về những điều quan sát đã được tổ chức theo một logic: hướng dẫn học sinh nói thành câu văn kể (tả) những điều đã quan sát. - Học sinh quan sát kĩ bức tranh (toàn cảnh và từng chi tiết). Dựa vào vốn hiểu biết thực tế, học sinh tương tượng các màu sắc, hình thù, âm thanh, mùi vị… để khi viết câu trả lời nêu được một ý trọn vẹn, gắn bó với nhau và câu văn sinh động. Giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn tranh, đối chiếu với nội dung đã chuẩn bị để bổ sung từ ngữ diễn đạt chi tiết mới. - Đọc kĩ từng câu hỏi, nắm chắc yêu cầu từ đó suy nghĩ các hình ảnh đã quan sát được và trả lời sao cho gọn, chính xác, hay. - Sắp xếp các ý theo trình tự, nối với nhau cho liền mạch, bài văn hoàn chỉnh. 7 - Giáo viên tổ chức cho học sính trả lời miệng trong nhóm, trả lời miệng trong toàn lớp và chuẩn hóa cách diễn đạt trong câu trả lời, giới thiệu cách lựa chọn từ ngữ, phân tích câu trả lời tốt nhờ biết tương tượng, liên tương, so sánh, nhân hóa. Ghi các từ ngữ làm điểm tựa cho từng câu trả lời lên bảng (từ nối ý, từ ngữ gợi hình ảnh). Học sinh trả lời miệng từng câu hỏi trong toàn lớp, bổ sung, sửa chữa câu trả lời của bạn, ghi chép các từ ngữ làm điểm tựa cho câu trả lời. Ví du: Tuần 25 : Bài : Đáp lời đồng ý. QST, TLCH * Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu: Nhìn tranh (SGK) và TLCH (a,bc,c,d). - QST kĩ từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, cảnh vật to, nhỏ, màu sắc. - Tìm hiểu hệ thống câu hỏi: đọc lần lượt từng câu hỏi. + Câu hỏi (a) yêu cầu trả lời bằng ý bao quát (cảnh gì ?) + Câu hỏi (b,c,d) yêu cầu trả lời bằng nhận xét hay liệt kê những chi tiết cụ thể. Ví du: sóng biển như thế nào ? Trên mặt biển có những gì ? - Nhìn tranh, trả lời rõ ràng, đủ ý từng câu. Nhớ là có rất nhiều cách diễn tả vẻ đẹp của cảnh biển đó. * Hướng dẫn học sinh làm bài: Em nhìn tranh và trả lời từng câu hỏi trong SGK; có thể lựa chọn từ ngữ gợi ý để diễn đạt thành câu. Câu hỏi a. Tranh vẽ cảnh gì? Gợi ý - Cảnh biển buổi sáng 8 - Cảnh biển buổi sớm mai thật đẹp b. Sóng biển như thế nào? - nhấp nhô (từng đợt) - dập dềnh c. Trên mặt biển có những - từng đoàn thuyền nối đuôi nhau chạy vào gì ? bờ cát - mấy chiếc thuyền đánh cá đang giương buồm ra khơi. - mấy con thuyền đang căng buồm ra khơi đánh cá/ d. Trên bầu trời có những gì ? - mặt trời (đỏ ối) đang nhô lên, mấy đám mây bông bềnh (nhơn nhơ) trôi, từng đàn hải âu bay lượn rập rờn. - mặt trời tỏa nắng rực rỡ, mây lững lờ trôi, đàn hải âu đang chao lượn trông đẹp thật. Ví du: Tranh vẽ cảnh đánh cá trên biển. Sóng biển dạt dào xô vào bờ cát trắng. Trên mặt biển có những cánh buồm nhiều màu sắc như những cánh bướm bay giữa trời xanh và những chú chim hải âu đang chao liệng trên sóng biển. Trên bầu trời, ông mặt trời đỏ ối đang nhô lên, những đám mây trắng, mây hồng bồng bềnh trôi. Cảnh biển thật là đẹp. Chú ý: Để làm tốt bài tập làm văn: QST - TLCH, các em cần quan sát kĩ, có tương tượng thêm và bộc lộ nhận xét, cảm nghĩ của bản thân về nội dung bức tranh…, nói, viết phải thành câu rõ ý, đúng ngữ pháp trả lời xong đủ các câu, em đọc lại toàn bộ, gắn bó các câu với nhau để ý sau, ý trước nối tiếp thành đoạn văn, bài văn xuôi nghĩa. 9 c. Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để GV có cơ sơ giúp HS nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận. Ví du: Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, GV hướng dẫn HS nhận biết những vấn đề sau: - Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?( hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc làm gì?/ như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo ). - Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? ( Đảm bảo về mặt nghĩa ) Trên cơ sơ đó , GV hướng dẫn HS đọc kĩ các bài tập đọc có liên quan đến bài tập (nếu có) . Đọc đi đọc lại từng câu hỏi theo đúng thứ tự trong SGK.Vừa đọc vừa nhẩm xem câu hỏi gì và mình sẽ trả lời thế nào? - Lần lượt trả lời câu hỏi theo các bước: + Câu đó hỏi điều gì ? + Suy nghĩ, cân nhắc để tìm ý trả lời cho đủ, cho đúng. Câu trả lời phải rõ ràng, gãy gọn và mạch lạc (ý trước, ý sau nối tiếp nhau chặt chẽ). 10 + Sắp xếp, ghép các câu trả lời theo thứ tự để tất cả các câu hợp thành đoạn văn, bài văn trọn vẹn. Ví du: Tuần 8: Bài: Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị. Kể ngắn theo câu hỏi. Bài tập 2: TLCH (theo SGK). * Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu: TLCH (theo SGK) - Xem lại bài tập đọc: Người mẹ hiền (SGK tập 1, trang 63,64) Bàn tay dịu dàng (SKG, tập 1, trang 66); chú ý đến thái độ, tình cảm của cô giáo (thầy giáo) với học sinh biểu hiện qua lời nói, việc làm nào? - Nhớ lại: Tên cô giáo (thầy giáo) dạy em ơ lớp 1; tình cảm của cô giáo (thầy giáo) đối với em và các bạn trong lớp; điều mà em đáng nhớ nhất ơ cô giáo (thầy giáo); tình cảm của em đối với cô giáo (thầy giáo). (Điều đáng nhớ nhất có thể là: Khi em mắc khuyết điểm, cô giáo (thầy giáo) ân cần khuyên bảo em như thế nào? Lúc em viết sai, cô giáo (thầy giáo) đã uốn nắn cho em từng nét chữ như thế nào?...) * Hướng dẫn học sinh làm bài: Các em lần lượt trả lời từng câu hỏi trong SGK để kể về cô giáo (thầy giáo) của mình. Chú ý dùng từ đúng, nói thành câu đủ ý và thể hiện được tình cảm chân thành của em đối với cô giáo (thầy giáo). Ví du: Câu hỏi Gợi y a. Cô giáo (hoặc thầy giáo) - Cô giáo lớp một của em tên là cô Hà. 11 lớp một của em tên là gì ? - Cô Minh Châu là cô giáo dạy em hồi lớp một. b. Tình cảnh của cô (hoặc - Cô rất thương yêu và quan tâm, chăm sóc thầy) đối với học sinh như thế chúng em chu đáo. nào? - Cô luôn luôn chăm lo, săn sóc cho chúng em từng ly, từng tí. c. Em nhớ nhất điều gì ơ cô - Em nhớ nhất lần đầu tiên cô cầm tay giúp (hoặc thầy)? em viết từng nét chữ. - Em nhớ mãi lần em bị ốm sốt cô đã ân cần đưa em xuống phòng y tế của nhà trường. d. Tình cảm của em đối với cô - Em sẽ nhớ mãi cô Minh Châu. giáo (hoặc thầy giáo) như thế - Dù đã lên lớp hai, không được học cô Hà nào? nữa, nhưng hình ảnh cô vẫn còn in đậm trong tâm trí em. Bài tập 3: Dựa vào các câu trả lời ơ bài tập 2, em hãy viết một đoạn văn khoảng 4,5 câu nói về cô giáo (hoặc thầy giáo) cũ của em. * Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu: theo SGK . - Nhớ lại những câu trả lời của em theo các câu hỏi ơ bài tập 2 để chuẩn bị làm bài (chú ý tiếp thu những ý kiến nhận xét hay sửa chữa của cô giáo và các bạn trên lớp nếu có). 12 * Hướng dẫn học sinh làm bài: - Viết nháp từng câu rồi sửa lại trước khi chép vào vơ. - Chú ý lời kể cần tự nhiên, chân thực, bộc lộ tình cảm của em; dùng từ, đặt câu rõ ý; các ý cần gắn với nhau sao cho mạch lạc. Viết xong, đọc lại bài, phát hiện và sửa những chỗ sai (về nội dung, từ, câu, chính tả). Ví du: Dù đã lên lớp hai nhưng em vẫn luôn nhớ tới cô Hà, cô giáo đã dạy em hồi lớp một. Cô rât thương yêu học sinh và luôn chăm lo, săn sóc cho chúng em từ bữa ăn, giấc ngủ đến chuyện học hành. Em nhớ nhất lần đầu tiên cô cầm tay giúp em viết từng nét chữ. Em rất yêu quý cô và luôn nhớ về cô. d. Phương pháp sử dung từ ngữ trong câu: Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ ngữ trong bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, GV cũng cần giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn. Ví du: Khi viết đoạn văn kể về người thân thì HS sẽ có nhiều bài làm khác nhau, GV cần giúp HS chọn lựa từ ngữ cho phù hợp, khi kể về bố là thầy giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của em đối với cha mẹ, ông bà thì từ ngữ dùng phải khác với viết về tình cảm của mình đối với bạn bè; Viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa như: bình minh, hừng đông, sớm mai; viết về gia đình có các từ như đoàn tụ, sum họp, quây quần…; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói 13 chang, gay gắt, đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa…GV cần chuẩn bị kỹ với mỗi bài để hướng dẫn HS vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài viết. II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc viết lan man quá nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy. Biện pháp 1: Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi y rõ ràng: Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ ràng, đầy đủ. GV có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn HS chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ơ nhà. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, GV có thể soạn , cung cấp những câu hỏi cho các em .Đồng Thời có thể cho các em quan sát một số bức tranh , hình ảnh có thật liên quan đến bài dạy để các em có thêm vốn sống tạo cho bài văn thêm sinh động. Ví du: * Hướng dẫn chung về kể người - Giới thiệu về người mà mình muốn kể. - Kể về hình dáng (cao, thấp, béo, gầy, thon thả) - Kể về những đặc điểm nổi bật (mái tóc, khuôn mặt, nước da, đôi mắt, hàm răng..) - Kể về tính tình (ngoan, lễ phép, thật thà). - Kể về hoạt động: làm việc gì ? - Tình cảm của em đối với người em kể. * Kể về người thân trong gia đình 14 Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu: Kể về ông, bà (hoặc một người thân) của em. Chú ý : người thân trong gia dình có thể là ông (bà) nội , ngoại, bố (ba, cha…) mẹ, (má, u, …) anh (chị, em…). - Điều gì chưa biết rõ, có thể hỏi lại người thân (như : tuổi tác, nghề nghiệp, những việc làm hằng ngày…) Để trả lời câu hỏi: Ông (bà, bố , mẹ) của em yêu quý, chăm sóc em như thế nào ? Em cần nhớ lại những lời nói, cử chỉ, hành động… cho thấy tình cảm yêu quý, thái độ quan tâm, chăm sóc của người thân đối với em (như: đưa đón em đi học đi chơi công viên, kể chuyện cho em nghe, nhắc em học bài …) * Hướng dẫn học sinh làm bài: Em kể về người thân của mình theo các câu hỏi gợi ý trong SGK. Lưu ý: - Nhớ lại lời kể ơ trên, chú ý lựa chọn những từ ngữ đúng và hay để diễn đạt thành câu văn sinh động. - Viết về anh (chị, em…) có thể xem lại bài Tập đọc : Bé Hoa (SGK tập một, trang 121) để tham khảo cách kể về bé Nụ (em của Hoa). - Lựa chọn nội dung viết : Kể về ai ? (anh hay chị, em…) . Kể về những điều gì nổi bật? (tuổi tác, nghề nghiệp, hình dáng, tính tình của anh (chị, em… ; tình cảm của em đối với anh (chị, em…) Bài viết về gia đình : - Gia đình em gồm những ai? 15 - Những người đó làm công việc gì? - Tình cảm của những người trong gia đình như thế nào ? - Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em? Bài viết về một loài cây : - Đó là cây gì, trồng ơ đâu ? - Hình dáng cây như thế nào? - Cây có lợi ích gì ? Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm : - Em ( Bạn em )đã làm việc tốt khi nào? Ơ đâu? Đó là việc gì? - Em ( Bạn ấy ) đã làm như thế nào? - Em suy nghĩ gì khi làm ( thấy bạn làm ) việc tốt đó? Biện pháp 2. Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn: 1. Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt bằng một câu ) 2. Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý , mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh. 3. Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ , mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người. Ví du: Viết về một con vật: 16 - Con vật em định kể là con vật gì? - Nó sống ơ đâu? Hình dáng nó như thế nào? - Hoạt động của nó có gì nổi bật? - Vì sao em thích con vật đó? Câu mở đầu: - Trong thế giới loài chim, em thích nhất là chim sáo . - Giới thiệu về chim sáo Các câu phát triển: - Kể về chim sáo Chim sáo được ông em nuôi đã hai năm rồi .Mỏ nó vàng .Lông màu nâu sẫm .Nó hót suốt ngày .Đôi khi còn nói được cả tiếng nguời.Có lẽ nó vui vì được mọi người chăm sóc, nuôi trong một cái lồng rất to, bên cạch một cây hoa lan rrất cao toả bóng mát. Câu kết thúc: Em thích nhất chim sáo vì chúng là - Tình cảm của em đối những con vật hiền lành, dễ thương. với loài chim này Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình thành kỹ năng từng bước ơ từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành. Trong quá trình giảng dạy, GV phải kiên nhẫn 17 luôn tái hiện và lặp lại kiến thức cho HS trong suốt năm học, giúp HS có được nền móng tốt cho việc học tập môn Tập làm văn ơ các lớp trên. Biện pháp 3: củng cố kiến thức 1. Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh: Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập làm văn ơ lớp 2 để tổ chức ôn tập cho HS. Có thể tập hợp từ chương trình một số đề bài sau đây: Viết một đoạn văn ngắn về: Cô giáo ( hoặc thầy giáo )của em Một người thân Gia đình Một em bé Các mùa trong năm Kể một việc làm tốt Một con vật Một loài chim Tả ngắn về biển Tả ngắn về một loài cây Một loài hoa Viết về Bác Hồ 18 Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc chắn, phân biệt rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hương đến chất lượng bài viết của các em. 2. Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu với phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả. Ví du: Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10 đến tuần 16), với rất nhiều bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình, cùng với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mơ rộng vốn từ ngữ cho HS, ngoài việc giúp HS hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai, ngoài việc khai thác và giáo dục tình cảm cho HS thông qua các nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung bài, hướng cho HS liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tôi còn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các từ ngữ phù hợp với đề tài ( ông bà, cha mẹ, anh em ) để chuẩn bị cho bài làm văn sắp tới ( viết về người thân ), tôi luôn nói với các em sự cần thiết phải học thuộc và lựa chọn những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài tập làm văn, khơi gợi và kích thích tinh thần học tập của các em. 3. Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi y: 19 Các bước hình thành: - Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau. -Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng ; cung cấp và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn ( khuyến khích học sinh khá giỏi vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ so sánh , cách nhân hóa nhưng không đưa những thuật ngữ này ra với đối tượng học sinh lớp 2 ). - Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng. - Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn. - Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ơ năm học trước nhằm kích thích tinh thần học tập của học sinh. Ví du: Kể về cô giáo (hoặc thầy giáo) của mình . a. Cô giáo (hoặc thầy giáo) lớp một của em tên là gì ? Cô giáo lớp một của em tên là Hà; cô Minh Châu là cô giáo dạy em hồi lớ một…). b. Tình cảm của cô (thầy giáo) đối với học sinh như thế nào? (Cô rất thương yêu và quan tâm, chăm sóc chúng em chu đáo; cô luôn luôn chăm lo, săn sóc chúng em từng li, từng tí…). 20 Tải về bản full giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong giờ tập làm vănBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.35 KB, 10 trang ) MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN - Quá trình dạy học là một quá trình tư duy sáng tạo – người giáo viên là một kĩ sư của tâm hồn, hơn nữa còn là một nhà làm nghệ thuật. Và việc dạy học ngày nay luôn dựa trên cơ sở phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Chính vì thế nó đòi hỏi người giáo viên phải luôn có sự sáng tạo, tự cải tiến phương pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học. Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho trẻ những kiến thức cần thiết. Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kĩ năng nói và viết. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ học phân môn Tập làm văn vì không biết nói gì ? viết gì ? Ngay cả bản thân giáo viên đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các môn học khác . Do đó khi đứng lớp tôi luôn chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng làm Tập làm văn cho học sinh lớp tôi phụ trách. Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em được làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều HS làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai,cách chấm câu còn hạn chế - 2 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN .=================================================================== có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý. Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho HS của lớp mình. Đây là lý do tôi chọn và viết sáng kiến kinh nghiệm với nội dungg “ “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong giờ Tập làm văn”. Sau đây, tôi xin trình bày một số kinh nghiệm mà bản thân đã đúc kết được trong thời gian qua. II. ĐỐI TƯỢNG – THỜI GIAN - PHẠM VI NGHIÊN CỨU: - Đối tượng và phạm vi: - Sách Tiếng Việt 2, Sách giáo viên Tiếng Việt 2, Tài liệu giảng dạy Tiếng Việt 2, Các bài viết của học sinh nông thôn Thủy Nguyên, cụ thể là học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Cao Nhân - Thuỷ Nguyên – HP. - Thời gian : Từ tháng 09 /2008 đến tháng 03/2009. PHẦN II. PHẦN NỘI DUNG I. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN Để giúp HS học tốt tiết Tập làm văn viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu của đề bài, tôi thường áp dụng những phương pháp sau: 1.Vận dụng phương dạy học phát huy tính tích cực của học sinh kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp: Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng , mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật. 2. Phương pháp thực hành giao tiếp: Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng nói, trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, giáo viên điều chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này,tôi thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong nhóm ) 3. Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. - 3 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN .=================================================================== Sử dụng phương pháp này để GV có cơ sở giúp HS nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận. Ví dụ: Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, GV hướng dẫn HS nhận biết những vấn đề sau: - Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?( hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc làm gì?/ như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo ). - Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? ( Đảm bảo về mặt nghĩa ) Trên cơ sở đó , GV hướng dẫn HS viết dấu chấm khi hết câu. 4. Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu: Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ ngữ trong bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, GV cũng cần giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn. Ví dụ: Khi viết đoạn văn kể về người thân thì HS sẽ có nhiều bài làm khác nhau, GV cần giúp HS chọn lựa từ ngữ cho phù hợp, khi kể về bố là thầy giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của em đối với với cha mẹ, ông bà thì từ ngữ dùng phải khác với viết về tình cảm của mình đối với bạn bè; Viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa như: bình minh, hừng đông, sớm mai; viết về gia đình có các từ như đoàn tụ, sum họp, quây quần…; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay gắt, đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa…GV cần chuẩn bị kỹ với mỗi bài để hướng dẫn HS vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài viết. II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 1. Về kỹ năng: Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc viết lan man quá nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy. 1.1. Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng : Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. GV có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn HS chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, GV có thể soạn , cung cấp những câu hỏi cho các em . Ví dụ: Bài viết về gia đình : - Gia đình em gồm những ai? - 4 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN .=================================================================== - Những người đó làm công việc gì? - Tình cảm của những người trong gia đình như thế nào ? - Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em? Bài viết về một loài cây : - Đó là cây gì, trồng ở đâu ? - Hình dáng cây như thế nào? - Cây có lợi ích gì ? Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm : - Em ( Bạn em )đã làm việc tốt khi nào? Ơ đâu? Đó là việc gì? - Em ( Bạn ấy ) đã làm như thế nào? - Em suy nghĩ gì khi làm ( thấy bạn làm ) việc tốt đó? 1. 2. Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn: 1. 2.1. Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt bằng một câu ) 1. 2.2. Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý , mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh. 1. 2.3. Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ , mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người. Ví dụ: Viết về một con vật: - Con vật em định kể là con vật gì? - Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào? - Hoạt động của nó có gì nổi bật? - Vì sao em thích con vật đó? Câu mở đầu: - Giới thiệu về chim sáo - Trong thế giới loài chim, em thích nhất là chim sáo . Các câu phát triển: - Kể về chim sáo Chim sáo được ông em nuôi đã hai năm rồi .Mỏ nó vàng .Lông màu nâu sẫm .Nó hót suốt ngày .Đôi khi còn nói được cả tiếng nguời.Có lẽ nó vui vì được mọi người chăm sóc, nuôi trong một cái lồng rất to, bên cạch một cây hoa lan rrất cao toả bóng mát. Câu kết thúc: - Tình cảm của em đối với loài chim này Em thích nhất chim sáo vì chúng là những con vật hiền lành, dễ thương. Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm các em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành. Trong - 5 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN .=================================================================== quá trình giảng dạy, GV phải kiên nhẫn luôn tái hiện và lặp lại kiến thức cho HS trong suốt năm học, giúp HS có được nền móng tốt cho việc học tập môn Tập làm văn ở các lớp trên. 2. Về kiến thức: 2.1. Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh: Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập làm văn ở lớp 2 để tổ chức ôn tập cho HS. Có thể tập hợp từ chương trình một số đề bài sau đây: Viết một đoạn văn ngắn về: Cô giáo ( hoặc thầy giáo )của em Một người thân Gia đình Một em bé Các mùa trong năm Kể một việc làm tốt Một con vật Một loài chim Tả ngắn về biển Tả ngắn về một loài cây Một loài hoa Viết về Bác Hồ Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc chắn, phân biết rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em. 2. 2. Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu với phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả. Ví dụ: Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10 đến tuần 16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình, cùng với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ ngữ cho HS, ngoài việc giúp HS hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai, ngoài việc khai thác và giáo dục tình cảm cho HS thông qua các nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung bài, hướng cho HS liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tôi còn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các từ ngữ phù hợp với đề tài ( ông bà, cha - 6 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN .=================================================================== mẹ, anh em ) để chuẩn bị cho bài làm văn sắp tới ( viết về người thân ), tôi luôn nói với các em sự cần thiết phải học thuộc và lựa chọn những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài tập làm văn, khơi gợi và kích thích tinh thần học tập của các em. 2.3. Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý : Các bước hình thành: - Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau. -Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng ; cung cấp và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn ( khuyến khích học sinh khá giỏi vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ so sánh , cách nhân hóa nhưng không đưa những thuật ngữ này ra với đối tượng học sinh lớp 2 ). Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng. Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn. Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích thích tinh thần học tập của học sinh. 2.4. Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài: Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh , sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai . trong quá trình chấm bài, GV phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, GV giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Khi sửa bài , GV nên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước, hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau về cach diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng. III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân môn Tập làm văn của lớp tôi đạt kết quả như sau: Lớp 2a1(31 em ) Giỏi Khá Trung bình Yếu Trước khi thực 11em 16 em 4 em 0 em - 7 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN .=================================================================== hiện đề tài = 35,45% = 51,6% = 13 % Sau khi thực hiện đề tài 19 em = 61,35% 11 em = 35,5% 1 em = 3,2 % 0 em IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học sau: • Hình thành cho các em thói quen học tập , làm việc một cách khoa học. • Quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới. • Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát triển tư duy, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức. • Sử dụng nhiều hình thức: thi đua , khen thưởng để khuyến khích các em nỗ lực học tập. - 8 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN .=================================================================== PHẦN III: KẾT LUẬN - Khi áp dụng các biện pháp trên vào dạy ở từng tiết tập làm văn, tôi nhận thấy các em không sợ học phân môn tập làm văn nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trò chủ đạo trong tiết học.Tôi nghĩ rằng với biện pháp trên,không chỉ áp dụng ở lớp 2 mà các khối khác đều áp dụng được .Nếu người giáo viên biết vận dụng các biện pháp trên để tiến hành dạy trong giờ học, tôi nghĩ chất lượng giáo dục , hiệu quả quả giáo dục của môn Tiếng Việt cụ thể là phân môn tập làm văn ngày càng tăng cao một cách rõ rệt Các biện pháp đó tôi đã thực hiện trong giảng dạy, tôi thấy học sinh tiến bộ hẳn trong từng năm. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm. Xin chân thành cảm ơn! Cao Nhân, ngày 12 tháng 03 năm 2009 Người viết Nguyễn Thị Niên - 9 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN .=================================================================== UBND HUYỆN THỦY NGUYÊN PHÒNG GIÁO DỤC & CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do - Hạnh phúc & PHIẾU ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Họ và tên người viết: Nguyễn Thị Niên Trường : Tiểu học Cao Nhân – Thủy Nguyên – Hải Phòng Tên đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong giờ Tập làm văn STT NỘI DUNG CÁC TIÊU CHUẨN ĐIỂM TIÊU CHUẨN ĐIỂM ĐẠT ĐƯỢC 1 Chọn đề tài: ( 2 điểm) - Đề tài có tính khoa học và tính thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng toàn diện ( Thể hiện qua tên đề tài) 2 Nội dung của đề tài ( 6 điểm) - Những lí do chọn đề tài. 2 điểm - Cơ sở lí luận để giải quyết vấn đề đặt ra. 2 điểm - Nêu những thực tế hiện nay khi chưa thực hiện đề tài. 2 điểm 3 Các giải pháp ( 10 điểm ) - Phù hợp với lí luận. 2 điểm - Có tác dụng nâng cao chất lượng giáo dục. 4 điểm - Khả năng ứng dụng đề tài trong thực tế dạy học. 4 điểm 4 Phương pháp ( 2 điểm) - Bố cục rõ ràng, lập luận lô gic, số liệu cụ thể thuyết phục 2 điểm 5 Tổng: 20 điểm Xếp loại: Loại A: Từ 18 điểm đến 20 điểm Loại B: Từ 14 điểm đến 17 điểm Loại C: Từ 10 điểm đến 13 điểm Dưới 10 điểm không xếp loại NGƯỜI ĐÁNH GIÁ ( Họ tên và chữ kí) - 10 - Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.95 KB, 21 trang ) PHẦN I. MỞ ĐẦU mong muốn nâng cao hiệu quả giờ dạy và trao đổi những kinh nghiệm trong việc dạy Tiếng Việt ở Tiểu học đặc biệt là phân môn Tập làm văn, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “ Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2B - Trường TH Điền Trung I.” Để hoàn thành SKKN này tôi đã áp dụng những kinh nghiệm tích luỹ 1 được trên chính đối tượng học sinh lớp mình phụ trách – lớp 2B trường Tiểu học Điền Trung I. Tổng số học sinh: 24 em. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra các giải pháp - Giúp học sinh lớp 2B Trường TH Điền Trung I có kỹ năng viết đoạn văn ngắn hay, sinh động và sáng tạo. - Giúp giáo viên khối 2 có một số kiến thức và kinh nghiệm khi hướng dẫn học sinh viết đoạn văn ngắn. - Giúp bản thân tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu: Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn giúp các em học sinh lớp 2 học tốt Tập làm văn. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Đọc các tài liệu sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt 2; sách Giúp em học tốt Tập làm văn 2; Những bài văn mẫu lớp 2; tạp chí giáo dục có liên quan đến nội dung đề tài. - Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung viết đoạn văn ngắn. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập các thông tin, thống kê số liệu và xử lý số liệu. - Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học. - Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài. PHẦN 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận: Như chúng ta đã biết, ở lớp 1 học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ tập nói hoặc viết câu có nội dung theo chủ đề bài học hoặc tìm tiếng nói có âm vần vừa học. Các em được ghép tiếng và nói những câu đơn giản, riêng lẻ có nội dung gần gũi với cuộc sống của các em hoặc ở các bài tập đọc. Đến lớp 2 các em đã phải viết đoạn văn từ 1 đến 3 câu rồi cao hơn từ 4 đến 5 câu kể về một sự việc đơn giản mình được chứng kiến (tham gia) hoặc tả sơ lược về người, vật xung quanh các em. Ở học kỳ I, chủ yếu các em được viết đoạn từ 3 đến 5 câu kể về người thân như: Cô giáo, ông, bà, anh, chị, em và rộng hơn là toàn thể gia đình. Song đến học kỳ II các em được viết đoạn tả con vật (chim ), tả cảnh (biển), tả cây cối, tả người (ảnh Bác Hồ). Tuần 34 và 35 học sinh được kể về những việc làm mà bản thân chứng kiến hoặc tham gia …. Nội dung Tập làm văn lớp 2 có các dạng bài được thiết kế tổng cộng 31 2 tiết/năm. Cụ thể như sau: - Các nghi thức lời nói tối thiểu (chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, nhờ cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định…); biết sử dụng chúng trong các tình huống giao tiếp nơi công cộng, ở gia đình, trong trường học. - Các kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày: khai bản tự thuật ngắn, viết thư ngắn để nhắn tin, chia buồn hoặc chia vui… - Nói viết về những vấn đề thuộc chủ điểm: kể một sự việc đơn giản; tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi. * Trong nội dung nói, viết về vấn đề thuộc chủ điểm có các đoạn văn cụ thể sau: + Nói về em hoặc trường em + Viết đoạn văn ngắn về gia đình em + Kể về người thân + Kể về anh chị em + Kể ngắn về con vật + Tả ngắn về bốn mùa + Tả ngắn về loài chim + Tả ngắn về biển + Tả ngắn về cây cối + Tả ngắn về Bác Hồ + Kể ngắn về người thân Ta thấy lượng kiến thức nhiều so với học sinh lớp 2. Mỗi tiết được luyện tập một nội dung khác nhau. Số lượng tiết viết đoạn văn ngắn chiếm nhiều tiết so với tổng số tiết Tập làm văn lớp 2, đây là nền tảng để học sinh học các lớp học trên. Vậy việc rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 là rất quan trọng. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Qua thực tế giảng dạy lớp 2, qua dự giờ thăm lớp, trao đổi, trò chuyện, tâm sự, tham khảo ý kiến của bạn bè động nghiệp và đặc biệt là thông qua chấm các bài kiểm tra của học sinh, tôi nhận thấy một số hạn chế trong việc dạy học sinh lớp 2 trường Tiểu học Điền Trung I viết đoạn văn ngắn như sau: 2.2.1.Thực trạng của giáo viên: Bên cạnh những đồng chí giáo viên đã tích cực, say sưa nghiên cứu sáng tạo để tìm ra những biện pháp dạy học sinh khi viết đoạn văn sao cho hiệu quả nhất thì còn một số giáo viên còn rất ngại, đôi khi "sợ" dạy tiết Tập làm văn với tâm lí có dạy học sinh cũng không viết được. Cụ thể: - Giáo viên chưa tạo được sự hứng thú cho học sinh khi dạy phân môn 3 Tập làm văn. - Việc giúp học sinh vận dụng kiến thức Tiếng Việt vào dạy Tập làm văn còn hạn chế. - Một số giáo viên chưa thật sự chú ý đến việc dạy học sinh cách quan sát. Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành từ các phân môn khác của Tiếng Việt. Đồng thời còn gắn bó mật thiết với tất cả các môn học khác trong chương trình Tiểu học mà việc dạy viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Điền Trung I giáo viên chưa đưa học sinh say mê với văn học, chưa hình thành thói quen tích lũy những hiểu biết, vận dụng kiến thức Tiếng Việt vào làm văn thì việc giảng dạy Tập làm văn nói chung và dạy viết đoạn văn ngắn cho học sinh cho học sinh lớp 2 chưa đạt hiệu quả. 2.2.2.Thực trạng của học sinh: 2.2.2.1.Một số lỗi phổ biến: Qua tìm hiểu thực tế việc học viết đoạn văn ngắn của học sinh lớp 2 trường tiểu học Điền Trung I, nhiều học sinh ngại học văn, đặc biệt là làm bài tập về đặt câu, viết đoạn văn và học phân môn Tập làm văn. Các em thường mắc phải một số lỗi sau: - Lỗi do chưa biết cách quan sát nên thường thì các em thấy cái gì thì nghĩ đến cái đó theo kiểu liệt kê, chứ không biết chắt lọc các chi tiết quan sát được. - Lỗi do hạn chế vốn từ nên việc sử dụng từ còn lặp, vụng hoặc chưa đúng. - Câu viết không có hình ảnh, chấm câu một cách tùy tiện. - Sự sắp xếp tổ chức câu trong đoạn còn rời rạc, chưa có sự liên kết câu. - Lỗi do chưa biết sử dụng biện pháp tu từ vào viết văn. Từ những thực trạng trên cho thấy việc rèn cho học sinh viết được đoạn văn đúng về nội dung, đảm bảo về hình thức cũng đã khó chưa kể đến việc cần phải cho học sinh viết được đoạn văn có hình ảnh đẹp. 2.2.2.2.Kết quả khảo sát thực trạng học sinh: Trong năm học 2017– 2018, để kiểm nghiệm cách làm của mình, tôi tiến hành thực nghiệm với lớp 2B và đối chứng kết quả với lớp 2A. Tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng viết văn của hai lớp. Thời điểm kiểm tra: Tuần 4 tháng 10 năm học 2017-2018 khi chưa áp dụng sáng kiến. Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn khoảng 4, 5 câu nói về cô giáo( thầy giáo) cũ của em. Kết quả thu được như sau: Bảng 1: Thống kê theo số lỗi của học sinh: 4 Các lỗi phổ biến Lớp Chưa biết Tổng số cách quan học sát sinh SL 2A 2B 24 24 TL 5 5 20.8 20.8 Hạn chế vốn từ, dùng từ chưa chính xác SL TL 6 6 25.0 25.0 Chấm câu tùy tiện Chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ Chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu SL TL SL TL SL TL 7 6 29.2 25.0 12 11 50.0 45.8 8 7 33.3 29.2 Bảng 2: Kết quả đánh giá chất lượng viết đoạn văn của hai lớp 2A và 2B Lớp Tổng số HS 2A 24 2B 24 Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành ơ SL TL SL TL SL TL 0 19 79.2% 5 20.8% 0 19 79.2% 5 20.8% Từ thực trạng trên ta thấy chất lượng viết văn của học sinh chưa đạt kết quả cao. Tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng còn rất cao. Đây không phải là một bộ phận nhỏ. Vì vậy với số học sinh này, người dạy chúng ta phải tìm ra nguyên nhân để khắc phục, tháo gỡ . 2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng Theo tôi có sáu nguyên nhân như sau: *Học sinh dân tộc thiểu số nói tiếng phổ thông chưa chuẩn còn nhầm lẫn giữa phương ngữ địa phương với tiếng phổ thông và xác định câu chưa đúng. * Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài. * Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. * Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả. * Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát. * Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó. * Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn 5 Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên dạy lớp 2) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ. 2.3. Các biện pháp thực hiện: + Qua việc điều tra thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân như trên, bước vào năm học 2017- 2018, tôi bắt đầu áp dụng một số biện pháp mới bằng các cách làm cụ thể của tôi như sau: 2.3.1. Biện pháp thứ nhất: Tạo ra môi trường, điều kiện động viên giúp đỡ các em trong học tập: - Ngay từ đầu năm học, tôi đã tìm hiểu hoàn cảnh và phân loại đối tượng học sinh theo hoàn cảnh gia đình để giúp đỡ các em. Cụ thể: + Trong lớp có 3 em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Tôi đã chia lớp thành 3 tổ ( mỗi em có hoàn cảnh khó khăn trong 1 tổ) và phân công mỗi tổ giúp 1 bạn. + Phát động phong trào tặng bạn nghèo như: Trong tổ mỗi bạn tặng bạn một đồ dùng học tập: sách, vở, bút, mực, thước kẻ… ( bạn nào có cái gì thì tặng bạn cái đó) - Để tạo môi trường thuận lợi cho học sinh trong quá trình học tập, tôi đã phối hợp các tổ chức Đội, Hội,... trong nhà trường để phát động phong trào “Đôi bạn cùng tiến” - Ngoài ra tôi thường xuyên quan tâm, chăm lo, mua sách vở cho 3 em học sinh khó khăn, không để các em thiếu bất kì đồ dùng học tâp nào. Ngày tết, tôi lại mua quà tết cho các em. Từ những việc làm thiết thực trên thì 3 em có hoàn cảnh khó khăn đã có một môi trường, một điều kiện học tập tốt, giúp các em tự tin bước tới trường cùng các bạn trong lớp. 2.3.2. Biện pháp thứ hai: Tạo hứng thú cho học sinh khi học và viết văn Hứng thú là một thuộc tính tâm lí mang tính đặc thù cá nhân. Đối tượng của hứng thú chỉ là những cái cần thiết, có giá trị, có sức hấp dẫn với cá nhân. Vậy vấn đề gì thu hút sự quan tâm, chú ý tìm hiểu của các em? Trả lời được câu hỏi này nghĩa là người giáo viên đã sống cùng với đời sống tinh thần của các em, biến đổi những nhiệm vụ học tập khô khan phù hợp với những mong muốn, nhu cầu, sở thích, nguyện vọng (tích cực, chính đáng) của học sinh. Để tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình giảng dạy tôi đã thực hiện các việc làm cụ thể sau: Việc làm thứ nhất: Xuất bản bài viết của các em. 6 Một thủ thuật tôi đã áp dụng để gây hứng thú cho học sinh đó là "xuất bản" bài viết của các em. Sẽ là tuyệt vời nếu bài viết được đăng trên các tờ báo tường, hay nêu gương trước cờ, điều đó kích thích các em thể hiện khả năng của mình. Để làm việc này tôi đã chọn giới thiệu những bài viết hay của các bạn nhỏ trên các báo Nhi đồng, Thiếu niên Tiền phong... khuyến khích học sinh đọc và phân tích cái hay trong những bài viết, bài thơ đó. Giúp học sinh đặt câu hỏi tại sao các bạn viết được? Mình viết có được không? Nếu có bài được đăng, em sẽ cảm thấy thế nào? Muốn viết bài được đăng, chúng ta phải làm gì?... Trong trường hợp khác, khi bài viết của các em chưa đủ tốt để đăng trên báo tường, tôi cho lưu lại trên góc học tập của lớp ... Với mỗi bài được đăng cộng với nhận xét tích cực từ giáo viên, sẽ là nguồn động lực cực lớn tạo ra hứng thú cho các em. Bằng cách làm này, hầu hết các em trong lớp đều háo hức, mong muốn mình cũng có bài được đăng giống như bạn. Việc làm thứ hai: Đưa học sinh đến với các tác phẩm văn học Đưa học sinh đến với các tác phẩm văn học là nhiệm vụ đầu tiên trong các giải pháp rèn kỹ năng viết văn cho học sinh. Tâm lí học sinh Tiểu học nói chung các em chỉ thích đọc các câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết và thích khám phá những điều mới lạ, đặc biệt là các em lớp 2 chỉ thích đọc những câu chuyện tranh, Đô-rê- mon, …không thích đọc những bài văn có nội dung miêu tả đơn thuần. Để tạo hứng thú cho học sinh tôi đã nhẹ nhàng đưa các em đến với tác phẩm văn học bằng cách: * - Trong phần dặn dò học sinh chuẩn bị cho tiết học “Kể ngắn về con vật” tôi cho học sinh thi kể tên các con vật mà em biết. HS sẽ xung phong kể rất hăng say. - Sau khi học sinh kể tôi khen ngợi và dặn học sinh về sưu tầm những tác phẩm văn học có nội dung miêu tả các con vật mà em thấy hay và thích nhất để đọc trước lớp vào tiết học sau. Bạn nào sưu tầm được tác phẩm hay và chỉ rõ được cái hay trong cách viết của tác giả sẽ được tuyên dương trước lớp. * - Hay trong phần dặn dò học sinh chuẩn bị cho tiết học “Tả ngắn về cây cối”, tôi cho học sinh thi kể tên các loại cây mà em đã biết.( Ngay lập tức học sinh sẽ xung phong kể rất hăng say và quên những mệt nhọc căng thẳng của tiết học trước). - Sau khi học sinh kể tôi khen ngợi và dặn học sinh về sưu tầm những tác phẩm văn học có nội dung miêu tả các loại cây (cây ăn quả, cây bóng mát, cây hoa…) mà em thấy hay và thích nhất để đọc trước lớp vào tiết học sau. Bạn nào sưu tầm được tác phẩm hay và chỉ rõ được cái hay trong cách viết của tác giả cũng được tuyên dương trước lớp. 7 Với cách làm trên, từ chỗ học sinh không thích đọc các bài văn miêu tả đơn thuần, tôi đã tạo cho 24/24 em sự hứng thú và tích cực tìm tòi để đọc và đem đến lớp các tác phẩm văn học có nội dung miêu tả con vật hay tả cây cối… Việc làm thứ ba: Tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với tác phẩm văn học. Sau khi đã tạo được hứng thú cho học sinh bằng cách đưa học sinh đến với các tác phẩm văn học. Việc làm tiếp theo của tôi là phải tạo được hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với các tác phẩm văn học, qua đó hình thành và rèn luyện các kỹ năng viết văn cho học sinh. Để học sinh có lòng yêu thích văn học và có hứng thú khi viết văn, khi dạy Tập đọc tôi đã làm như sau: + Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc: “Tôm Càng và Cá Con” Tiếng Việt 2 - tập 2 Sau khi tìm hiểu bài tôi yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ, câu văn hay đoạn văn tả con vật em cảm thấy hay trong bài. Các em đã đưa ra được các từ ngữ hay câu văn mà các em cảm nhận được đó là hay và chỉ ra được cái hay trong câu văn đó như: “Con vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”. + Hay khi dạy bài Tập đọc “ Cây đa quê hương ” Tiếng Việt 2- Tập 2: Sau khi tìm hiểu bài tôi yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ, câu văn tả cây đa mà em cảm thấy hay trong bài. Ngay lập tức các em đã đưa ra được các từ ngữ hay câu văn, đoạn văn mà các em cảm nhận được đó là hay và chỉ ra được cái hay trong câu đó như: “ Cành cây lớn hơn cột đình. Ngọn chót vót giữa trời xanh. Rễ cây nổi trên mặt đất thành những hình thù quái lạ, như những con rắn hổ mang giận giữ ”… Đồng thời tôi khuyến khích các em học thuộc lòng những đoạn văn, những đoạn thơ hay mà các em yêu thích, kiểm tra những đoạn mà học sinh thích trong giờ học sau. Những tiết sinh hoạt ngoại khóa, tôi tổ chức cho các em thi đọc những bài văn, bài thơ mà các em sưu tầm được ngoài sách giáo khoa, giới thiệu về cảnh đẹp ở địa phương để trau dồi cảm xúc cho các em. Với cách làm như vậy, từ chỗ học sinh không thích tiếp xúc với các tác phẩm văn học có nội dung miêu tả đơn giản, tôi đã giúp được 24/24 em sự hứng thú và tích cực tìm tòi, khám phá cái hay trong mỗi tác phẩm văn học có nội dung miêu tả đơn giản. 2.3.3. Biện pháp thứ ba: Hình thành cho các em thói quen tích lũy những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học. Như chúng ta biết, đặc điểm tâm lý học sinh Tiểu học, tư duy của các em 8 lại đang trong quá trình hình thành và phát triển, còn đang trong giai đoạn " tư duy cụ thể". Để hình thành thói quen cho học sinh trong quá trình giảng dạy tôi đã thực hiện các việc làm cụ thể sau: Việc làm thứ nhất: Tạo cho học sinh có thói quen quan sát: Kĩ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn. Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị ở nhà. Giáo viên cần khai thác kĩ tranh ảnh, tập trung quan sát các đặc điểm nổi bật của đối tượng. Mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó tôi đã hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có xúc cảm về sự vật đó. Học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực tế đôi khi tôi cho các em một bài tập tả về cảnh biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên các em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế giáo viên cũng cần sưu tầm những ảnh về cảnh biển để có thể cho các em xem, cho các em quan sát về cảnh biển, … hoặc vào dịp nghỉ hè các em hay được bố mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển. Ví dụ: * Quan sát tranh về cảnh biển, tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như sau: - Quan sát chung cảnh biển: Bức tranh vẽ cảnh biển vào thời gian nào?( lúc sáng sớm, lúc bình minh) - Quan sát cảnh từ gần: Sóng biển như thế nào? ( nhấp nhô) - Rồi tới cảnh xa: Trên mặt biển có những gì?( thuyền đánh cá, chim hải âu) Trên bầu trời có những gì?(có đàn hải âu đang bay lượn, có đám mây) - Có biển, thiên nhiên chúng ta như thế nào? ( tươi đẹp ) *. Khi hướng dẫn học sinh quan sát ảnh Bác Hồ, tôi hướng dẫn học sinh như sau: - Đầu tiên, em cần xác định vị trí treo ảnh Bác Hồ. - Tiếp theo em quan sát gương mặt Bác Hồ trong ảnh, em biết được những gì?( học sinh lần lượt nêu ý kiến của mình: Chòm râu dài Mái tóc bạc trắng Vầng trán cao và rộng Đôi mắt sáng ngời…) - Ngắm nhìn ảnh Bác Hồ, em muốn hứa với Bác điều gì? ( chăm học, chăm làm, cố gắng học giỏi, thực hiện tốt năm điều Bác Hồ dạy, phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi…) *. Khi hướng dẫn học sinh quan sát con vật, tôi lại hướng dẫn học sinh bằng cách sau: 9 - Đầu tiên, em cần chọn đối tượng quan sát ( đó là con gì?) - Tiếp theo quan sát đặc điểm về hình dáng: + Hình dáng (to hay nhỏ), màu lông, mắt, cánh, đôi chân… - Cuối cùng là quan sát một số hoạt động, thói quen Với những thao tác mà tôi đã hướng dẫn học sinh quan sát ở trên, các em dùng lời để nêu lên nhận xét những gì quan sát được, sắp xếp lựa chọn cách diễn đạt để trả lời từng câu hỏi. Kết quả là 24/24 em đã biết cách quan sát và làm tốt bài tập ở các tiết học này. Như vậy thực hiện tốt thao tác này là tôi đã góp phần vào sự thành công của việc rèn kỹ năng quan sát cho học sinh. Việc làm thứ hai: Hình thành cho các em thói quen tích lũy những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học. Sau khi học sinh có kĩ năng quan sát, việc làm tiếp theo là hình thành cho các em thói quen tích lũy những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học. Như chúng ta biết, khi viết văn miêu tả kĩ năng quan sát, ghi chép là rất cần thiết. Từ việc quan sát và ghi chép các em mới có vốn để làm văn miêu tả. Nhưng trong thực tế các em ít quan sát, không có thói quen để ý các sự vật, sự việc, hiện tượng quanh mình. Do đó trong giảng dạy tôi đã thực hiện như sau: Ví dụ: Khi học tả ngắn về loài chim: Sau tiết học, tôi dặn học sinh về quan sát một con vật mà mình thích và ghi chép lại những gì mình đã quan sát được vào sổ tay, phát hiện ra những đặc điểm tiêu biểu, cụ thể của con vật, sự vật, hiện tượng quanh mình và tiết học sau tôi đã cho học sinh thi giới thiệu con vật mà các em đã quan sát được trước lớp. Em nào quan sát tinh tế, dùng từ ngữ hay thì được tuyên dương trước lớp. ( học sinh rất hăng say, không khí lớp học rất sôi nổi.) Sau mỗi tiết học Tập đọc, tôi không những dặn học sinh ghi chép những câu văn hay có nội dung miêu tả con vật vào sổ tay mà còn dặn học sinh tìm thêm các câu văn hay có nội dung miêu tả con vật có trong tác phẩm văn học ngoài chương trình học. Cuối tuần học, tôi đã cho các em đọc trước lớp những câu văn, từ ngữ mình đã sưu tầm và ghi chép được. Sau khi học sinh nêu xong, tôi đã tuyên dương các em và nhắc nhở các em thường xuyên làm việc này. Như vây, bên cạnh việc cung cấp vốn sống thực tế thì tôi đã hướng dẫn các em biết tích lũy vốn văn học cho mình. Không chỉ khi học văn miêu tả mà ngay trong cuộc sống hàng ngày trước bất kì cảnh vật, hiện tượng nào mình gặp, các em hãy để ý, quan sát và ghi chép lại những gì mình cảm thấy hay, thấy đẹp, hay những câu văn giàu hình ảnh mà mình thấy tâm đắc …Qua đó, vốn sống của các em sẽ phong phú hơn, viết văn sẽ tốt hơn. 10 Kết quả là 24/24 em đã thường xuyên tích lũy những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học và vốn từ của các em đã phong phú hơn, dùng từ miêu tả đã chính xác hơn. Việc làm thứ ba: Rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật và vận dụng kiến thức Tiếng Việt vào viết văn Kiến thức Tập làm văn là kiến thức tổng hợp. Các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu hỗ trợ rất nhiều cho việc viết văn của học sinh. Nếu các em không biết vận dụng các kiến thức của phân môn khác thì các em không thể viết được đoạn văn hay, đoạn văn giàu hình ảnh, cảm xúc. Để giúp các em biết vận dụng kiến thức Tiếng Việt vào viết văn, tôi đã tiến hành một số việc làm sau: Bước 1: Giúp học sinh vận dụng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm vào viết văn. Trong văn miêu tả thì vốn từ ngữ miêu tả rất quan trọng, tôi đã giúp học sinh tích lũy được một số các từ ngữ như việc làm thứ hai đã trình bày. Việc dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm vào viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn, và thu hút người đọc, người nghe hơn. Để giúp học sinh vận dụng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm vào viết văn, tôi đã hướng dẫn các em như sau: Để chuẩn bị cho bài học mới, với đề bài viết về người thân thì tôi cho các em về nhà tìm các từ ngữ chỉ màu sắc thích hợp để tả mái tóc (đen bóng, óng mượt, bồng bềnh, loăn xoăn…) rồi đặt câu với từ em vừa tìm được có nội dung miêu tả người thân. Từ tả làn da (đen sạm, trắng hồng, bánh mật, xanh xao, đỏ đắn, ngăm đen…). Từ tả đôi mắt (đen láy), khuôn mặt (tròn trĩnh, hình trái xoan, …), thân hình (mảnh khảnh, gầy gò, béo tròn, thon thả …) và đặt câu với từ em vừa tìm được có nội dung miêu tả người thân. Bước vào đầu của tiết học, tôi cho các em thi kể trước lớp, em nào tìm được nhiều từ và đặt câu đúng thì tôi cho cả lớp tuyên dương bạn bằng một tràng pháo tay. Ngoài ra tôi còn lưu ý cho học sinh khi tả cần chọn đúng từ ngữ diễn tả thật chính xác. Ví dụ: Khi tả về mắt người mẹ, tôi cho các em đặt câu có nội dung miêu tả đôi mắt của mẹ, học sinh lần lượt nêu lên một số câu: Học sinh 1: Đôi mắt mẹ đen láy. Học sinh 2: Đôi mắt mẹ đen như hạt nhãn. Học sinh 3: Nổi bật trên khuôn mặt mẹ là đôi mắt to, đen láy, luôn ánh lên cái nhìn ấm áp và trìu mến. Sau khi học sinh nêu được một số câu thì tôi cho học sinh nhận xét các câu dùng từ miêu tả đúng chưa, trong các câu trên thì câu nào miêu tả hay nhất. 11 Rõ ràng cùng tả đôi mắt nhưng có nhiều cách dùng từ, đặt câu khác nhau. Việc sử dụng nhiều từ ngữ gợi tả, gợi cảm khác nhau đã tạo nên những câu văn hay hơn. Và cuối tiết học, tôi dặn học sinh cũng với các từ ngữ các em đã tìm được ở trên, các em hãy đặt thành nhiều câu khác nhau có nội dung miêu tả người thân, em nào đặt được nhiều câu với các cách khác nhau thì được thưởng hoa điểm tốt. Với việc làm trên, từ chỗ học sinh chưa biết dùng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm vào viết văn tôi đã giúp được 23/24 em biết vận dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm vào viết văn làm cho câu văn, đoạn văn của các em trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn và thu hút người đọc, người nghe hơn. Bước 2: Rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào viết câu. Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ góp phần làm cho đoạn văn miêu tả sinh động hơn. Muốn đạt được điều đó thì buộc học sinh phải sử dụng biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa. Để rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào viết câu, trong giảng dạy, tôi đã tiến hành như sau: Trước khi viết câu, tôi cho học sinh lựa chọn những chi tiết, sự vật nào có thể miêu tả theo cách so sánh hay nhân hóa. Chọn được sự vật để miêu tả rồi tôi cho học sinh chọn xem so sánh với cái gì và nhân hóa thế nào? Ví dụ 1: Tả bộ lông con chim - Câu: Con chim có bộ lông màu đen. Học sinh có thể viết thành: Toàn thân chú được khoác một chiếc áo màu đen tuyền. Ví dụ 2: Tả cặp mỏ của chim - Câu: Cặp mỏ chim nhỏ, màu vàng. Học sinh có thể viết thành: Cặp mỏ của chú nhỏ như hai mảnh vỏ trấu chắp lại, màu vàng trông thật là đẹp. *. Trong khi dạy bài tả ngắn về biển, tôi đưa ra 2 cách miêu tả sau: Cách 1: Mặt biển buổi sớm mai thật đẹp. Cách 2: Mặt biển buổi sáng như tấm gương khổng lồ, vỡ làm nhiều mảnh, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Lúc này tôi cho học sinh đọc và cảm nhận về hai cách viết trên. Hầu như học sinh đều đồng tình với cách 2. Điều này chứng tỏ học sinh đã nhìn nhận được tác dụng của các biện pháp tu từ khi vận dụng vào viết văn. Với cách làm này, từ chỗ học sinh chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào viết câu, tôi đã giúp được 22/24 em sử dụng một cách thành thạo 12 các biện pháp tu từ khi viết câu văn và đã làm cho câu văn của các em trở nên sinh động hơn, hấp dẫn hơn, dễ dàng lôi cuốn được người đọc. 2.3.4. Biện pháp thứ tư: Rèn kĩ năng chấm câu cho học sinh. Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, tôi đã sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để giáo viên có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận. Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, tôi hướng dẫn HS nhận biết những vấn đề sau: - Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?( hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc làm gì?/ như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo ). - Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? ( Đảm bảo về mặt nghĩa) Trên cơ sở đó, từ chỗ nhiều học sinh chấm câu một cách tùy tiện, tôi đã giúp được 23/24 em biết dùng dấu chấm câu một cách chính xác khi viết văn. 2.3.5.Biện pháp thứ năm: Rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh Viết đoạn văn là sản phẩm cuối cùng của học sinh. Một đoạn văn miêu tả thường có ba phần: Phần 1: Viết câu mở đoạn: Giới thiệu đối tượng cần viết. (Có thể diễn đạt bằng một câu) Phần 2: Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2, 3 hay 4 câu tùy theo năng lực học sinh. Phần 3: Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ, mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người. Để rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh tôi đã thực hiện lần lượt các việc làm sau: Việc làm thứ nhất: Rèn kĩ năng viết câu mở đoạn: Có nhiều cách viết câu mở đoạn khi viết về một sự vật nào đó. Không nhất thiết phải gò bó học sinh viết câu mở theo cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách viết câu mở hợp lý nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Khi giảng dạy, tôi cho hoc sinh viết nhiều lần với những câu mở đoạn khác nhau đối với cùng một đề bài. Nhưng phải có nội dung giới thiệu sự vật định tả. 13 Ví dụ: Với đề Viết đoạn văn tả con vật em thích: Học sinh đã đưa ra được các cách mở đoạn như sau: Học sinh 1: Gia đình em nuôi rất nhiều con vật nhưng em thích nhất là con mèo. Học sinh 2: Meo meo, đó là chú mèo mướp nhà em đấy. Học sinh 3: Nhà em có nuôi một con mèo tam thể. Học sinh 4: Tuần trước, mẹ em có mua một con mèo trắng rất đẹp. Từ các cách mở đoạn khác nhau tôi cho các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở đoạn một cách hợp lý nhất. Với cách làm này thì 24/24 học sinh đã biết viết câu mở đoạn thành thạo với nhiều đề bài khác nhau và nhiều em đã có những câu mở đoạn rất hay, xúc tích lôi cuốn được người đọc. Việc làm thứ hai 2: Rèn kĩ năng viết câu kết đoạn: Kết đoạn tuy chỉ là một phần nhỏ trong đoạn văn nhưng lại rất quan trọng bởi câu kết đoạn thể hiện được tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay viết câu kết đoạn khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em chưa biết viết câu kết hay viết chưa hay. Vì vậy tôi đã gợi ý để học sinh biết cách làm câu kết đoạn bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được câu kết đoạn hay. Đoạn văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết đoạn mà còn thể hiện ở từng câu của đoạn. Vì vậy tôi đã chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong đoạn văn một cách thường xuyên liên tục, từ tiết viết đoạn văn đầu tiên. Việc làm thứ ba: Rèn kĩ năng viết phần phát triển đoạn Thông thường, khi làm văn, học sinh thường viết phần này dưới hình thức trả lời được mấy câu hỏi gợi ý. Đây là hạn chế đáng tiếc mà ta bắt gặp trong bài làm của học sinh. Vì vậy tôi đã giúp học sinh khắc khục tình trạng này bằng cách: Điều trước tiên tôi hướng dẫn học sinh là các em phải xác định những ý cần triển khai trong nội dung đoạn văn miêu tả. Tôi cho học sinh nêu đặc điểm của đối tượng( con vật: đầu, mình, chân,…; người thân: dáng người, mái tóc, khuôn mặt, hàm răng,…) rồi hướng các em tả các bộ phận, có thể tả một hoặc hai bộ phận . Tiếp theo tôi hướng dẫn các em cách mở rộng ý theo những hướng sau: 14 + Mở rộng ý bằng cách liên tưởng, so sánh đối tượng đang miêu tả với những đối tượng khác + Mở rộng ý bằng cách đi vào miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết từng đặc điểm về đường nét, hình dáng và màu sắc của đối tượng. + Mở rộng ý bằng cách đan xen vào những câu văn tả là những câu văn nêu cảm xúc, suy nghĩ, nhận xét hay liên tưởng tới một kỉ niệm nào đó. Sau khi thực hiện được các công việc trên, tôi thấy 24/24 học sinh đã viết được phần phát triển đoạn hoàn chỉnh. Như vậy tôi đã rèn được cho các em kĩ năng viết phần phát triển đoạn đạt kết quả. Việc làm thứ tư: Dạy các bước khi viết một đoạn văn miêu tả hoàn chỉnh. Tuy đã cung cấp được hàng loạt các kiến thức cho học sinh, việc hướng dẫn các em liên kết lại thành một đoạn văn là không thể thiếu được. Do đó tôi đã hướng dẫn các em thực hiện như sau: Bước 1: - Xác định yêu cầu bài. + Học sinh nêu yêu cầu bài tập. + Giáo viên phân tích yêu cầu. - Định hướng học sinh viết. + Tả (kể) về ai (cái gì) ? + Viết mấy câu ? + Viết với tình cảm như thế nào ? + Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý. Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài văn như lớp 4 - 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết từ 3 đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý. Ở học kỳ I học sinh được kể về những người thân thiết với mình như: Cô giáo, thầy giáo, ông, bà, anh, chị, em… Do đó giáo viên nên gợi ý học sinh trước tiên tự giới thiệu về người đó (Tên là gì?, mối quan hệ với bản thân?). Tiếp đó là hình dáng, tính cách, công việc hoặc ý thích của người kể và cuối cùng là tình cảm của học sinh đối với người mình kể. - Sang học kỳ II, học sinh được tả về một số con vật, cảnh vật xung quanh mình. Đầu tiên cần gợi mở cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật) định tả. Chi tiết nổi bật của cảnh, vật đó. Cuối cùng là tình cảm của bản thân đối với cảnh vật và con vật đó… - Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Ở khâu này học sinh bộc 15 lộ rất rõ nhược điểm về tư duy cách viết câu, sử dụng từ. Giáo viên không nên làm thay cho học sinh mà nên trang bị một số tình huống, một số cách dùng từ, một số cách liên kết ( liên kết lặp từ, liên kết thay thế từ) phù hợp với nội dung đoạn viết để học sinh vận dụng viết bài. Bước 2: Học sinh viết bài vào vở.(Trước khi viết vào vở cho học sinh nêu miệng bài văn) Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi. - Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau. - Giáo viên yêu cầu một số học sinh đọc bài viết của mình và đọc bài viết đã được bạn sửa (câu, từ) trước lớp. Học sinh dưới lớp nhận xét sửa chữa bổ sung. - Giáo viên chấm và chữa một số lỗi cơ bản ( từ, câu, ý ). - Giáo viên đọc đoạn văn mẫu mà giáo viên đã chuẩn bị để học sinh tham khảo. Ví dụ: Khi dạy học sinh viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè, tôi đã hướng dẫn theo các bước như sau: Bước 1: Xác định yêu cầu bài. - Học sinh đọc yêu cầu bài: “Hãy viết từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè”. - Giáo viên phân tích yêu cầu. - Hướng dẫn học sinh định hướng viết. + Viết đoạn gồm mấy câu? (Viết đoạn từ 3 đến 5 câu). + Viết về cái gì? (Viết về mùa hè). - Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý. + Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm? (Mùa hè bắt đầu từ tháng 4 trong năm). + Mặt trời mùa hè như thế nào? ( Mặt trời mùa hè rất chói chang ). + Cả hai câu trên cho em biết về thời điểm và nét tiêu biểu của mùa nào? (Đó là mùa hè). - Giáo viên khẳng định đây là ý 1 của bài. + Bà Đất nói về mùa hè như thế nào? (Mùa hè cho ta trái ngọt hoa thơm). + Vậy câu nói của Bà Đất có thể trả lời được cho câu hỏi nào trong bài? (Cây trái trong vườn như thế nào?). - Đây chính là ý 2 của đoạn viết. + Em có thích mùa hè không? (Có). + Vì sao? (Vì mùa hè em không phải đi học mà được nghỉ hè). 16 + Học sinh thường làm gì vào dịp nghỉ hè? (Học sinh được đi tham quan, thắng cảnh, thăm ông bà…). - Đây chính là ý 3 của đoạn viết. + Đoạn viết có mấy ý? (3 ý) - Giáo viên giảng mùa hè đến khiến cho cây tươi tốt trái trĩu cành và học sinh được nghỉ hè. Vậy đoạn văn có thể viết : Ý1----- Ý2------- Ý3 + Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Với 3 ý này học sinh có thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu này sang câu khác phải có sự liên kết (Ví dụ: Có thể dùng liên kết lặp từ: Trong bốn mùa, em thích nhất là mùa hè. Vì mùa hè chúng em không còn bận rộn với sách vở và được vui chơi thoải mái. Mùa hè có nắng tháng năm, tháng sáu chói chang…) tránh lặp lại từ ý này phát triển tiếp ý kia. Tóm lại: Không nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết được một câu trong đoạn văn. Cần viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: Nhìn, ngửi, ăn… xen lồng với tình cảm của bản thân về mùa hè. Bước 2: Học sinh làm bài vào vở. - Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết đoạn cách lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia, viết hết đoạn mới xuống dòng. - Khi học sinh làm bài giáo viên quan sát giúp đỡ những học sinh yếu. Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi: Việc chấm và nhận xét bài làm của học sinh là không thể thiếu được. Chấm và chữa bài là đánh giá cái được và cái chưa được của học sinh. Mục đích của việc chấm bài là đánh giá kết quả bài làm của học sinh từ đó nắm được năng lực viết văn của học sinh để chuẩn bị tốt hơn cho những bài viết sau. Khi nhận xét bài, tôi đã chỉ rõ cái được và cái chưa được của bài về từng khía canh như: ( Bố cục, cách dùng từ, viết câu, liên kết câu, sử dụng biện pháp tu từ..) Ngoài ra trong quá trình dạy học, tôi tích lũy được rất nhiều những đoạn văn hay của học sinh trong các năm học trước, tôi đọc cho các em nghe rồi cùng các em phân tích cái hay, cái cần học tập trong từng đoạn văn. Với cách làm trên tôi đã thu được kết quả là 24/24 em viết được đoạn văn đúng bố cục, biết cách viết phần phát triển đoạn, mở đoạn hay kết đoạn của đoạn văn miêu tả, tôi đã giúp các em có kĩ năng viết đoạn văn miêu tả, không những có đoạn văn đúng mà còn có nhiều đoạn văn hay, sáng tạo, liên kết câu chặt chẽ. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 17 Sau một thời gian nghiên cứu đề tài, áp dụng trực tiếp vào lớp 2B - Trường Tiểu học Điền Trung I do tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy các em bắt đầu có hứng thú và đam mê với phân môn Tập làm văn. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng và sinh động hơn. Các em đã chủ động, tự giác trong việc hình thành kiến thức và tôi đã tiến hành kiểm tra tính khả thi của đề tài như sau: Thời điểm kiểm tra: Tuần 3 của tháng 3 năm học 2017 - 2018 sau khi đã áp dụng sáng kiến. Đề bài: Viết một đoạn văn ngắn để nói về một con vật mà em thích. Bảng 1: Thống kê theo số lỗi của học sinh: Các lỗi phổ biến Lớp Tổng số học sinh Chưa biết cách quan sát SL TL Hạn chếvốn từ, dùng từ chưa chính xác SL TL Chấm câu tùy tiện SL TL Chưa biết Chưa liên sử dụng các kết chặt chẽ biện pháp tu giữa các câu từ SL TL SL TL 2B 24 0 0 1 4.15 2 8.3 0 2A 24 3 12.5 2 8.3 3 12.5 4 16.6 3 12.5 Bảng 2: Kết quả đánh giá chất lượng viết văn của hai lớp 2A và 2B sau khi áp dụng sáng kiến. Lớp Tổng số HS 2B Lớp thực nghiệm 24 Thời điểm SL Trước khi thực hiện 0 Sau khi thực hiện 6 So sánh đối chứng Tăng 6 em Trước khi thực hiện 2A Lớp đối chứng 24 Hoàn thành tốt Sau khi thực hiện So sánh đối chứng TL% 25 %, Hoàn thành Chưa hoàn thành SL TL% SL TL% 19 79.2% 5 18 75 % 0 25.0 20.8% Giảm 5 em 20.8 0 3 12.5 Tăng 3 em 12.5 19 79.2% 5 20.8% 19 79.2 2 8.3 Giảm 3 em 12.5 Từ thực tế kết quả bài làm của học sinh, tôi nhận thấy vốn từ ngữ của các em ngày càng phong phú hơn cả về số lượng lẫn chất lượng. Cách sử dụng từ 18 của các em chính xác hơn. Trong khi viết văn các em đã biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa vào viết đoạn văn. Cụ thể: Số em hoàn thành tốt tăng lên 6 em( Mai Anh, Thái, Ngọc Linh, Đồng, Hoàng, Phương Linh)- chiếm 25%, số em chưa hoàn thành giảm 5 em(Quyên, Dương, Hoàn, Vân, Nhi) - chiếm 20.8%. So với kết quả lớp 2A thì kết quả của lớp 2B cao hơn nhiều. Đặc biệt là số em mắc lỗi được giảm rõ nét. Nói chung, chất lượng viết đoạn văn của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Số bài đạt hoàn thành tốt được nâng lên, số bài chưa hoàn thành giảm đi. Điều đáng mừng là không còn em nào chưa hoàn thành. Điều đó chứng tỏ những biện pháp mà tôi áp dụng đã thực sự góp phần "Nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Điền Trung I". PHẦN 3. KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT 3.1 Kết luận: Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng, đặc biệt là dạy học sinh viết tốt đoạn văn ngắn ở lớp 2, mỗi giáo viên cần phải luôn luôn nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất để giảng dạy cho học sinh. Luôn luôn chú trọng đến điểm tích hợp của chương trình trong quá trình giảng dạy. Bằng những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy, sau khi áp dụng các biện pháp trên, tôi đã rút ra bài học sau: * Đối với giáo viên: - Để nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2, người giáo viên cần tạo cho học sinh hứng thú khi học văn với nhiều hình thức khác nhau. - Hình thành cho học sinh thói quen tích lũy những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong tác phẩm văn học bằng cách giao việc về nhà sưu tầm, quan sát, lắng nghe rồi viết những điều quan sát, nghe thấy trong cuộc sống. - Dạy học sinh biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật và vận dụng kiến thức Tiếng Việt vào viết văn. - Giáo viên cần chú ý rèn cả 4 kĩ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. Việc hướng dẫn học sinh viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 đạt kết quả cao không phải là một sớm, một chiều, một tiết học nhất định. Vì thế người giáo viên phải có lòng kiên trì và sự say mê nghiên cứu văn học. * Đối với học sinh: - Các em phải có ý thức tự học, tự rèn luyện, đặc biệt là học viết văn để 19 còn tiếp tục học các bậc học trên. - Học sinh phải trau dồi cho mình lòng say mê, yêu thích văn học. - Chăm chỉ tìm tòi và đọc nhiều loại sách để bồi dưỡng tâm hồn và mở mang sự hiểu biết về thế giới tự nhiên và thế giới xung quanh. 3.2 Kiến nghị: Đề xuất với nhà trường: - Tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên môn ( tăng cường dự giờ, trao đổi kinh nghiệm ,…) bổ sung và tăng cường sử dụng các tài liệu tham khảo về văn học ở tiểu học. - Tạo điều kiện để tôi được triển khai rộng sáng kiến để được áp dụng rộng rãi trong toàn trường. - Đầu tư hệ thống tranh ảnh đồ dùng dạy học phù hợp cho các nội dung của các tiết học của phân môn Tập làm văn. Đề xuất với phòng GD&ĐT: . - Đối với những sáng kiến kinh nghiệm của những đồng chí giáo viên trong ngành có giá trị áp dụng trong giảng dạy, Phòng giáo dục in ấn thành tập san để các trường được học tập những kinh nghiệm quý báu ấy. - Có sự khuyến khích động viên đối với những giáo viên có những sáng kiến kinh nghiệm hay. Trên đây là một sáng kiến nhỏ của bản thân tôi trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn ở trường Tiểu học Điền Trung I. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG Bá Thước, tháng 3 năm 2018 HIỆU TRƯỞNG NGƯỜI THỰC HIỆN Nguyễn Thị Ngọ Trần Thị Hiền ∙ 20 21 Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong giờ Tập làm vănBước vào kỷ nguyên mới, đất nước ta có nhiều đổi mới, đổi mới về kinh tế, xã hội, giáo dục… Sự phát triển giáo dục của nước ta tăng nhanh giúp cho những chủ nhân tương lai của đất nước luôn được phát triển toàn diện. Tóm tắt nội dung tài liệu
GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT TỐT MỘT ĐOẠN VĂN CỦA GIA SƯ - DẠY KÈM TẠI NHÀ NTIC ĐÀ NẴNGMôn Tiếng Việt có một vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh. Vì thế, làm thế nào để học sinh tự viết được một đoạn văn không phải là một vấn đề dễ dàng. Sau đây là giải pháp của Trung tâm gia sư - dạy kèm tại nhà NTIC Đà Nẵng giúp bé yêu của bạn học tốt môn học này. Ngày đăng: 01-12-2018 3,139 lượt xem I. Lời tựa Trong nhà trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh. Ngoài việc cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hàng ngày, môn Tiếng Việt còn giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới. Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học nói chung, lớp Hai nói riêng rèn cho học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài về các nghi thức lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày, phân môn Tập làm văn lớp Hai còn rèn cho học sinh kĩ năng diễn đạt thông qua các bài văn ngắn. Tuy nhiên do vốn từ của các em còn ít nên việc diễn đạt rất hạn chế, hầu hết học sinh chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt rời rạc. Những bài tập viết đoạn văn ngắn chủ yếu được các em trình bày dưới dạng trả lời các câu hỏi gợi ý có trong bài hoặc dựa hoàn toàn vào văn mẫu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, chấm câu còn hạn chế; có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc viết không đủ ý… II. Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp Hai viết đoạn văn ngắn. 1. Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn - Viết câu mở đầu: giới thiệu về đối tượng cần viết (có thể diễn đạt bằng một câu). - Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng. Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có thể diễn đạt từ 2 đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh. - Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ, mong ước của em về đối tượng trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đối với mọi người. 2. Giúp học sinh hệ thống hóa các kiến thức về bài tập viết đoạn văn ngắn trong chương trình Tập làm văn lớp Hai: - Kể về người. Dạng này bao gồm các bài tập: Viết đoạn văn ngắn về cô giáo (hoặc thầy giáo); về một người thân, về anh, chị, em; về Bác Hồ; kể về gia đình. - Kể về vật. Dạng này gồm các bài tập: Kể về một vật nuôi trong gia đình. - Kể về một việc làm tốt. - Kể về một mùa trong năm. - Tả ngắn về biển. 3. Hướng dẫn học sinh biết cách quan sát sự vật. Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng, mục đích là giúp HS tránh được kiểu liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũnghướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật. 4. Hướng dẫn học sinh viết câu văn đủ ý, đúng ngữ pháp. Như đã nói ở trên, học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết ngữ pháp, các khái niệmtừ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ là rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này GV giúp HS nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận. 5. Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn đủ ý, có hình ảnh, cảm xúc. - Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau. - Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng, gợi ý cho các em thay thế các từ dùng chưa phù hợp (nếu có). - Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng. - Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn. 6.Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ có nhiều lỗi sai. Trong quá trình chấm bài, GV phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Khi sửa bài, tôi giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước, hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó học sinh nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng. Trung tâm gia sư – dạy kèm tại nhà NTIC Đà Nẵng LIÊN HỆ NGAY VỚI CHÚNG TÔI ĐỂ BIẾT THÊM THÔNG TIN CHI TIẾT
Địa chỉ:Đường nguyễn lương bằng, P.Hoà Khánh Bắc, Q.Liêu Chiểu, Tp.Đà Nẵng Email: |