Một trong những người lãnh đạo cuộc biểu tình của nông dân Tiên Hưng Duyên Hà là ai

Phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân mở đầu cao trào cách mạng 1930-1931

[ĐCSVN] - Ngay sau khi ra đời, Ðảng đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh tạo nên cao trào cách mạng rộng lớn trong những năm 1930 - 1931, mở đầu là các phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân trên mọi miền đất nước.

Khối liên minh đấu tranh của hai giai cấp nông dân và công nhân

làm cho đế quốc Pháp vô cùng lúng túng và bị động [Ảnh tư liệu]

Nhân ngày Quốc tế Lao động, hưởng ứng Lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân trong cả nước dấy lên làn sóng đấu tranh dân tộc và dân chủ mạnh mẽ.

Ở Bắc Kỳ, công nhân khu Mỏ Hòn Gai bãi công, biểu tình. Lần đầu tiên ở vùng mỏ, lá cờ đỏ búa liềm được treo trên đỉnh núi Bài Thơ.

Tại Thái Bình, hơn 1.000 nông dân Duyên Hà - Tiên Hưng biểu tình lên thị xã Thái Bình đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống và chống khủng bố.

Ở Trung Kỳ, nông dân các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận đã nổi dậy đấu tranh. Ngày 1/5/1930, cờ đỏ búa liềm lần đầu tiên xuất hiện ở Quảng Nam. Tại thị xã Hội An và các vùng nông thôn Duy Xuyên, Điện Bàn, Đại Lộc, Quế Sơn... đều có rải truyền đơn treo cờ Đảng.

Đặc biệt, sáng ngày 1-5, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Trung Kỳ và Tỉnh ủy Nghệ An, công nhân và nông dân Vinh - Bến Thủy đã vùng dậy biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố đòi bồi thường thiệt hại cho các gia đình bị tàn sát trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi Nam Định, ủng hộ Liên Xô. Chính quyền thực dân thẳng tay đàn áp. Chúng huy động binh lính đến bắn vào đoàn biểu tình, nhưng anh em binh sĩ người Việt chống lệnh của bọn chỉ huy Pháp không bắn vào đồng bào mình.

Mặc dù vậy, bọn giám binh, chánh mật thám tỉnh, bọn chủ người Pháp đã tức tối bắn vào đoàn biểu tình làm 7 người chết và 18 người bị thương.

Trong khi làn sóng đấu tranh của quần chúng đang dâng lên ở thành phố Vinh - Bến Thủy, 3.000 nông dân tập trung tại đình làng Hạnh Lâm [huyện Thanh Chương - Nghệ An] tổ chức mít tinh, biểu tình vào đồn điền của tên ký Viễn đòi trả lại ruộng đất và con đường giao thông độc đạo hắn đã lấn chiếm của dân. Tên ký Viễn phải bỏ trốn. Mấy ngày sau, bọn đế quốc tập trung binh lính đến đàn áp làm 17 nông dân bị chết và một số khác bị thương.

Tại Nam Kỳ, khoảng 1.000 nông dân quận Đức Hòa [Chợ Lớn] đã biểu tình đến quận lỵ đòi giảm thuế, bỏ sưu. Bọn Pháp đàn áp dã man làm 9 người chết, 50 người khác bị thương. Nhưng đoàn biểu tình vẫn không lùi bước, buộc địch phải nhượng bộ, nhận bản yêu sách, giảm thuế, giảm sưu.

Tại Sa Đéc và Long Xuyên, các cuộc biểu tình của nông dân quận Cao Lãnh và quận Chợ Mới đều giành được thắng lợi. Hai tên chủ quận Chợ Mới và Cao Lãnh buộc phải giải quyết yêu sách của quần chúng: hoãn thuế 2 tháng, thả những nông dân bị bắt vì thiếu thuế.

Máu của công nhân và nông dân Việt Nam đã đổ trong dịp kỷ niệm 1-5-1930. Nhưng sự đàn áp dã man của địch không dập tắt được phong trào. Khắp nơi, quần chúng họp mít tinh, truy điệu những người đã hy sinh để nung nấu thêm chí căm thù đế quốc, phong kiến và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới. Những cuộc mít tình, biểu tình, bãi công vẫn tiếp tục dâng cao. Trong tháng 5, 54 cuộc đấu tranh đã nổ ra [Bắc Kỳ có 21 cuộc, Trung Kỳ có 21 cuộc, Nam Kỳ có 12 cuộc], trong số đó có 18 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc của nông dân.

Sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào bãi công của công nhân ở nhà máy và phong trào biểu tình của nông dân ở nông thôn đã hình thành khối liên minh đấu tranh của hai giai cấp nông dân và công nhân, làm cho đế quốc Pháp vô cùng lúng túng và bị động.

Xem thêm tài liệu tham khảo TẠI ĐÂY

Nguồn: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.

       1. Quê hương        Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, người con ưu tú của quê hương Thái Bình giàu truyền thống yêu nước và cách mạng.        Từ năm 40 đầu công nguyên, Thái Bình đã có đội nghĩa quân và nữ tướng Bát Nàn, theo cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, đánh quân xâm lược Đông Hán. Từ đó về sau, đất nước trải qua các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh, Thanh…, thời kỳ nào, người dân Thái Bình cũng hăng hái tham gia và lập nhiều chiến công. Đầu thế kỷ XVIII, triều đình phong kiến Lê -Trịnh suy tàn, khởi nghĩa của nông dân nổ ra ở khắp nơi, tiêu biểu là khởi nghĩa ở Thái Bình của nghĩa quân Hoàng Công Chất, Phan Bá Vành...Thực dân Pháp xâm lược nước ta, người dân Thái Bình dưới sự chỉ huy của những sĩ phu yêu nước như Đề Hiện, Bang Tốn, Đốc Nhưỡng, Nguyễn Mậu Kiến, Nguyễn Thái Phúc, Phạm Huy Quang, Đốc Đen, Lãnh Hoan, Lãnh Nhàn, Doãn Khuê, Lãnh Bí…đứng lên chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Tỉnh Thái Bình thành lập ngày 21 tháng 3 năm 1890, với âm mưu của thực dân Pháp nhằm thiết lập bộ máy thống trị đàn áp phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thái Bình nhưng phong trào vẫn tiếp diễn ra mạnh mẽ. Đầu thế kỷ XX, tham gia và trở thành những nhân vật xuất sắc của phong trào Đông Du, phong trào Đông kinh nghĩa thục Thái Bình có thủ khoa Phạm Tư Trực, Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, Cả Cương, Ấm Đoan. Nhân dân Thái Bình có truyền thống cần cù trong lao động sản xuất, dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh với thiên nhiên, giàu truyền thống văn hoá và hiếu học. Thái Bình có 115 vị đỗ đại khoa các triều đại phong kiến từ Phó bảng đến Trạng nguyên, trong đó có những trạng nguyên nổi tiếng như Khiếu Đình Tuân, Phạm Đôn Lễ, Lê Quý Đôn, Đỗ Lý Khiêm…        Truyền thống lịch sử, văn hóa của quê hương đã nuôi dưỡng tinh thần, khí phách cho những người cộng sản như đồng chí Nguyễn Đức Cảnh. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa Mác-Lênin như luồng gió mới thổi bùng lên phong trào cách mạng trong cả nước. Những hạt giống cộng sản đầu tiên đã sớm nảy mầm trên mảnh đất Thái Bình. Các đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Công Thu, Vũ Trọng…đã tham gia lớp huấn luyện do đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu [Trung Quốc]. Đầu năm 1927, hai chi bộ "Thanh niên" đầu tiên của Thái Bình ra đời là chi bộ Minh Thành [thị xã] và chi bộ Trình Phố [Kiến Xương]. Đầu năm 1928, Ban Tỉnh bộ Thái Bình được thành lập. Cuối tháng 6 năm 1929, Đảng bộ Thái Bình được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát huy truyền thống quê hương, tiếp nối xứng đáng sự nghiệp vẻ vang của các nhà cách mạng tiền bối, Đảng bộ Thái Bình đã lãnh đạo nhân dân Thái Bình giành nhiều thành tựu trong các chặng đường lịch sử của đất nước.         Năm 1930, phong trào đấu tranh của nhân dân Thái Bình nổ ra liên tiếp, tiêu biểu là hai cuộc đấu tranh của nông dân Tiên Hưng-Duyên Hà ngày 1/5/1930, mở đầu phong trào đấu tranh cách mạng của nông dân cả nước. Ngày 14/10/1930 nông dân huyện Tiền Hải nổi dậy đấu tranh, hưởng ứng cao trào Xô viết-Nghệ Tĩnh. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Thái Bình là một trong những tỉnh giành chính quyền sớm nhất. Tháng 2/1950, thực dân Pháp tiến đánh Thái Bình, Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo nhân dân đấu tranh kiên cường với kẻ thù, giữ đất, giữ làng, giành chính quyền và giải phóng tỉnh tháng 6/1954. Tham gia cùng cả nước kháng chiến chống Pháp, hàng vạn thanh niên Thái Bình đã lên đường nhập ngũ, hàng vạn tấn lương thực đã kịp thời chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thái Bình chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến với tinh thần "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Đất nước thống nhất và thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng  bộ Thái Bình lãnh đạo nhân dân trong tỉnh khắc phục khó khăn, giành nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.

         2. Gia đình

        Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, sinh ngày 02 tháng 02 năm 1908 tại làng Diêm Điền, tổng Hộ Đội, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nhà nho  giàu truyền thống yêu nước.         Cụ Nguyễn Đức Tiết, thân sinh của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, thi đậu cử nhân năm 1888. Vốn là người giàu tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ Nguyễn Đức Tiết bất bình trước sự hèn nhát của Triều đình nhà Nguyễn, sau khi đỗ đạt đã từ chối không ra làm quan, về quê dạy học. Thời gian này, Tạ Quang Hiện, nguyên là Hiệp Trấn Kinh Bắc, chống lại hành động bán nước của triều đình, từ quan, về quê chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ chống Pháp. Cụ Cử Tiết hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa do Tạ đề đốc [Đề Hẹn] đứng đầu. Cụ Cử là người có học vấn và uy tín nên được Tạ Quang Hiện giao cho nhiệm vụ chiêu mộ hào kiệt trong vùng. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Cụ Cử Tiết trở về làng dạy học. Học trò của cụ rất đông, nhiều người đã đỗ Nhất, Nhị trường, nhưng theo chí của thầy, không ra làm quan.         Cụ Trần Thị Thuỳ, thân mẫu đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, người làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương [năm 1952, Vĩnh Bảo sát nhập vào tỉnh Kiến An]. Đây là vùng đất nổi tiếng kinh kỳ về truyền thống hiếu học, truyền thống nhiều người đỗ đạt làm quan. Phụ nữ làng Cổ Am đảm đang, chăm chỉ, thương chồng, yêu con. Họ Trần của cụ Thuỳ lớn nhất làng, nhiều người có học vấn, đỗ đạt cao.         Cụ Cử Tiết sinh được bốn người con, đó là: Nguyễn Đức Phúc, Nguyễn Thị Lộc, Nguyễn Đức Cảnh và Trần Thị Thừa. Năm lên bảy tuổi, sau khi cha mất, Nguyễn Đức Cảnh được Nguyễn Đạo Quán và Trần Mỹ, bạn học của cha, là tri phủ, nhận làm con nuôi và cho đi học. Nguyễn Đức Cảnh sớm tỏ ra là người có chí, thông minh, được thầy giáo qúy mến và bạn bè nể trọng.

        3. Thời niên thiếu

        Học hết tiểu học ở thị xã Thái Bình, Nguyễn Đức Cảnh sang học trường Thành chung, Nam Định. Ở đây, Nguyễn Đức Cảnh có điều kiện hiểu thêm thực trạng xã hội đương thời và có thiện cảm, gần gũi với những người bị áp bức bất công. Nguyễn Đức Cảnh kết bạn với những thanh niên yêu nước như Nguyễn Danh Đới, Đặng Xuân Khu [Trường Chinh], Nguyễn Văn Năng, Đặng Xuân Thiều…Nguyễn Đức Cảnh và các bạn rất say sưa tìm hiểu và kính trọng những hoạt động chống Pháp của các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…        Cuối năm 1925 đầu năm 1926, cả nước dấy lên phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu và tổ chức làm lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Ở Nam Định, Ban tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh do các cụ nhà nho đứng ra tiến hành, lực lượng nòng cốt tham gia bao gồm công nhân và học sinh. Tham gia Ban lãnh đạo bãi khoá của học sinh hưởng ứng lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh có: Nguyễn Đức Cảnh, Đặng Xuân Khu và Nguyễn Khắc Lượng. Nguyễn Đức Cảnh còn cùng một số học sinh đi diễn kịch ở thành phố Nam Định và thị xã Thái Bình, lấy tiền giúp đỡ đồng bào bị lụt. Sau hoạt động tham gia bãi khóa, Nguyễn Đức Cảnh bị đuổi học. Nguyễn Đức Cảnh lên Hà Nội kiếm việc làm, tự nuôi sống mình và tìm đường đến với cách mạng. Nguyễn Đức Cảnh xin vào làm thư ký cho hiệu ảnh, dạy học và gia nhập hàng ngũ công nhân bằng cách trực tiếp lao động làm thợ sắp chữ ở nhà in Mạc Đình Tư [sau này là nhà in Lê Văn Tân].

        4. Cuộc đời cách mạng

        Năm 1927, khi còn là thợ sắp chữ ở nhà in Lê Văn Tân, là một thanh niên yêu nước đang khát khao đi tìm lý tưởng, Nguyễn Đức Cảnh đã tìm đến và gia nhập nhóm "Nam Đồng thư xã", tổ chức này sau phát triển thành tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Tháng 9 năm 1927, Nguyễn Đức Cảnh và Lý Hồng Nhật sang Quảng Châu [Trung Quốc], gặp Tổng bộ "Thanh niên" để thực thi nhiệm vụ mà Quốc dân đảng giao cho. Đến Quảng Châu, Nguyễn Đức Cảnh và Lý Hồng Nhật không gặp được đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhưng vẫn kịp dự lớp học chính trị của Tổng bộ Hội Việt Nam thanh niên cách mạng do Hồ Tùng Mậu huấn luyện. Qua học tập, cả hai đều dứt khoát ly khai tổ chức Quốc dân đảng, tự nguyện gia nhập Hội Việt Nam thanh niên cách mạng, chuyển từ lập trường Quốc dân đảng sang lập trường Cộng sản. Đây là bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Đức Cảnh.        Tháng 2/1928, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được Kỳ bộ Hội Việt Nam thanh niên cách mạng cử làm Bí thư Tỉnh bộ Hội Việt Nam thanh niên cách mạng Hải Phòng, sau đó được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ và Bí thư Khu bộ Hải Phòng gồm [Hải Phòng, Kiến An và vùng mỏ Quảng Ninh]. Ngày 28/9/1928, lần đầu tiên tại Hội nghị Kỳ bộ Hội thanh niên cách mạng Bắc kỳ tại một địa điểm ở chợ Hôm [Hà Nội], vấn đề đưa cán bộ đi "vô sản hoá" được đặt ra và được coi là biện pháp thích hợp để tuyên truyền giáo dục quần chúng, xây dựng tổ chức cách mạng trong công nhân. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và đồng chí Ngô Gia Tự đã đề xuất nhiều ý kiến xác đáng về chủ trương này.        Ngày 17/6/1929, tại ngôi nhà 312 phố Khâm Thiên [Hà Nội], Đông Dương Cộng sản đảng được thành lập. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do đồng chí Ngô Gia Tự làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh làm Ủy viên.        Ngày 28/7/1929, thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời về công tác công vận, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã triệu tập Đại hội đại biểu công nhân các tỉnh Bắc kỳ tại 15 Hàng Nón [Hà Nội]. Đại hội đã định ra nhiệm vụ mới cho phong trào công nhân và thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được cử làm Hội trưởng lâm thời. Tháng 12/1929, đồng chí Nguyễn Đức cảnh triệu tập Hội nghị Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ, quyết định thống nhất các Tổng Công hội địa phương lên Xứ và bầu Ban Chấp hành chính thức. Tại Hội nghị này, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã đề cử đồng chí Trần Văn Lan làm Hội trưởng. Tháng 8/1929, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản đảng Hải Phòng thành lập. Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm ba đồng chí, do cấp trên chỉ định: đồng chí Nguyễn Đức Cảnh làm Bí thư, đồng chí Hoàng Văn Đoài và Nguyễn Hữu Căn làm Uỷ viên.         Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại một địa điểm ở Cửu Long [Trung Quốc] đã diễn ra Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tháng 2/1930, các đồng chí: Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu... triệu tập Hội nghị tại số nhà 42 Hàng Thiếc [Hà Nội] bàn triển khai Nghị quyết Hội nghị Cửu Long và Chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng thời cử ra Ban Chấp hành lâm thời. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được giới thiệu vào Trung ương nhưng đã đề cử đồng chí Trần Văn Lan.          Tháng 5/1930, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được Trung ương cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ.         Cuối tháng 10/1930, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được Trung ương cử vào tham gia Xứ ủy Trung kỳ. Hội nghị toàn thể Xứ ủy đã bầu đồng chí vào Ban Thường vụ Xứ ủy và phân công phụ trách công tác tuyên huấn.        Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh bị địch bắt tại Vinh, bị giam ở nhà tù Hoả Lò [Hà Nội]. Trong nhà tù đế quốc, đồng chí vẫn tích cực hoạt động cách mạng.

       Ngày 31/7/1932, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh bị kẻ địch xử chém tại Hải Phòng cùng đồng chí Hồ Ngọc Lân, khi đồng chí 24 tuổi.


       Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người tận trung với nước, tận hiếu với dân, nêu cao tấm gương chói ngời phẩm chất, khí tiết và đạo đức người chiến sỹ cộng sản của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
 

 

Video liên quan

Chủ Đề