Quốc tổ người việt nam là ai

– Cùng với đồng bào cả nước, trong tâm thức của mỗi người dân Lạng Sơn, từ bao đời nay, Hùng Vương được coi là vị vua Thủy tổ dựng nước, là Quốc tổ của dân tộc và ngày 10/3 – ngày giỗ Tổ Hùng Vương được coi là Quốc giỗ. Đây là nét đẹp văn hóa thể hiện tâm thức nguồn cội, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.

Từ khi sinh ra và lớn lên, mỗi người dân Xứ Lạng đều được nghe qua lời ru của bà, của mẹ câu ca quen thuộc nhắc nhớ về ngày giỗ Tổ Hùng Vương: “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Bắt nguồn từ đạo lý “uống nước nhớ nguồn” ngàn đời của dân tộc, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương tồn tại trong tâm thức mỗi người Việt Nam nói chung và Nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn nói riêng giống như thờ tổ tiên chung của đất nước. Nhiều đời qua, tín ngưỡng này đã trở thành bệ đỡ tâm linh cho con người Việt Nam vượt qua các thách thức trong dặm dài lịch sử mấy nghìn năm.

Cán bộ Bảo tàng tỉnh nghiên cứu các hiện vật thời tiền sơ sử tại Nhà trưng bày

Ông Hoàng Văn Páo, Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Lạng Sơn cho biết: Mặc dù hiện nay, tại Lạng Sơn chưa phát hiện địa điểm cụ thể nào về thờ cúng Hùng Vương nhưng rõ ràng người dân Xứ Lạng vẫn tôn kính, tôn thờ Hùng Vương – Quốc tổ của dân tộc. Cụ thể, hằng năm, có rất đông người dân các dân tộc Lạng Sơn hành hương về đất tổ, thể hiện lòng thành kính đối với Quốc tổ. Thêm vào đó, tại thành phố Lạng Sơn có con đường mang tên Hùng Vương với tâm niệm hướng về đất tổ. Qua đó cho thấy vai trò, vị trí của Hùng Vương trong tâm thức người Xứ Lạng là rất lớn.

Nhìn lại lịch sử, có thể thấy việc ghi nhận công lao của các vị Hùng Vương có nhiều thăng trầm. Năm 1372, Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc là người đầu tiên đưa các Vua Hùng với tư cách là một nhân vật lịch sử vào chính sử trong cuốn “Việt Nam thế chí”. Năm 1470, Vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức [1470-1497], đã cho Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố lập Ngọc phả Hùng Vương với tên gọi đầy đủ là “Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng” [Hùng đồ thập bát diệp Thánh Vương Ngọc phả cổ truyền]. Với sự ra đời của bản Ngọc phả này, Hùng Vương được chính thức công nhận trong chính sử Việt Nam. Trong “Đại Việt Sử ký toàn thư” bản in nội các quan bản mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 [1697], nhà sử học Ngô Sỹ Liên đã đưa Hùng Vương vào chính sử Việt Nam thuộc kỷ Hồng Bàng, từ đó, Vua Hùng được gọi là Thánh Tổ và được chính quyền trung ương công nhận. Tháng 12/2012, tại Paris [Pháp], UNESCO chính thức công nhận tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Ngày Quốc giỗ là sự phát triển đỉnh cao từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt và ý thức nguồn cội được thể hiện rõ nét. Thông qua đó, người Việt gửi lòng mình vào sự tri ân công đức tổ tiên, các bậc tiền nhân theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

Hùng Vương là vị Thuỷ tổ của người Việt. Ngày Quốc giỗ, đồng bào cả nước không phân biệt huyết thống, dòng họ, không phân chia địa lý, vùng miền, quốc gia, dân tộc đều đồng lòng hướng về núi Nghĩa Lĩnh nơi có đền Hùng cổ kính, linh thiêng. Ngoài ra, giá trị của ngày Quốc giỗ còn nằm ở tính cố kết cộng đồng, truyền thống đoàn kết dân tộc, nó giống như sợi chỉ đỏ kết nối quá khứ với hiện tại, là thiên anh hùng ca lịch sử về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Theo đó, hằng năm, đến dịp Quốc giỗ, người dân Lạng Sơn cùng với đồng bào mọi miền đất nước lại trở về Đền Hùng [Phú Thọ], ôn lại những câu chuyện về Vua Hùng dựng nước.

Anh Nguyễn Văn Thanh, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn cho biết: Đã thành thông lệ, năm nào cứ vào dịp giỗ Tổ Hùng Vương, tôi và cả gia đình đều trở về Đền Hùng thắp hương, chiêm bái, mỗi lần đi đều mang cảm xúc rất thiêng liêng. Đây là nơi thờ các Vua Hùng đã có công gây dựng đất nước, mỗi người chúng ta cần phải ghi nhớ, không được quên cội nguồn của mình.

Không chỉ mỗi người dân đều thấy thiêng liêng, tự hào mà lịch sử về Hùng Vương và các huyền sử về thời đại nhà nước Văn Lang còn được các trường học trên địa bàn tỉnh giáo dục cho các thế hệ học sinh thông qua những bài học trên lớp. Cô Từ Thúy Bình, Phó Hiệu trưởng Trường THCS Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn cho biết: Thời gian qua, bên cạnh các nội dung khác của công tác giáo dục, nhà trường đã chỉ đạo đội ngũ giáo viên môn ngữ văn, môn lịch sử đẩy mạnh giáo dục truyền thống lịch sử thông qua các bài giảng về thời đại Hùng Vương như: Nhà nước Văn Lang. Sự tích bánh chưng, bánh dày; Sơn Tinh – Thủy Tinh; Thánh Gióng… Bên cạnh đó, chúng tôi còn tổ chức tuyên truyền trong các buổi phát thanh măng non đầu buổi học.

Có thể thấy, trải qua năm tháng, cùng với các giá trị văn hóa khác, Quốc tổ Hùng Vương và những công lao đóng góp của các vị đã thực sự in sâu trong tiềm thức của mỗi người dân Xứ Lạng nói riêng, cả nước nói chung. Đó là một biểu tượng sáng ngời về ý thức nguồn cội. Thông qua giỗ tổ Hùng Vương tinh thần đoàn kết của Nhân dân càng được tô thắm, phát huy mạnh mẽ và mỗi người càng thêm trân quý những thành quả mà cha ông đã dựng xây, nỗ lực hơn nữa để góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, phát triển.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đó là niềm tự hào và vinh dự lớn không chỉ của người dân miền Đất Tổ mà còn là của cả dân tộc Việt Nam. Hình ảnh Vua Hùng - cụ Tổ của dân ta đã được thế giới vinh danh.

Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân

Thờ cúng Hùng Vương là biểu hiện tình cảm, sự biết ơn và sự tri ân công đức các Vua Hùng có công khai quốc, sinh dân. Thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối liên hệ giữa các Vua Hùng với các thế hệ trong cộng đồng người Việt từ quá khứ, hiện tại đến mai sau. Là sợi dây liên kết tinh thần giữa thời đại Hùng Vương và thời đại Hồ Chí Minh, phản ánh quan niệm sống của người Việt Nam: Trọng tình nghĩa, thủy chung, sự biết ơn, lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Xét về bản chất, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không phải một tôn giáo vì nó không có giáo lý, không có giáo chủ đồng thời cũng không có giáo dân; mà nó chính là biểu trưng của lòng thành kính, sự biết ơn/ tri ân công đức các Vua Hùng là những người có công dựng nước của con Lạc cháu Hồng hàng ngàn đời sau trong lịch sử. Khác với tôn giáo: Phật giáo hay Thiên chúa giáo, người Việt thắp hương thờ cúng Hùng Vương chỉ xin Vua Hùng phù hộ cho cuộc sống hiện tại chứ không xin cho khi nhắm mắt xuôi tay được sớm lên thiên đàng hoặc sớm về nơi Tây phương cực lạc, hưởng chốn bồng lai tiên cảnh.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự sáng tạo văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Căn bản triết lý hay nói chính xác hơn là sự minh triết Việt trong tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là quan niệm “Vạn vật hữu linh – vạn vật hữu hình” và “Cây có cội, nước có nguồn”; “Con người có tổ tông, nòi giống”.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương thực sự là tín ngưỡng bản địa; tục thờ thuần Việt, ở đây đối tượng được tôn thờ là Thánh Tổ Hùng Vương - ông Tổ không phải của riêng một dòng họ, một làng, một vùng mà là Tổ của dân, của nước.

Ý nghĩa đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là ý thức nhớ về cội nguồn dân tộc “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”; “Uống nước nhớ nguồn”; sự kết nối cộng đồng hình thành nên tính đại diện cộng đồng sâu sắc. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có không gian văn hóa rộng rãi, trải dài khắp cả nước, từ Bắc vào Nam; gần như ở khắp các tỉnh thành, nơi nào có người Việt sinh sống nơi đó có thờ cúng Hùng Vương gắn với thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ, làng xã.

Không gian văn hóa tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương mà nổi bật là Đền Hùng, di tích quốc gia đặc biệt, nơi đất thiêng nghĩa tình, nơi thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lâu đời nhất, quy mô nhất  trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Theo dòng chảy của thời gian và ký ức, trải qua bao biến cố, thăng trầm, di sản vẫn trường tồn và phát triển. Đó là sự hồi cố, kết tinh và tỏa sáng của văn hóa Lạc Việt - văn mình lúa nước - văn minh sông Hồng. Di sản văn hóa ấy đã và đang tỏa sáng, lan rộng không chỉ ở Việt Nam mà còn nổi bật, tiêu biểu toàn nhân loại và đại diện toàn cầu.Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một di sản văn hóa phi vật thể đặc biệt của văn hóa việt Nam, được hình thành và phát triển trường tồn cùng lịch sử dân tộc, được cộng đồng người Việt cả trong nước và nước ngoài mặc nhiên thừa nhận là bản sắc riêng của mình để bảo tồn phát huy. Vua Hùng – vua Thủy Tổ được tôn thờ như một vị Thánh Vương của cộng đồng dân tộc, một điểm tựa tâm linh vững chắc cùng tồn tại với non sông đất nước, từ trong quá khứ, cả trong hiện tại và mãi đến mai sau.

“Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Từ lâu, câu ca dao ấy đã thấm đẫm, ăn sâu vào tiềm thức người dân đất Việt. Dẫu có đi đâu, về đâu, mỗi người vẫn luôn mang theo niềm tự hào sâu sắc về nguồn cội “con rồng, cháu tiên”, “con Lạc, cháu Hồng” chảy trong huyết mạch. Trong cái niềm tự hào chảy suốt mấy nghìn năm lịch sử ấy, Vua Hùng đã được suy tôn là Quốc tổ, trở thành biểu tượng tôn quý cho tinh thần yêu nước, đại đoàn kết dân tộc và nét đẹp văn hóa, tín ngưỡng người Việt.

Đền Hổ Bái [xã Yên Trường] – nơi thờ thần Hợp Lang, người con thứ 11 của Vua Hùng.

Nhắc đến Vua Hùng là mở ra “thiên tình sử” của nước Việt ta giữa chàng Lạc Long Quân và nàng Âu Cơ. Nàng Âu Cơ khi hạ sinh một bọc phá ra trăm trứng, mỗi trứng nở ra một cậu con trai, “mỗi cậu bé càng lớn càng thêm tuấn tú, mỹ lệ khác thường, oai dũng, thông minh mẫn tiệp, trí tuệ toàn vẹn, mọi người đều sợ phục cho là những anh em phi thường”. Câu chuyện tình đặc biệt ấy không chỉ được lưu lại trong truyền thuyết mà được ghi chép trong nhiều chính sử.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai [tục truyền sinh trăm trứng], là tổ của Bách Việt. Một hôm vua bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam [có bản chép là về Nam Hải], phong cho con trưởng là Hùng Vương, nối ngôi vua. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu [Phú Thọ]. Nước Văn Lang có Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, chia nước làm các bộ, phủ, như: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức... Bộ Văn Lang là nơi Hùng Vương đóng đô.

Từ cội nguồn thiêng liêng ấy cùng với công đức vô lượng trải dài suốt 18 đời, Vua Hùng đã được các thế hệ người dân nước Việt suy tôn là Quốc tổ. Hình tượng Vua Hùng đã gắn chặt với hồn thiêng sông núi đất Việt, gắn với các thế hệ cháu con nước Việt không chỉ bởi ánh hào quang của lịch sử, mà đó chính là sự phản chiếu hình ảnh của ông vua mở nước, gắn kết lòng người bằng huyết tộc và hai tiếng đồng bào thiêng liêng. Từ sự suy tôn, ngưỡng vọng ấy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã hình thành, phát triển với sức sống bền bỉ cho đến hôm nay và muôn đời sau.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời, là hình thức phát triển cao từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Tín ngưỡng này chủ yếu được thực hiện ở các di tích thờ các nhân vật tiêu biểu, liên quan đến thời kỳ Hùng Vương. Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng không chỉ thể hiện niềm thành kính, nhất tâm hướng về nguồn cội dân tộc. Mà hơn hết, nó là minh chứng sinh động, thuyết phục về “lòng yêu nước nồng nàn”, tinh thần “thượng tôn dân tộc”. Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng có mặt ở nhiều nơi trên khắp dải đất hình chữ S này. Trong đó, Khu Di tích lịch sử Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng [Giỗ Tổ Hùng Vương] được tổ chức vào ngày 10-3 [âm lịch] hằng năm tại Phú Thọ là trung tâm tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đã trở thành lễ hội lớn nhất của cả nước. Vào ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, đông đảo các thế hệ cháu con người Việt cùng về đây, nhất tâm bái lạy, thắp nén hương thơm dâng lên Quốc tổ bằng tất cả lòng biết ơn, kính trọng. Lễ hội Đền Hùng trong tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã đạt đến đỉnh cao của sự thăng hoa để trở thành ngày hội non sông, ngày hội của toàn dân, thể hiện lòng tôn kính đối với các bậc tổ tiên và từ đó nêu cao hơn nữa lòng tự hào dân tộc và gắn kết cộng đồng. Với những giá trị sâu sắc về văn hóa, lịch sử, ngày 6-12-2012, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Là mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, nơi lắng đọng tinh hoa văn hóa ngàn năm, xứ Thanh hiện vẫn còn lưu lại nhiều dấu ấn đậm nét về thời kỳ Hùng Vương, đặc biệt là các di tích, lễ hội tiêu biểu, độc đáo liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.

Nét cổ kính, trầm mặc, sơn thủy hữu tình của đền Đồng Cổ [Yên Định]. Ảnh: N.L

Dấu ấn thời kỳ Hùng Vương trên đất xứ Thanh không thể không nhắc đến ngôi đền Đồng Cổ [Yên Định]. Ngôi đền linh thiêng, trầm mặc bên bờ sông Mã được tưới tắm tự ngàn đời bằng những câu chuyện huyền thoại, thần tích, truyền thuyết, dã sử gắn liền với những câu chuyện về thần Đồng Cổ, vị thần có công lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Cuốn Linh tích núi Tam Thai do Hà Văn Giác phiên âm, dịch nghĩa từ nguyên bản chữ Hán “Tam Thai sơn linh tích” của Lam Kiều Nguyễn Dật Sảng có kể: “Vua Hùng thứ nhất theo đường núi vào dẹp loạn Hồ Tôn ở phương Nam, khi ngang qua đây đã nghỉ quân ở chân núi thôn Khả Lao, nay là làng Đan Nê, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa có nằm mộng gặp thần núi. Từ thời Hùng Vương, trải qua lịch sử các triều đại Tiền Lê, Lý, Trần – Hồ, Hậu Lê vẫn ghi lại những công trạng phò vua giúp nước, dẹp giặc ngoại xâm của thần Đồng Cổ thông qua các lần linh ứng hiển linh báo mộng. Về phần chiếc trống đồng – vật gắn liền với những câu chuyện về thần Trống đồng, theo Linh tích núi Tam Tai có đoạn viết: “Trước kia, ở miếu thờ có 1 trống đồng, tương truyền là vật cổ từ thời vua Hùng, mặt trống có đường tròn 1 thước 5 tấc [0,6m], cao hai thước [0,8m], rỗng lòng không đáy, giữa mặt trống có chỗ lõm như rốn bụng, vành mép ngoài nối liền chữ Triện, bốn bên có dây xoắn hình chữ Vạn, chữ lâu đời bị mòn, xoa xát cũng không rõ, xung quanh mặt chỉ còn vân hoa như hoa đẩu; núm có lỗ hổng bằng hạt đậu. Đó là trống đồng Lạc Việt nổi tiếng”.

Trên mảnh đất Yên Định ấy, ngoài ngôi đền Đồng Cổ ở xã Yên Thọ thì tại xã Yên Bái cũ [nay là xã Yên Trường], đền Hổ Bái cũng được biết đến là nơi lưu giữ những dấu ấn đậm nét về thời kỳ Hùng Vương với sức sống hàng nghìn năm tuổi. Đền thờ thần Hợp Lang, người con thứ 11 của Vua Hùng, “có tên kiêng húy là Hợp Lang tước, xưng là tướng văn lạc hầu, trấn trị ở phủ Hoài Hoan”. Địa chí xã Yên Bái, ngọc phả làng Hổ Bái cho biết: Trong một lần ngao du, ngược dòng sông Mã, đến đất Trang Trân Bái, thấy cảnh sắc tươi đẹp, thanh bình, lại có “sông nước linh thiêng, trong lành, hình sông thế núi uyển chuyển với dải đất anh linh trọng yếu” nên đã kêu gọi dân chúng khắp nơi tới lập ấp, lập làng sinh sống và cho xây dựng một ngôi đền thờ, chính là vị trí đền Hổ Bái bây giờ. Sau khi hoàn tất công việc, Lạc hầu quay về thủy cung [vào ngày 4-4]. Từ đó hằng năm, ngày 4-4 được chọn làm ngày dâng hương lễ tế, kỷ niệm ngày mất của thần Hợp Lang. Cũng theo sử sách ghi chép lại, liên quan đến đền Hổ Bái, ngoài sự kiện thần Hợp Lang về cho xây dựng đền thì vẫn còn sự kiện quan trọng và ý nghĩa khác. Đó là trong một lần Bà Trưng về đền cầu anh linh Vua Hùng phù hộ để diệt giặc ngoại xâm bảo vệ bờ cõi. Lời khấn cầu linh ứng, Hai Bà Trưng cùng nghĩa quân đã đánh tan quân giặc. Ngay sau đó, Hai Bà về đất Trang Trân Bái mở hội ăn mừng trong một tháng và hạ lệnh tu sửa đền thờ ngay sau đó.

Vua Hùng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng người Việt vừa là biểu tượng quyền uy, tôn quý nhưng cũng thật chân thực, gần gũi. Bởi người chính là tổ tiên của Bách Việt ta đó; mỗi người dân nơi này đều có chung dòng máu “con Lạc, cháu Hồng”. Vì lẽ đó, chẳng cần những giáo lý cao siêu, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn có sức sống bền bỉ, trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc ta, ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được tiếp nối và trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác như mạch nguồn văn hóa thăm thẳm, bao la. Vua Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là điểm tựa tinh thần, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đưa Việt Nam tiến bước trên con đường hội nhập và phát triển, đúng như Bác Hồ từng căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Nguyên Linh

Video liên quan

Chủ Đề