Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ
Sản xuất sản phẩm may mặc tại Công ty Cổ phần may Tiên Hưng (huyện Tiên Lữ). (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) đã chính thức có hiệu lực từ đầu tháng 8/2020 vừa qua. EVFTA là cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam tăng thị phần trong “miếng bánh” hàng dệt may 250 tỷ USD/năm này. Tuy nhiên, việc thiếu hụt về nguồn cung nguyên liệu vẫn đang là trở ngại cần giải quyết nếu muốn nắm bắt cơ hội từ thị trường này mang lại. Loay hoay chuyện xuất xứ Theo Bộ Công Thương, EU là thị trường có quy mô lớn nhất về nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may với kim ngạch nhập khẩu trị giá hơn 250 tỷ USD/năm. Năm 2019, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đạt 4,3 tỷ USD, tăng 3,8% so với năm trước, nhưng thị phần mới chỉ chiếm khoảng 2%. Con số này cho thấy, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU vẫn còn rất nhỏ so với những tiềm năng mà thị trường này đem lại. Dự báo của Bộ Công Thương cho hay, khi có EVFTA, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU sẽ tăng nhanh với mức khoảng 67% đến năm 2025 so với kịch bản không có hiệp định. Dù vậy, theo cam kết tại EVFTA, bên cạnh việc đáp ứng tiêu chí khắt khe về chất lượng, để hưởng lợi ích về thuế suất, các doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ rất chặt chẽ. Cụ thể, quy tắc xuất xứ “từ vải trở đi," tức là vải nguyên liệu được dùng để may quần áo phải được dệt tại Việt Nam hoặc các nước thành viên EU. Nhiều ý kiến cho rằng, đây vẫn là điểm yếu của ngành dệt may trong nước do phần lớn nguyên phụ liệu đang nhập khẩu từ các nguồn không phải là thành viên của EVFTA và cũng không phải là quốc gia đã ký kết thương mại tự do (FTA) với EU. Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho rằng, các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hay mới đây là EVFTA quy định rất khắt khe về nguyên liệu và quy trình sản xuất. Nguyên tắc để hàng dệt may Việt Nam được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi theo EVFTA yêu cầu vải phải được dệt tại Việt Nam, hoặc EU và cắt may tại Việt Nam. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp dệt may vẫn chưa rõ ràng được vấn đề về vùng nguyên liệu. [Hiệp định EVFTA: Mở "nút thắt" cho xuất khẩu dệt may, da giày] Theo bà Bùi Kim Thùy, nguyên thành viên đoàn đàm phán các FTA của Việt Nam, đại diện Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN tại Việt Nam, đáp ứng quy tắc xuất xứ là yêu cầu bắt buộc để hàng hóa hưởng thuế quan ưu đãi. Để đáp ứng được vấn đề này, ngành dệt may trước mắt có thể sử dụng vải nhập khẩu từ các quốc gia đã có FTA với EU như Hàn Quốc để cắt may tại Việt Nam. Bởi theo quy định của EVFTA, EU cũng cho phép Việt Nam sử dụng vải nhập khẩu từ Hàn Quốc để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng xuất khẩu sang EU và vẫn được hưởng thuế suất ưu đãi của EVFTA. “Song tỷ lệ nhập khẩu vải từ Hàn Quốc hiện chưa cao do khó khăn về địa lý cũng như giá cả... Vì vậy, về lâu dài, Việt Nam cần một chiến lược tổng thể để nắm bắt cơ hội từ thị trường EU," bà Bùi Kim Thùy cho hay. Sản xuất khép kín Để tìm kiếm cơ hội vào EU, nhiều doanh nghiệp đã chuẩn bị sẵn sàng, đầu tư từ nhà xưởng, máy móc công nghệ đến việc đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của các nhà nhập khẩu. Theo ông Trần Như Tùng, thành viên Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Dệt may-Đầu tư-Thương mại Thành Công (TCM), với những gì mà EVFTA mang lại, công ty đặt mục tiêu xuất khẩu vào EU tăng từ 30-50% vài năm tới. Công ty đã xây dựng một nhà máy nhuộm vải, mỗi năm có thể cung ứng số lượng vải đủ cho nhu cầu sản xuất của công ty và lâu dài hơn, dự kiến sẽ xúc tiến mở thêm một nhà máy nữa tại khu vực miền Tây để có thể tự chủ nguyên liệu trong sản xuất. Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Việt Thắng Jean, ông Phạm Văn Việt, cho biết ngay từ khi EVFTA được ký kết, Việt Thắng Jean đã ký kết thu mua nguyên phụ liệu từ các đối tác tại Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ dài hạn thay thế nguyên liệu từ Trung Quốc nhằm đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ theo cam kết của EVFTA. Theo các chuyên gia, để giải bài toán xuất xứ cho ngành dệt may trong thời gian tới, bên cạnh sự nỗ lực từ phía doanh nghiệp, Chính phủ cần sớm ban hành Quy hoạch phát triển ngành tới năm 2040 gồm cả dệt may và da giày. Ông Vũ Đức Giang cho hay, quy hoạch phải đặt trọng tâm vào việc xây dựng các khu công nghiệp dệt may có xử lý nước thải hiện đại, để chu trình dệt-nhuộm-may hoàn tất được đầu tư phát triển, đóng góp vào nguồn cung toàn cầu và giảm bớt phụ thuộc nhập khẩu, tận dụng tối đa ưu đãi từ EVFTA hay những hiệp định thương mại khác. Ngoài ra, những vấn đề về chính sách thuế với hàng hóa nhập khẩu, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất và xuất khẩu còn nhiều bất cập cũng cần sự điều chỉnh của nhà nước để tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Cùng quan điểm trên, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho rằng để khai thác tối đa những ưu đãi mà EVFTA mang lại, cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp phải cùng vào cuộc. Chính phủ cần phát triển công nghiệp phụ trợ đủ mạnh, đáp ứng nhu cầu về nguyên phụ liệu để gia tăng hàm lượng nội địa cho hàng hóa xuất khẩu, bảo đảm đáp ứng quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan. Trước mắt, có thể thu hút và cấp phép cho các dự án dệt nhuộm, nhất là các dự án có trình độ thiết bị công nghệ tiên tiến và quy trình xử lý nước thải bảo đảm thân thiện môi trường. Việc này cần sự phối hợp từ các bộ, ngành và địa phương. Với các doanh nghiệp, ông Hải cho hay, cần chủ động tìm hiểu các nội dung về thuế quan và quy tắc xuất xứ của EVFTA để chủ động điều chỉnh quy trình sản xuất, nguồn nguyên liệu; chuyển hướng nguồn nguyên liệu nhập khẩu sang trong nước hoặc từ các nước thành viên EU, các quốc gia đã có FTA với EU. Thời gian qua, Bộ Công Thương cũng đã xây dựng và triển khai các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ cho các ngành công nghiệp nói chung và dệt may nói riêng. Mới đây, Bộ đã khai trương cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ; trong đó ngành công nghiệp dệt may có 1.400 doanh nghiệp được đưa vào hệ thống. Bộ cũng đang tích cực hoàn thiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2040, sớm trình Chính phủ để làm cơ sở xây dựng các khu công nghiệp dệt nhuộm có quy mô lớn, có hệ thống xử lý nước thải đủ tiêu chuẩn để thu hút nhà đầu tư.../. (TTXVN/Vietnam+) Link tải luận văn miễn phí cho ae 1. Tính cấp thiết của đề tài:Ngành dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong nhữngnăm vừa qua, và Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độtăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dệt may nhanh nhất thế giới, đạt 14,5%trong giai đoạn 2008-2013 [3]. Năm 2013, sản phẩm dệt may Việt Nam xuấtkhẩu đến hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ với kim ngạch xuất khẩu đạt17,9 tỷ USD, chiếm 13,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và 10,5%GDP cả nước [3].Tuy nhiên, dệt may lại là một vấn đề gây tranh cãi và chưa giải quyếtđược trong đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái BìnhDương (TPP). Trong đàm phán TPP, ngoài việc cam kết cắt giảm hầu hết cácdòng thuế (ít nhất 90%, được thực hiện ngay hay thực hiện với lộ trình ngắn)còn có các cam kết, thỏa thuận về hàng rào kỹ thuật thương mại, quy tắc xuấtxứ hàng hóa, quy định về sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường, lao động. Đối vớiHoa Kỳ, khoản thu từ thuế nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ chiếm vị trírất quan trọng, do đó nếu loại bỏ thuế thì Hoa Kỳ bảo hộ bằng cách khai tháctriệt để các rào cản phi thuế quan. Hoa Kỳ cũng lo ngại rằng Việt Nam là mộtnhà sản xuất may mặc lớn nhất hiện nay lại chủ yếu lấy sợi và vải từ TrungQuốc và các quốc gia châu Á khác, nên thỏa thuận TPP có khả năng chuyểnđổi mô hình kinh doanh toàn cầu với ngành dệt may và nhu cầu đối với mặthàng dệt may của Hoa Kỳ [31]. TPP có ít nhất hai khả năng ảnh hưởng đếncác nhà xuất khẩu dệt may của Hoa Kỳ. Một là, TPP có thể cho phép các nhàsản xuất dệt may châu Á, chủ yếu là Việt Nam, xuất khẩu quần áo miễn thuếsang Hoa Kỳ. Điều này sẽ loại bỏ hầu hết các lợi thế hiện nay của các nhà sảnxuất phương Tây tại thị trường Hoa Kỳ, bởi các nhà sản xuất Việt Nam ít khi2sử dụng vải và các sản phẩm sợi sản xuất tại Hoa Kỳ. Hai là, trong tương laingành công nghiệp dệt may Việt Nam có thể mở rộng nên có khả năng cạnhtranh với các nhà xuất khẩu Mỹ tại thị trường Mexico và Trung Mỹ. Cácnhóm thương mại thuộc ngành công nghiệp dệt may đã kêu gọi chính phủHoa Kỳ phải giữ vững „quy tắc xuất xứ từ sợi‟ một cách nghiêm ngặt. Quy tắcnày chỉ cho phép một sản phẩm dệt may được hưởng ưu đãi miễn thuế vào thịtrường Hoa Kỳ khi và chỉ khi tất cả công đoạn sản xuất sợi, sản xuất vải, vàcắt may và các sản phẩm may xong đều chỉ diễn ra trong vòng khu vực TPP.Hoa Kỳ không chỉ nhấn mạnh vào quy tắc xuất xứ từ sợi nghiêm ngặt mà cònnhấn mạnh vào các vấn đề khác như: Việt Nam có thể phải cam kết nâng caochất lượng môi trường lao động, cam kết về lao động và công đoàn, quy địnhvề tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn chống cháy, tiêu chuẩn bảo vệ môitrường. Đối với Việt Nam, điều này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến hàng hóa xuấtkhẩu của Việt Nam vì Việt Nam là nước thành viên có trình độ phát triển thấphơn. Những rào cản phi thuế quan này đã đặt ra nhiều thách thức, hạn chếnăng lực xuất khẩu đối với dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ, đòi hỏi phíaViệt Nam phải có những hiểu biết cần thiết về hệ thống rào cản phi thuế quanmà Hoa Kỳ đặt ra, từ đó đề ra những phương hướng trong việc đẩy mạnh xuấtkhẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ.Xuất phát từ những nhận định trên, đề tài “Rào cản phi thuế quan củaHoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam” đã được tác giả lựa chọnlàm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. Trên cơ sở tìm hiểunhững vấn đề này chưa được phân tích sâu trong các nghiên cứu của ViệtNam như những quy định về hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ, đặc biệt vềrào cản quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật, luận văn sẽ phân tích đánh giánhững thành tựu và hạn chế, từ đó đề ra một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩudệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.Để thực hiện đề tài này, tác giả sẽ trả lời các câu hỏi sau:+ Tại sao cần nghiên cứu rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đốivới hàng dệt may?+ Những thành công và hạn chế của Việt Nam trong việc ứng phó vớirào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may?+ Việt Nam cần những giải pháp gì để thích ứng với rào cản phi thuếquan của Hoa Kỳ?2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:Mục đích nghiên cứu:Mục đích chính của luận văn là nghiên cứu, phân tích những rào cảnphi thuế quan của Hoa Kỳ có ảnh hưởng như thế nào đối với xuất khẩu dệtmay của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Từ đó đưa ra một số giải phápkhắc phục, thích ứng với các rào cản phi thuế quan này nhằm đẩy mạnh xuấtkhẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.Nhiệm vụ nghiên cứu:- Hệ thống những lý luận chung về rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳđối với hàng dệt may- Thu thập, tổng hợp các nghiên cứu, số liệu để đánh giá thực trạngxuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ, các quy định về rào cản phithuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may của Việt Nam và phân tích ảnhhưởng của các quy định đó đến hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Namsang Hoa Kỳ.- Đánh giá quá trình ứng phó với các rào cản phi thuế quan Hoa Kỳmà dệt may Việt Nam phải đối mặt, chỉ rõ những thành công và hạn chếcủa Việt Nam.- Đề xuất một số giải pháp khắc phục, thích ứng với rào cản phi thuếquan của Hoa Kỳ trong giai đoạn hiện nay.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu:Luận văn nghiên cứu về rào cản phi thuế quan đang được áp dụng tạiHoa Kỳ đối với mặt hàng dệt may, những ảnh hưởng của những rào cản nàyđối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ từ năm 2008 đếnnăm 2014, và từ đó đề xuất giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu dệt may ViệtNam sang Hoa Kỳ.Phạm vi nghiên cứu :- Về không gian : Luận văn nghiên cứu những rào cản phi thuế quancủa Hoa Kỳ đối với mặt hàng dệt may, và tác động của nó đến hoạt động xuấtkhẩu hàng dệt may của Việt Nam, trong đó chủ yếu nghiên cứu tác động củahàng rào kỹ thuật, quy tắc xuất xứ và đề xuất các giải pháp đối phó với nhữnghàng rào đó. Ngoài ra, luận văn sẽ nghiên cứu kinh nghiệm từ Trung Quốc vìhai quốc gia có rất nhiều nét tương đồng và đều rất tích cực phát triển sảnxuất hàng dệt may.- Về thời gian : Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu tác động của các ràocản phi thuế quan của Hoa Kỳ đến xuất khẩu dệt may của Việt Nam từ năm2008 (năm Hoa Kỳ tuyên bố tham gia TPP) đến năm 2014Chƣơng 1TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC VỀRÀO CẢN PHI THUẾ QUAN CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu- Các nghiên cứu về rào cản phi thuế quan trong thương mại củaHoa KỳBáo cáo của USAID (2013) với tiêu đề “Non-tariff barrier to trade indeveloping countries” do Ban thư ký UNCTAD đã đưa ra các vấn đề liênquan đến các biện pháp phi thuế quan, đặc biệt quan trọng đối với nhữngnước đang phát triển. Nâng cao hiểu biết về các biện pháp phi thuế quan sẽgiúp các chính phủ xây dựng các chính sách ứng phó thích hợp và huy độngđược các nguồn lực kỹ thuật và tài chính cần thiết kịp thời, giúp cải thiệnchính sách thương mại của các quốc gia hiệu quả hơn. Bài viết phân tích quytắc xuất xứ ưu đãi sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến với giá nhập khẩu, xuất khẩu, vàphúc lợi kinh tế Mỹ trong tương lai gần.David Hanson (2010) trong bài nghiên cứu “Limit to the free trade:Non-Tariff Barriers in the European Union, Japan and United States” đã đưara những thông tin cơ bản về chính sách thương mại của Hoa kỳ, những vấnđề cần quan tâm trong thương mại của Hoa Kỳ từ năm 2000 đến 2008.Luận văn sẽ dựa trên những phân tích của các bài viết trên đề đưa ra cơsở khoa học cho luận văn về rào cản trong thương mại mà Hoa Kỳ sử dụng.- Các nghiên cứu về ngành dệt may của Việt NamVõ Thanh Thu và Ngô Thị Hải Xuân (2014) trong bài viết “Địnhhướng phát triển ngành dệt may Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập TPP” đãsử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để đã đánh giá thực trạng ngànhdệt may Việt Nam hiện nay, nhận định điểm mạnh, điểm yếu, so sánh thực Xem link download tại Blog Kết nối! |