Sáng kiến kinh nghiệm luyện từ và câu lớp 2 năm 2018 violet
SKKN- MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP HAI LÀM GIÀU VỐN TỪĐọc bài viếtTrong các môn học ở tiểu học, môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức. Nó còn là công cụ giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt phân môn Luyện từ và câu là phân môn rèn học sinh kỹ năng nghe, đọc, nói , viết trong đó kỹ năng nói là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Luyện từ và câu. Show A. PHẦN MỞ ĐẦU I.Lý do chọn đề tài Trong các môn học ở tiểu học, môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức. Nó còn là công cụ giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt phân môn Luyện từ và câu là phân môn rèn học sinh kỹ năng nghe, đọc, nói , viết trong đó kỹ năng nói là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Luyện từ và câu. Qua mỗi tiết Luyện từ và câu, các em được mở rộng một lượng vốn từ nho nhỏ, tích lũy cho mình một vốn từ phong phú và đa dạng…Nhưng điều quan trọng hơn là các em biết cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài. Đấy chính là yêu cầu rèn kĩ năng nói cho học sinh. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh nói được một câu hay, giàu cảm xúc là một kĩ năng khó của phân môn Luyện từ và câu. Bởi vậy, hiệu quả giờ dạy Luyện từ và câu còn hạn chế. Một phần người dạy còn chưa tìm ra quy trình và phương pháp dạy thích hợp. Hơn nữa đây là phân môn hoàn toàn khó đối với học sinh lớp1, 2.. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế, các em đọc còn chưa lưu loát vì vậy ít nhiều hạn chế đến khả năng đặt câu đúng, câu hay, diễn đạt bằng lời nói, lời kể và cách diễn xuất của mình qua từng đoạn chuyện, câu chuyện. Vì vậy, các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin trong học tập . Để khắc phục tình trạng trên nhiệm vụ đặt ra cho tôi là làm thế nào để học sinh mở rộng được vốn từ ngữ của mình một cách sâu sắc, có một vốn từ phong phú và đa dạng? Vì những lý do trên tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài : “ Một số biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt làm giàu vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu”, để góp phần nâng cao chất lượng học môn Luyện từ và câu nói riêng và học Tiếng Việt nói chung trong nhà trường Tiểu học. II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 1.Mục đích nghiên cứu Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, đề xuất những biện pháp góp phần vào đổi mới cách dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2. Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức dạy học của giáo viên và cách học của học sinh. Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng chính: – Làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh – Biết sử dụng từ ngữ trong đời sống hàng ngày. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài này tôi chỉ tập trung hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau: + Tìm hiểu thực trạng về vốn từ của học sinh trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 nói chung và lớp 2A nói riêng. + Đề xuất các giải pháp giúp giáo viên áp dụng một số phương pháp vào việc làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh trong phân môn Luyện từ và câu. 3.Đối tượng nghiên cứu: – Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2a làm giàu vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu 4.Khách thể nghiên cứu Học sinh lớp 2, đặc biệt là học sinh lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt 5. Phạm vi nghiên cứu – Đề tài hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Luyện từ và câu bao gồm các nội dung cụ thể sau: * Nghiên cứu kĩ nội dung sách giáo khoa, vở bài tập, các loại sách tham khảo Tiếng Viêt lớp 2 để giáo viên nắm chắc trọng tâm chương trình môn học * Điều tra tình hình thực tiển những vấn đề có liên quan đến đề tài: +Trao đổi với đồng nghiệp để đánh giá khả năng nhận thức dạy học sinh biết tìm từ ngữ xoay quanh một chủ đề. chủ điểm để từ đó rút ra bài học có giá trị. +Dự giờ giáo viên cùng khối để nắm phương pháp giảng dạy hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ để rút ra bài học kinh nghiệm. +Đề xuất một số giải pháp về hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài. 6.Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp thống kê. + Phương pháp trò chuyện. + Phương pháp đọc sách và tài liệu. + Phương pháp thực nghiệm. + Phương pháp phân tích, tổng hợp B : PHẦN NỘI DUNG I.Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn 1.Cơ sở lý luận Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp Tiểu học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện, đồng thời phát triển được khả năng của mình về một môn học, nhằm chuẩn bị ngay từ bậc Tiểu học những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Vì vậy phương pháp dạy học ở bậc tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần hình thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, hình thành nếp tư duy sáng tạo ngay từ khi các em bắt đầu đến trường phổ thông. Trong các môn học ở tiểu học môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức ban đầu còn là công cụ giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu là phân môn đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển ngôn ngữ của học sinh nói chung và của học sinh lớp Hai nói riêng. Trong thực tế môn Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng là chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người.Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng việt, văn hóa là công cụ giúp học sinh sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả tốt mà còn học tốt các môn học khác, rèn cho học sinh bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết thành thạo. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh biết cách giao tiếp tốt, viết được đoạn văn ngắn thì phải làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh. Làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh lớp Hai là một việc làm quan trọng trong phân môn Luyện từ và câu.Việc phát triển và làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh góp phần giúp học sinh có kĩ năng dùng từ để đặt câu và giao tiếp tốt. Hơn nữa, phân môn Luyện từ và câu hoàn toàn mới đối với học sinh lớp 2. Vì các em từ lớp 1 lên, các em mới làm quen với thể loại này. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ năng nói và viết diễn đạt còn hạn chế. Học sinh chưa hiểu sâu về nghĩa các từ ngữ và bản chất của câu nên khi nói và viết một đoạn văn các em thường bộc lộ các yếu điểm về diễn đạt như : từ lặp lại nhiều, câu không rõ nghĩa, các câu trong đoạn văn còn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi. Học sinh thường dập khuôn theo sự hướng dẫn của giáo viên. 2. Cơ sở thực tiễn Bước vào đầu năm học, nhà trường phân công cho tôi chủ nhiệm lớp 2a. trong quá trình trực tiếp giảng dạy các em tôi cảm thấy hầu hết các em chưa biết nói thành câu. Các em giao tiếp với nhau lời lẽ cụt ngủn, đôi khi nói năng cộc lốc không lịch sự. Ngôn ngữ của các em rất hạn chế, vốn sống còn ít, vốn hiều biết về Tiếng Việt chưa nhiều, việc nói và viết thành câu, thành một đoạn văn gặp nhiều khó khăn. Việc dạy từ ngữ cho học sinh chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự hiểu biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó đòi hỏi giáo viên có phương pháp mở rộng vốn từ giúp các em tìm được nhiều từ ngữ và biết sử dụng từ ngữ một cách thích hợp, sử dụng từ chính xác và hay khi nói và viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 vốn sống của các em còn hạn chế do đó khi diễn đạt nói và viết học sinh còn gặp nhiều khó khăn. II. Thực trạng và nguyên nhân 1.Thực trạng a.Thuận lợi -Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt được nằm giữa trung tâm của xã EaM’nang, dân cư đông đúc, chủ yếu là người Kinh. Trường được sự quan tâm của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương. Được sự quan tâm của sở, phòng giáo dục huyện nhà đã cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học. -Ban giám hiệu luôn quan tâm tới việc chỉ đạo đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, chỉ đạo thực hiện công tác nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Dạy học đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho học sinh. -Giáo viên tích cực tìm tòi đổi mới phương pháp, dạy học luôn luôn lấy học sinh làm trung tâm. -Lớp 2A rất thuận lợi được học 7 buổi trên tuần. Đa số học sinh ngoan ngoãn, biết vâng lời thầy cô giáo. b.Khó khăn Năm học 2014-2015, nhà trường phân công cho tôi chủ nhiệm lớp 2A, tổng số học sinh là 30 em, nữ 15 em, dân tộc thiểu số 3 em, con hộ nghèo và cận nghèo 6 em 100% Học sinh bố mẹ làm nông nghiệp. Mặt bằng dân trí không đồng đều. Một số gia đình không quan tâm nhiều đến sự học tập của con em mình, sự học hành của con em họ thường phó mặc cho nhà trường. c.Điều tra thực trạng -Hằng ngày, trên lớp, vào những giờ ra chơi, tôi thường xuyên chuyện trò với các em, hỏi han về gia đình, sở thích của các em, vừa tạo môi trường thân thiện, thân mật gần gũi giữa giáo viên và học sinh vừa tìm hiểu về cách giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em. Qua những cuộc chuyện trò với học sinh tôi thấy khoảng hơn một phần ba số học sinh trong lớp đã chủ động đến để nói chuyện với cô. Số còn lại e dè không dám nói hoặc nói rất ít. Những em chủ động đến nói chuyện với tôi thì thấy các em diễn đạt ngôn ngữ có phần trôi chảy hơn những em nói ít. Qua tất cả các giờ học trên lớp, tôi thường quan sát về thái độ học tập, về cách dùng từ ngữ, cách diễn đạt các câu trả lời của học sinh trong những tuần đầu của năm học, tôi thấy thực trạng của học sinh như sau: + Quan sát học sinh khi học môn luyện từ và câu, tôi yêu cầu các em tìm từ ngữ thuộc các chủ đề, chủ điểm đang học. Đa số các em tìm được rất ít từ, chỉ khi cô giáo gợi mở sát vào từng ngữ cảnh học sinh mới tìm được từ mà giáo viên yêu cầu. + Quan sát học sinh khi học môn tập đọc, phần giải nghĩa từ đa số các em không hiểu bản chất của từ nên các em không giải nghĩa được, khi tìm hiểu nội dung của bài tập đọc, giáo viên nêu câu hỏi thì có khoảng ¼ số học sinh trong lớp xung phong trả lời câu hỏi. Tuy học sinh có hiểu ý nội dung câu hỏi nhưng vì học sinh chưa diễn đạt được câu trả lời trọn vẹn. Số học sinh còn lại rụt rè không dám giơ tay phát biểu vì các em không tự tin khi nói và khi trả lời các em thường bê luôn cả đoạn văn hay một khổ thơ chứ chưa biết trả lời theo ý hiểu của mình. + Qua tiết học Tập làm văn tôi thường quan sát các em trong việc trả lời câu hỏi, đặt câu, viết đoạn văn ngắn từ 3-5 câu. Tôi thấy các em đa số chưa biết đặt câu, sử dụng từ chưa chính xác, chỉ hơn ¼ số học sinh biết dùng một số mẫu câu đơn giản. Ngoài ra, tôi còn quan sát các em khi các em giao tiếp bằng ngôn ngữ với nhau , tôi thấy các em nói năng còn cộc lốc chưa có chủ-vị. Các em giao tiếp với nhau chưa tỏ thái độ thân thiện và lịch sự. Qua quá trình thực hiện phương pháp quan sát trên tất cả các lĩnh vực tôi thấy ngôn ngữ của các em còn rất hạn chế, việc trả lời câu hỏi thường thiếu phần chủ ngữ,câu cú còn lộn xộn, gọn lỏn. Sử dụng ngôn ngữ trong văn bản còn nghèo nàn. Tôi theo dõi việc tiếp thu bài học của học sinh trong một tháng đầu của năm học và tiến hành điều tra kết quả học tập môn Luyện từ và câu của lớp. Kết quả điều tra giai đoạn giữa tháng 9 như sau: Sau khi dạy các bài Luyện từ và câu tuần 1,2,3,4 mở rộng vốn từ về sự vật và mở rộng vốn từ ngữ về học tập. Tôi ra 1 bài tập cho học sinh làm vào giấy: 1. Tìm từ? – Tìm 5 từ chỉ đồ dùng học tập:…………………. -Tìm 5 từ chỉ các bộ phận bên ngoài của người:……….. -Tìm 5 từ có tiếng chăm:………………. 2. Đặt một câu với 1 từ vừa tìm được Mẫu: Em chăm chỉ học tập. Sau khi học sinh làm bài xong, tôi kiểm tra bài tập của các em, tôi thấy các em có vốn từ rất ít chỉ tìm được vài ba từ, chứ chưa tự tìm được các từ theo yêu cầu của cô giáo đã giao. Tôi cho học sinh đặt 1 câu với một trong các từ tìm được thì học sinh đa số không biết dùng từ để đặt câu, giáo viên phải nói câu mẫu học sinh mới đặt được câu theo dập khuôn một cách máy móc Kết quả đạt được như sau :
Nhìn vào bảng dữ liệu, số lượng học sinh của lớp 2a có vốn từ quá ít ỏi, biết dùng từ để đặt câu đúng theo một chủ điểm chỉ có 8 em .Số lượng học sinh viết thành câu chưa đúng ngữ pháp chiểm quá nhiều 73,3%. Đa số các em còn trả lời theo câu hỏi gợi ý, chứ chưa biết đặt một câu hoàn chỉnh, một số các em còn viết câu lộn xộn. d. Mặt mạnh, mặt yếu *Mặt mạnh: Bản thân tôi đã có 18 năm trong nghề dạy học. Tôi là người luôn luôn tận tụy với công việc, yêu nghề, mến trẻ, luôn thích tìm tòi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, có ý chí phấn đấu, không sợ khó khăn gian khổ. Nhiều năm liền là giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, nhiều năm liền đạt chiến sĩ thi đua cấp cơ sở. Chính vì thế, tôi muốn đầu tư công sức để nghiên cứu đề tài này góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Luyện từ và câu có chất lượng cao. Ngoài nỗ lực của bản thân, tôi còn được các đồng chí đồng nghiệp giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi như góp ý kiến, thao giảng cho tôi dự giờ lấy kinh nghiệm để tôi hoàn thành đề tài này. * Mặt yếu:Thời gian để thực nghiệm chưa nhiều, nên phần nào kết quả học tập của học sinh chưa đạt tối đa như ý muốn. Trình độ viết sáng kiến còn hạn hẹp, câu từ để trình bày ý tưởng chưa được trau chuốt và làm sáng tỏ rõ trong đề tài, vì thế đề tài còn có nhiều khuyết điểm. 2.Nguyên nhân Sau khi điều tra,tôi thấy những nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng từ ngữ trong giao tiếp, trong việc sử dụng từ để đặt câu trong một câu văn của học sinh lớp 2 nói chung và của học sinh lớp 2a nói riêng là: 2.1 Về tâm sinh lí Nguyên nhân chính là các em tuổi còn nhỏ.Các em mới học từ lớp Một lên lớp Hai vốn từ ngữ của các em còn hạn chế, thậm chí còn quá nghèo nàn ít ỏi. Cách giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em chưa hoàn chỉnh, nói năng còn cộc lốc. Chính vì vốn từ ngữ còn hạn chế nên việc nói và viết không thành câu, viết một đoạn văn ngắn còn lúng túng, lủng củng. 2.2 Về hoàn cảnh gia đình của học sinh Học sinh lớp 2a do tôi chủ nhiệm, 100% con nhà làm nông nghiệp, dân trí thấp. Số hộ nghèo và cận nghèo (6 hộ), số gia đình còn lại mức sống cũng chỉ đủ ăn. Nhiều gia đình chưa có chỗ học riêng cho con cái. Cha mẹ các em chưa chú trọng đến việc rèn cho con mình nói năng, xưng hô như thế nào cho lễ phép, cho lịch sự. Con cái giao tiếp với ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình đa số trả lời cụt ngủn chưa thành câu, lâu dần thành thói quen. -Mặt khác, do thực tế học sinh mới được làm quen với phân môn Luyện từ và câu ở lớp hai nên học sinh còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập bộ môn một cách khoa học và hợp lí.Tài liệu tham khảo của các em chưa nhiều, đồ dùng dạy học, phương tiện chủ yếu là tranh trong sách giáo khoa. Chính vì lẽ đó một phần nào cũng ảnh hưởng đến việc giao tiếp của trẻ, nói và viết chưa thành câu. III. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP
Nhìn vào bảng kết quả trên, cho thấy cách tổ chức học sinh học tập theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh có vốn từ phong phú. Khi học sinh có vốn từ phong phú thì học sinh biết dùng từ đề đặt câu chắc chắn, thành thạo, chất lượng nói viết thành câu của học sinh tăng lên rõ rệt qua từng tháng. … Mặt khác, qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp tôi thấy giờ học diễn ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói hơn cả là hiện tượng nói câu không rõ nghĩa, không trọn ý không còn nữa. Học sinh đã biết dùng các từ ngữ giàu hình ảnh, câu viết khá sinh động, khi viết về các sự vật xung quanh mình. Điều đó chứng tỏ sử dụng các biện pháp theo hướng đã trình bày ở trên đã đem lại kết quả rất khả quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng làm giàu vốn ngôn ngữ nói riêng và học tốt môn Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 2. Sau một thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng học tập của học sinh lớp tôi dạy đã được nâng cao rõ rệt. Học sinh bước đầu biết đặt câu đúng và câu hay biết áp dụng để viết đoạn văn ngắn phù hợp theo yêu cầu của đề bài. Tôi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu. Tôi thấy mỗi giờ dạy bản thân mình rất say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em học tập. Cho nên tiết Luyện từ và câu bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn so với trước. Tôi đã mạnh dạn thực hiện kinh nghiệm của mình trong các giờ Luyện từ và câu. Đầu năm học , khi mới bước vào học phân môn Luyện từ có và câu không ít học sinh lớp tôi rất sợ học phân môn này. Nhưng dần dần với sự động viên, dìu dắt của tôi, số lượng các em sợ học môn này ngày càng giảm dần. thay vào đó học sinh rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ Luyện từ và câu. Học sinh lớp tôi đã ý thức hơn trong các giờ học tập Luyện từ và câu, học sinh tự tin và hứng thú học tập. Chất lượng học tập của học sinh có chuyển biến rõ rệt. học sinh được bộc lộ kinh nghiệm, sự cảm nhận của cá nhân khi quan sát, học sinh đựơc tự do diễn đạt bằng sự lựa chon từ ngữ, mô hình câu của riêng mình. Giờ học hứng thú hơn bởi học sinh có động cơ nói ra, viết ra điều mình thấy, mình cảm nhận được. Đó chính là những động lực thúc đẩy tôi ngày càng nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này C.PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I.Kết luận Đứng trước vai trò,vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu cho HS Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp hai nói riêng, tôi thấy việc hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Luyện từ và câu là hết sức cần thiết . Học Tiếng Việt không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ ,về lý luận … mà quan trọng hơn là bồi dưỡng và phát triển 4 kĩ năng nghe, đọc, nói, viết của học sinh.. Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho HS trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt , một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy học Tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho học sinh một số những khái niệm hay quy tắc ngôn ngữ mà mục đích cuối cùng cần đạt đến lại là việc giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Học sinh không chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết một khối lượng lớn các từ ngữ tiếng việt, mà lại không có khả năng sử dụng hiểu biết ấy vào trong giao tiếp .Dạy Tiếng Việt cho các em, đặc biệt các lớp đầu bậc tiểu học, không phải chủ yếu là dạy “ Kĩ thuật “ ngôn ngữ mà dạy “ kĩ thuật” giao tiếp.Vậy dạy Tiếng gắn liền với hoạt động giao tiếp là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất giúp HS nắm vững các quy tắc sử dụng ấy.Vì thế, có thể dạy Tiếng chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mỗi một câu học sinh biết sử dụng từ ngữ thành thạo là một dịp để các em có thêm kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc sống văn hóa thường ngày.Vì vậy, giáo viên cần hết sức linh hoạt trong việc giảng dạy truyền kiến thức cho các em, để các em lĩnh hội kiến thức một cách sáng tạo, thoải mái mà không bị nhồi nhét, áp đặt. Để làm được điều này giáo viên phải linh hoạt trong mọi tiết dạy mà lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức lớp học sao cho đảm bảo tính vừa sức của học sinh tạo tiết học hứng thú và bổ ích. – Khi áp dụng các biện pháp trên vào dạy mở rộng vốn từ trong phân môn Luyện từ và câu, tôi nhận thấy các em không sợ học phân môn Luyện từ và câu nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trò chủ đạo trong tiết học.Tôi nghĩ rằng với biện pháp trên,không chỉ áp dụng ở lớp 2 mà các khối khác đều áp dụng được .Nếu người giáo viên biết vận dụng các biện pháp trên để tiến hành dạy trong giờ học, tôi nghĩ chất lượng giáo dục , hiệu quả quả giáo dục của môn Tiếng Việt cụ thể là phân môn Luyện từ và câu ngày càng tăng cao một cách rõ rệt. Các biện pháp đó tôi đã thực hiện trong giảng dạy, tôi thấy học sinh tiến bộ hẳn trong năm học. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm. Qua nghiên cứu thực trạng dạy học mở rộng vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2, tôi thấy việc rèn kĩ năng mở rộng vốn từ là vô cùng quan trọng. công việc này đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo song cũng cần kiên trì, chịu khó trong suốt quá trình giảng dạy Luyện từ và câu nói chung và dạy học sinh các môn học khác nói riêng. Việc dạy học sinh theo hướng nêu trên đã đem tới sự tiến bộ vượt bậc không chỉ riêng ở môn Luyện từ và câu mà trong giờ tập làm văn hay giờ kể chuyện thì ngôn ngữ của các em cũng sát thực và giàu hình ảnh hơn. Trên đây là kinh nghiệm của tôi nhằm làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh trong phân môn Luyện từ và câu nói riêng và chất lượng học Tiếng Việt ở tiểu học nói chung. Tôi sẽ tiếp tục áp dụng kinh nghiệm này để nâng cao khả năng học tốt phân môn Luyện từ và câu của học sinh. Song tôi rất mong muốn các bạn đồng nghiệp tìm tòi, sáng tạo ra những sáng kiến kinh nghiệm quý báu để góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy. II.Đề xuất và kiến nghị a.Đề nghị Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục Trang bị thêm tranh ảnh, mẫu vật băng hình có nội dung theo các bài học để giờ dạy đạt kết quả cao hơn. b. Đối với gia đình Tôi muốn đề xuất với gia đình học sinh-mỗi phụ huynh phải là tấm gương sáng cho con mình học tập. Gia đình phải sống chuẩn mực, hòa thuận trên kính dưới nhường, con cái lễ phép với cha mẹ, giao tiếp với mọi người phải tuân thủ đúng quy cách lịch sự, nhã nhặn. Phụ huynh cần quan tâm đến con cái nhiều hơn nữa, nhắc nhở con chăm chỉ học bài. Mua sắm đầy đủ thiết bị, đồ dùng cho các em. Đặc biệt phải thường xuyên liên lạc với nhà trường để cùng nhau giáo dục con em mình ngày một hoàn thiện hơn về đạo đức, học tập đạt kết quả tốt hơn. c..Đề xuất với ban giám hiệu Trong các kì thi giáo viên dạy giỏi nên khuyến khích giáo viên dạy Luyện từ và câu để trao đổi tìm ra phương pháp hay. -Nâng cao hiệu quả các giờ chuyên môn, khuyến khích giáo viên viết và báo cáo chuyên đề trao đổi kinh nghiệm về phương pháp dạy học, Rất mong Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Sáng kiến kinh nghiệmNâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu lớp 2I. LỜI GIỚI THIỆU: Môn Tiếng Việt có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học tập cũng như giao tiếp của các em. Môn Tiếng Việt giúp các em có các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết phục vụ cho việc học và giao tiếp; ngoài ra môn Tiếng Việt cung cấp cho các em vốn từ ngữ phong phú để các em sử dụng trong quá trình giao tiếp. Phân môn Luyện từ và câu là phân môn đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển ngôn ngữ của học sinh nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng, là chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con người. Hơn nữa, phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt, văn hóa, là công cụ giao tiếp tư duy và học tập. Đối với học sinh lớp 2, vốn từ của các em còn rất hạn chế, việc tìm hiểu và sử dụng từ còn lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn cần phải được bổ sung và phát triển để đáp ứng nhu cầu học tập và giao tiếp. Muốn nói hay viết giỏi đều phải dùng từ. Từ là vật liệu để cấu thành ngôn ngữ. Hiểu được nghĩa của từ đã khó, còn phải biết dùng từ như thế nào cho hợp văn cảnh, đúng ngữ pháp còn khó hơn. Cho nên, việc dạy cho học sinh nắm vững Tiếng Việt không thể không coi trọng việc dạy phân môn luyện từ và câu, đặt nền móng cho việc tiếp thu tốt các môn học khác ở các lớp học trên. Để dạy học luyện từ và câu ở lớp 2 có hiệu quả, không những đòi hỏi người thầy phải biết cách khai thác từ ngữ qua vốn sống của trẻ nhằm xây dựng hệ thống kiến thức trên cơ sở khai thác qua các câu có từ thuộc chủ đề nhằm bổ xung, củng cố, khắc sâu hệ thống kiến thức cho trẻ. Ngoài ra người giáo viên phải biết phối hợp một cách linh hoạt các phương pháp đặc trưng của môn học như phương pháp đóng vai, phương pháp thảo luận nhóm, hỏi đáp theo cặp, tổ chức trò chơi… để học sinh được thực sự tham gia xử lí các tình huống có vấn đề, lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả. Trờn thực tế, học sinh lớp 2 có vốn từ ngữ rất hạn chế và khả năng sử dụng chính xác các từ ngữ các em có được lại càng hạn chế hơn. Ngoài về từ ngữ, các em cũng khó khăn khi sử dụng và phân biệt các mẫu câu cũng gặp rất nhiều khó khăn. Là Giáo viên dạy lớp 2 lâu năm, học sinh là con em vùng nông thôn nên tôi thấy vốn từ của các em cũng ít và khả năng sử dụng từ, câu lại gặp rất nhiều khó khăn hơn; trong các bài kiểm tra điểm số của phần Luyện từ và câu của các em cũng thấp, kéo theo phần Tập làm văn của các em cũng bị hạn chế trong cách viết câu, dựng từ. Với mong muốn giúp học sinh tăng thêm vốn từ, tăng khả năng sử dụng từ, câu trong học tập và giao tiếp, tôi đó lựa chọn viết đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học Phân môn Luyện từ và câu lớp 2” để cùng các bạn đồng nghiệp trao đổi thảo luận. Từ đó, giúp học sinh học Phân môn Luyện từ và câu một cách hiệu quả nhất. II. TÊN SÁNG KIẾN: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học Phân môn Luyện từ và câu lớp 2” III. TÁC GIẢ - Họ và tên: ……………………………………………………………… - Địa chỉ tác giả sáng kiến:……………………………………………… - Số điện thoại: …………………………………………………………... IV. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG KIẾN: Chủ đầu tư : ……………………………………………… V. LĨNH VỰC SÁNG KIẾN Sáng kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và bổ sung vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết cho bản thân. Từ đó giúp cho học sinh thực hiện bài thực hành trên lớp nhanh hơn, đạt hiệu quả học tập tốt hơn. Lĩnh vực sư phạm áp dụng vào giảng dạy phân môn: Luyện từ và câu. VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG Tôi có kế hoạch áp dụng đề tài này vào phần dạy – học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 của năm học ...........– ........... và ........... - ............ Nếu kết quả khả quan thì tiếp tục áp dụng cho những năm học tiếp theo ( có bổ sung). VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIÊN - Về nội dung của sáng kiến 1. Mục đích: Xây dựng một số biện pháp dạy – học cho Phân môn Luyện từ và câu từ đó cải thiện chất lượng dạy và học của thầy và trò trường Tiểu học Gia Sàng – TP Thái Nguyên. Trong giờ học Luyện từ và câu nói chung và Luyện từ và câu lớp 2 nói riêng. 1.1. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp khảo sát: tôi dùng phương pháp khảo sát để kiểm tra tính khả thi của đề tài. - Phương pháp thực nghiệm: tôi lấy Phương pháp và cách tổ chức dạy học Luyện từ và câu làm đối tượng nghiên cứu và học sinh lớp 2 trường Tiểu học............... là đối tượng thực nghiệm. - Phương pháp tổng hợp tài liệu: tôi nghiên cứu các tài liệu khác nhau có liên quan đến các lĩnh vực của đề tài. - Phương pháp thống kê: tôi thống kê những số liệu thu được chính xác để từ đó phân tích, đánh giá rút ra kết luận. - Phương pháp điều tra: đối tượng điều tra là giáo viên trực tiếp giảng dạy và học sinh lớp 2. Ngoài ra tôi còn sử dụng nhiều phương pháp - Về khả năng áp dụng của sáng kiến 1.2. giới hạn của sáng kiến Do giới hạn về thời gian tôi chỉ tập trung tìm hiểu về các phương pháp dạy học Luyện từ và câu Lớp 2. Do giới hạn về thời gian tôi chỉ tập trung tìm hiểu về các phương pháp dạy học Luyện từ và câu Lớp 2. 2. Mô tả bản chất của sáng kiến. 2.1.Cơ sở lý luận Con người dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng cần có vốn kiến thức cơ bản về từ và câu để học tập và giao tiếp. Bậc tiểu học là bậc học đầu tiên cung cấp cho con người những kiến thức cơ bản đó. Chính vì vậy Phân môn Luyện từ và câu chiếm giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành những kiến thức - kĩ năng cơ bản cho mỗi người. * Mục tiêu của Phân môn Luyện từ và câu lớp 2 là: Mở rộng vốn từ theo chủ điểm,củng cố hiểu biết về các kiểu câu (thông qua các mô hình) và thành phần câu (thông qua các câu hỏi) đã học ở lớp 2. Cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về các phép tu từ so sánh và nhân hóa (thông qua các bài tập). Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng một số dấu câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu; có ý thức sử dụng Tiếng việt văn hóa trong giao tiếp và thích học tiếng Việt. * Vị trí của phân môn Luyện từ và câu Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện chức năng giao tiếp. Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học. Việc dạy luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hoá làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời giúp cho HS có khả năng hiểu các câu nói của người khác. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của các em. ............... Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết |