Soạn bài chuyện người con gái nam xương thể loại

Chuyện người con gái nam xương – soạn bài là nội dung tìm hiểu của chúng ta ngày hôm nay. Truyện kể về nàng Vũ Thị Thiết xinh đẹp, hiền hậu nết na nhưng phải chịu số phận oan nghiệt bởi chế độ nam quyền và những định kiến nghiệt ngã của xã hội xưa đối với người phụ nữ.

Tác giả Nguyễn Dữ được coi là “cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam”. Ông sáng tác không nhiều nhưng chỉ với tập “Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Dữ đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trong nền văn học trung đại Việt Nam, đặc biệt trong thể truyền kì. Một trong những tác phẩm đặc sắc nhất trong “Truyền kì mạn lục” có thể kể đến là truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”. Hãy cùng KienGuru đi sâu và khai thác kĩ hơn nhé !

I. KIẾN THỨC PHỤC VỤ SOẠN BÀI “CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG”

Trước khi đi vào chi tiết soạn bài “chuyện người con gái Nam Xương”, chúng ta cần bắt đầu bằng những kiến thức khái quát nhất từ tác giả đến những nội dung bao quát toàn bài để có cái nhìn tổng quan hơn đối với tác giả và tác phẩm.

1 – Tác giả

a. Tiểu sử tác giả Nguyễn Dữ

– Nguyễn Dữ – có sách phiên âm là Nguyễn Tự (chưa rõ năm sinh – năm mất).

– Người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

– Ông là học trò của Tuyết Giang Phu Tử – Nguyễn Bỉnh Khiêm.

– Ông sống ở thế kỉ XVI là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc Trịnh tranh giành quyền bính, gây ra các cuộc nội chiến kéo dài.

– Nguyễn Dữ là một người học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan có một năm rồi xin về quê nuôi mẹ già và viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời khác.

Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, ông làm quan nhưng mới được vài năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa.

b. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Dữ

  • Sáng tác duy nhất của ông là quyển Truyền kỳ mạn lục (Ghi chép tản mạn những chuyện kỳ lạ được lưu truyền). Sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi chuyện đều có lời bình của tác giả hoặc của một người có cùng quan điểm của tác giả.

Truyền kỳ mạn lục vừa có giá trị hiện thực và nhân đạo cao, vừa là một tuyệt tác của thể loại truyền kì. Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và được đánh giá cao trong số các tác phẩm truyền kì ở các nước đồng văn.

2 – Tác phẩm

a. Xuất xứ

– “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền kì mạn lục”.

– Truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những chuyện kỳ lạ được lưu truyền ) là tác phẩm được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm này có chịu ảnh hưởng của truyện truyền kỳ Trung Quốc – một thể loại truyện thường có yếu tố kỳ lạ, hoang đường. Nhưng điểm khác là Nguyễn Dữ đã biết khai thác các truyện cổ dân gian, các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam để sáng tạo ra tác phẩm của mình.

– Nhân vật chính của truyện thường là những người phụ nữ bất hạnh, khao khát hạnh phúc nhưng bị các thế lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt xô đẩy vào hoàn cảnh éo le, oan khuất và bất hạnh.

b. Tóm tắt

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp nên được Trương Sinh đem lòng yêu mến liền xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Biết chồng có tính đa nghi nên, Vũ Nương hết mực giữ gìn khuôn phép. Bấy giờ, đất nước có chiến tranh, Trương Sinh phải lên đường đi lính. Vũ Nương ở nhà sinh nuôi dạy con và chăm sóc mẹ già, lo ma chay chu đáo khi mẹ chồng mất. Khi Trương Sinh trở về, bế con ra mộ thăm mẹ thì hiểu lầm rằng vợ có người khác. Vũ Nương chịu oan khuất biết không thể rửa sạch liền nhảy xuống sông tự vẫn. Một đêm nọ, Trương Sinh bế con ngồi trước ngọn đèn, thấy đứa bé chỉ vào cái bóng mình bảo đấy là cha mới nhận ra mình đã hiểu lầm vợ, hối hận cũng đã muộn. Cùng làng có người tên là Phan Lan vì cứu Linh Phi trước đó nên khi gặp nạn chết đuối đã được Linh Phi cứu sống, tình cờ gặp Vũ Nương ở thủy cung. Phan Lang trở về trần gian Vũ Nương gửi theo chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh. Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Hoàng Giang. Vũ Nương hiện ra giữa dòng ngồi trên chiếc kiệu hoa đa tạ chàng rồi biến mất.

c. Ý nghĩa nhan đề

“Truyền kì mạn lục” bao gồm 20 truyện. Đa số các chuyện đều được bắt đầu bằng chữ “chuyện” hay “câu chuyện” và “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Nhưng đây không phải là một yếu tố thừa mà qua đó người đọc hiểu được đây là câu chuyện kể về một người con gái ở Nam Xương. Đưa cụm từ “người con gái” lên nhan đề của tác phẩm, Nguyễn Dữ muốn cho người đọc thấy được nhân vật trung tâm của truyện là một người phụ nữ.

Tuy nhiên, nhà văn lại đặt một cách phiếm chỉ “người con gái Nam Xương” chứ không phải là “Chuyện người con gái Vũ Nương” hay “Chuyện người con gái Vũ Thị Thiết” nhằm khẳng định đây không phải là câu chuyện của riêng Vũ Nương. Mà còn là câu chuyện chung của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Cuộc đời của nàng Vũ Nương chỉ là đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Qua nhân vật này, nhà văn cũng gửi gắm những giá trị nhân đạo cao quý. Đầu tiên là sự trân trọng đối với những ước mơ chính đáng, khát vọng cao đẹp như: khát vọng được hạnh phúc, ước mơ về sự công bằng trong xã hội. Tiếp theo là niềm xót thương, cảm thông sâu sắc của tác giả đối với số phận của người phụ nữ. Không chỉ vậy, nhà văn cũng lên án, phê phán, tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người. Cuối cùng là lời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Đây quả là một nhan đề có tính khái quát cao.

II. HƯỚNG DẪN SOẠN “CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG” NGẮN GỌN

Sau khi đã nắm được sơ lược về tác phẩm cũng như hiểu được con người và cuộc đời tác giả, mời các bạn cùng với KienGuru đi sâu hơn vào cuộc đời của Vũ Nương và tài năng của tác giả qua những câu hỏi sau nhé !

1 – Câu 1 trang 51 sgk

Tìm bố cục của truyện

Trả lời:

Phần 1: Từ đầu…cha mẹ đẻ mình => Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh, phẩm hạnh của Vũ Nương trong thời gian xa cách

Phần 2: Tiếp …đã qua rồi => Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương

Phần 3: Còn lại => Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương, Vũ Nương được giải oan.

2 – Câu 2 trang 51 sgk

Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Ở mỗi hoàn cảnh, Vũ Nương lại bộc lộ những đức tính tốt đẹp.

Trả lời:

  • Trong cuộc sống vợ chồng thường ngày:

Giữ gìn khuôn phép

Không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa

=>Vũ Nương có cách cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn hạnh phúc gia đình.

Khi tiễn chồng đi lính:

Hành động: Rót chén rượu đầy mà rằng

Lời nói: Chàng đi chuyến này, tiếp chẳng giám mong đeo được ấn phong hầu,…cánh hồng bay bổng”.

=>Biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao của chồng. Lời nói chân thành, thiết tha, thắm đượm tình nghĩa vợ chồng.

Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.

Khi mẹ chồng ốm: nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngon ngọt khôn khéo khuyên lơn.

Khi mẹ chồng chết: nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.

-> Vũ Nương là người vợ thuỷ chung, yêu chồng tha thiết; là người mẹ hiền, người con dâu chu đáo, hiếu thảo.

Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Vũ Nương nói đến tình nghĩa vợ chồng, khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Lúc bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đành mượn dòng nước sông quê để chứng minh tấm lòng trong trắng. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự.

Tóm lại, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, và cũng là người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo.

3 – Câu 3 trang 51 sgk

Trả lời:

Vũ Nương phải chịu đựng nỗi oan khuất vì hai nguyên nhân chính:

Thứ nhất, do Trương Sinh quá đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán. Trương Sinh đã không cho Vũ Nương cơ hội trình bày, thanh minh, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, nhất quyết không nói ra duyên cớ để có cơ hội minh oan, mắng nhiếc và đuổi nàng đi.

Thứ hai. do xã hội phong kiến – Một xã hội gây ra bao bất công ấy, thân phận người phụ nữ thật bấp bênh, mong manh, bi thảm. Họ không được bênh vực chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, …

=> Từ đó ta thấy được thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Mặc dù, họ luôn thủy chung, son sắt, tần tảo và đầy đức hi sinh nhưng với xã hội trọng nam khinh nữ thời bấy giờ đã khiến cho người phụ nữ không được chở che, bảo vệ. Bi kịch này cũng là lời tố cáo chiến tranh. Tác phẩm bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ thời xưa.

4 – Câu 4 trang 51 sgk

Hãy nêu nhận xét về cách dẫn tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật và lời đối đáp trong truyện.

Trả lời:

Cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện tạo kịch tính, lôi cuốn. Từ những chi tiết hé mở, chuẩn bị thắt nút đến khi nút thắt ngày một chặt hơn đã tạo cho truyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Trương Sinh ít học, đa nghi. Chi tiết “Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” là một chi tiết cài đặt sẵn, một chi tiết quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Trương Sinh tin vào lời nói hồn nhiên của con trỏ một cách vội vàng, không suy xét trước sau. Vốn sẵn có tính hay ghen và nghi ngờ nên càng khiến Trương Sinh tin là có thật. Chàng đã không cho vợ có cơ hội thanh minh. Tình huống bất ngờ và cũng rất khó thanh minh cho Vũ Nương. Nàng chỉ còn cách giải oan duy nhất là tìm đến cái chết. Lời nói hồn nhiên của đứa trẻ đã gây ra mối nghi ngờ của Trương Sinh,và cũng chính đứa trẻ sau này đã giải mối nghi ngờ đó một cách tình cờ và dễ dàng. Trương Sinh tỉnh ngộ thì đã muộn. Tình tiết trong câu chuyện diễn ra một cách tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn.

Những đoạn đối thoại, độc thoại của nhân vật được sắp xếp rất đúng chỗ, làm cho câu chuyện kể trở nên sinh động, góp phần khắc họa tâm lý nhân vật, tính cách nhân vật . Tuy những yếu tố đối thoại mới chỉ mức sơ khai, ban đầu, nhưng nó đã làm cho nhân vật có tiếng nói. Những lời độc thoại dài góp phần khẳng định những phẩm chất tốt đẹp và làm bộc lộ tính cách của nhân vật. Đoạn đối thoại giữa đứa con và Trương Sinh vừa đẩy truyện lên cao trào, vừa cởi nút câu chuyện.

5 – Câu 5 trang 51 sgk

Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện. Đưa những yếu tố kì ảo…

Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện. Đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, tác giả nhằm thể hiện điều gì?

Trả lời:

Những yếu tố kì ảo trong truyện:

Phan Lang nằm mộng, thả rùa xanh.

Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được Linh Phi cứu sống, đãi yến tiệc và gặp Vũ Nương….

Hình ảnh Vũ Nương xuất hiện khi Trương Sinh lập đàn tràng giải oan.

=> Nguyễn Dữ đã sử dụng cách đưa yếu tố truyền kì vào câu chuyện kết hợp với các yếu tố tả thực để tạo hiệu quả nghệ thuật về tính chân thực của truyện. Ngoài ra, đưa những yếu tố kì ảo vào truyện, tác giả còn muốn mở rộng phạm vi hiện thực, tạo ra cơ sở để minh oan cho Vũ Nương, khẳng định lòng trong trắng của nàng Đồng thời tạo ra một thế giới ước mơ, khát vọng của nhân dân về sự công bằng, bác ái. Một lần nữa tác giả muốn tố cáo chế độ phong kiến hà khắc đà không có chỗ cho người phụ nữ đẹp người, đẹp nết như Vũ Nương.

III. LUYỆN TẬP

Qua hai đầu mục lớn bên trên, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu những kiến thức cơ bản, cũng như những câu hỏi hướng dẫn để có thể dễ dàng hơn trong việc triển khai những nội dung chính trong bài. Vậy thì sau đây, để tổng kết lại các kiến thức ấy, xin mời các bạn hãy cùng KienGuru làm một bài luyện tập nho nhỏ nhé !

Hãy kể lại chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em.

Bài làm

Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương xinh đẹp, nết na. Trương Sinh cùng làng, mến vì dung hạnh, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết tính chồng đa nghi, nàng giữ gìn khuôn phép không để xảy ra bất hòa.

Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải tòng quân đi đánh giặc Chiêm. Trong buổi tiễn đưa, Vũ Nương rót chén rượu đầy đưa cho chồng và nói chỉ mong ngày chồng trở về mang theo hai chữ bình yên.

Chồng ra lính được một tuần thì Vũ Nương sinh được đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm đã trôi qua, bà mẹ chồng già yếu, buồn lo rồi đau ốm. Nàng hết lòng săn sóc cơm cháo thuốc thang, ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Bệnh mỗi ngày một nặng, mẹ chồng qua đời, nàng vô cùng thương xót, mọi việc ma chay tế lễ, nàng lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.

Qua năm sau giặc tan, Trương Sinh được trở lại nhà, con vừa học nói. Chàng bế con đi thăm mồ mẹ, đứa trẻ không chịu và quấy khóc. Nghe Sinh dỗ dành, con ngây thơ nói: “Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói. Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Nghe Sinh gạn hỏi, đứa bé lại nói: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Vốn có tính ghen, nghe con nói, Trương Sinh đinh ninh là vợ hư. Chàng la um lên cho hả giận. Vợ khóc lóc phân trần, chàng càng mắng nhiếc đánh đuổi đi. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than, mong thần sông linh thiêng chứng giám. Nàng nguyền, nếu đoan trang, trinh bạch xin được làm ngọc Mị Nương, làm cỏ Ngu mĩ; nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con thì xin làm mồi cho tôm cá, làm cơm cho diều quạ…

Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử. Chẳng bao lâu sau, một đêm vắng vẻ, ngồi dưới đèn khuya, bỗng đứa con chỉ chiếc bóng in lên vách mà nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa”. Lúc bấy giờ Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ.

Lại nói chuyện Phan Lang người cùng làng, làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang. Một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh, Phan chợt nghĩ đến chuyện mộng bèn đem thả con rùa ấy. Chẳng bao lâu sau, dưới thời Khai Đại nhà Hồ, giặc Minh sang cướp nước ta. Nhiều người sợ hãi chạy trốn, thuyền bè bị đắm, chết đuối đầy sông, trong đó có Phan Lang, xác dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi là vợ vua Nam Hải chợt nhìn thấy, bèn nói: “Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa”. Linh Phi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, một chốc sau Phan Lang hồi sinh.

Linh Phi rước Phan Lang vào cung nước, mở tiệc lớn ở gác Triêu Dương để đãi ân nhân. Trong bữa tiệc có nhiều mỹ nhân, áo quần thướt tha, tóc búi xễ, trong đó có một người chỉ điểm qua son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người đàn bà ấy đến gặp Phan Lang. Vũ Nương nói lại tình cảnh mình được các nàng tiên trong cung nước thương tình mà cứu sống. Nghe Phan nhắc lại cố hương, mồ mả tiền nhân,… Vũ Nương khóc…

Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng 10 hạt minh châu, sai sứ Xích Hỗn đưa Phan Lang ra khỏi nước. Vũ Nương cũng gửi Phan chiếc hoa vàng đưa về cho Trương Sinh và dặn lập đàn giải oan, đốt cây đèn thần trên bến Hoàng Giang thì nàng sẽ trở về.

Nhận được chiếc hoa vàng, Trương Sinh thốt lên: “Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi…”. Sinh làm đàn tràng, đốt cây đèn thần ba ngày đêm trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương đã hiện về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa, theo sau có 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông.”Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa…”, tiếng Vũ Nương vọng vào, bóng nàng loang loáng mờ dần rồi biến mất.

IV. TỔNG KẾT

Giá trị nội dung

– Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam

– Niềm cảm thương cho số phận bi kịch của người phụ nữ đồng thời lên án các lễ giáo phong kiến, các hủ tục hà khắc trong xã hội đương thời.

Giá trị nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết chiếc bóng → tạo nên tính bất ngờ, tăng thêm tính bi kịch.

– Xây dựng nhân vật (qua lời nói, hành động)

– Sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ, yếu tố kỳ ảo.

Kết luận

Trên đây là phần hướng dẫn chi tiết soạn bài Chuyện người con gái nam xương với đầy đủ nội dung và nghệ thuật. Hi vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn học sinh trong quá trình học tập.

Ngoài ra, các bạn có thể theo dõi nhiều hơn các chủ đề bổ trợ học tập môn ngữ văn của Kiến Guru để đón nhận thêm nhiều tri thức, tài liệu bổ ích nhé. Chúc bạn sẽ tự học tốt và có thành tích cao trong học tập!