Sống núi ngầm Đại Tây Dương được hình thành như thế nào

Sống núi ngầm Đại Tây Dương được hình thành như thế nào
Đại Tây Dương trên bản đồ quốc tế

Đại Tây Dương (chữ Hán: 大西洋) là đại dương lớn thứ 2 trên Trái Đất và chiếm khoảng 1/5 diện tích hành tinh với tổng diện tích khoảng 106.400.000 km²[4], được bao quanh bởi châu Mỹ về phía Tây, châu Âu, châu Phi và một phần của châu Á (giáp với các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Lebanon, Israel và đảo Síp qua biển Địa Trung Hải) về phía Đông. Đại Tây Dương có bề rộng từ Đông sang Tây khoảng 9.600 km mỗi năm lại dang rộng thêm 2– 3 cm.

Vị trí địa lý[sửa|sửa mã nguồn]

Đại Tây Dương được nối liền với Thái Bình Dương bởi Bắc Băng Dương về phía Bắc và hành lang Drake về phía Nam. Đại tây dương còn ăn thông với Thái bình dương qua một công trình nhân tạo là kênh đào Panama, và được ngăn với Ấn Độ Dương bởi kinh tuyến 20 độ Đông. Nó được ngăn cách với Bắc Băng Dương bởi một đường kéo dài từ Greenland đến Tây bắc của Iceland và từ phía Đông bắc của Iceland đến cực Nam của Spitsbergen và North Cape về phía Bắc của Na Uy.
Đại Tây Dương có hình chữ S kéo dài từ Bắc xuống Nam và được chia ra làm hai phần: Bắc và Nam Đại Tây Dương bởi dòng nước ngược vùng xích đạo vào khoảng 8 vĩ độ Bắc.

Bạn đang đọc: Đại Tây Dương – Wikipedia tiếng Việt

Sống núi ngầm Đại Tây Dương được hình thành như thế nào
Màu trên bản đồ bộc lộ độ sâu của đại dươngCác địa hình cơ bản của đại dương này là sống núi giữa đại dương có tên là sống núi giữa Đại Tây Dương. [ 5 ] Nó lê dài từ Iceland ở phía bắc đến khoảng chừng 58 ° Nam, với chiều rộng tối đa khoảng chừng 860 hải lý ( 1.590 km ; 990 mi ). Một thung lũng tách giãn cũng lê dài dọc theo sống núi với chiều dài gần bằng sống núi. Độ sâu của vùng nước ở đỉnh núi là nhỏ hơn 2.700 mét ( 1.500 sải ; 8.900 ft ) ở nhiều nơi, trong khi chân sóng núi thì sâu gấp 3 lần. Một số đỉnh núi nhô cao khỏi mặt nước tạo thành những hòn đảo. [ 6 ] Đại Tây Dương có một sống núi ngầm khác là sống núi Walvis. [ 7 ]Sống núi giữa Đại Tây Dương chia Đại Tây Dương thành hai rãnh lớn với độ sâu từ 3.700 – 5.500 mét ( 2.000 – 3.000 sải ; 12.100 – 18.000 ft ). Các sống nằm ngang tho hướng giữa những lục địa và sống núi giữa Đại Tây Dương chia đáy đại dương thành một số ít bồn đại dương. Một số bòn lớn hơn là Blake, Guiana, Bắc Mỹ, Cabo Verde, và Canaries ở Bắc Đại Tây Dương. Các bồn lớn nhất ở Nam Đại Tây Dương là Angola, Cape, Argentina, và Brazil .Đáy dại dương được cho là tương đối phẳng phiu gồm có những đồng bằng biển thẳm, rãnh, núi dưới biển, bồn đại dương, cao nguyên, hẻm vực ngầm, và núi đỉnh bằng dưới biển. Nhiều thềm chạy dọc theo những rìa lục địa chiếm khoảng chừng 11 % địa hình đáy với 1 số ít hẻm vực sâu cắt qua chân lục địa .Các núi và rãnh dưới đáy biển :

Các trầm tích biển gồm:

Xem thêm: Bản đồ Hành chính tỉnh Sóc Trăng & Thông tin quy hoạch 2022

  • Các trầm tích lục địa, như cát, bùn, và các hạt đá được tạo ra bởi quá trình xói mòn, phong hóa và hoạt động núi lửa trên đấn liền và được đẩy ra biển. Các vật liệu này được tìm thấy chủ yếu trên các thềm lục địa và có bề dày lớn nhất ở gần cửa sông và các bờ biển.
  • Các trầm tích biển sâu chứa các vật liệu còn sót lại của các sinh vật lắng đọng xuống đáy biển như sét đỏ và Globigerinida, pteropod, và bùn silic. Phủ hầu hết đáy đại dương và có bề dày thay đổi từ 60–3.300 mét (33–1.804 sải; 200–10.830 ft) các trầm tích này dày ở các đai hội tụ, nổi bật là sống núi Hamilton và các đới nước dâng.
  • Các trầm tích Authigenic bao gồm các vật liêu như kết hạch namgan. Chúng xuất hiện ở những nơi mà quá trình lắng đọng trầm tích rất chậm hoặc nơi các dòng chảy chọn lọc các vật liệu trầm tích như trong Hewett Curve.

Sống núi ngầm Đại Tây Dương được hình thành như thế nào
Đường đi của dòng hoàn lưu muối nhiệt. Các đường màu tím là những dòng hải lưu dưới sâu, còn những đường màu xanh là những dòng hải lưu trên mặt .
Sống núi ngầm Đại Tây Dương được hình thành như thế nào
Bản đồ 5 dòng hoàn lưu đại dương chínhTính trung bình, Đại Tây Dương có độ mặn lớn nhất trong 5 đại dương ; độ mặn nước trên mặt trong những đại dương mở nằm trong dãi từ 33 đến 37 ‰ và biến hóa theo mùa và vĩ độ. Độ bốc hơi, giáng thủy, dòng chảy ra từ sông, và băng tan trong biển tác động ảnh hưởng đến độ mặn. Mặc dù những giá trị độ mặn thấp nhất chỉ ở gần phía bắc của xích đạo ( do lượng mưa cao ở vùng nhiệt đới gió mùa ), nhìn chung những giá trị thấp nhất cũng Open ở những vĩ độ cao và dọc theo những bờ biển có những con sông lớn đổ ra. Độ măn cao nhất gặp ở khoảng chừng 25 ° vĩ Bắc và Nam, ở những khu vực cận nhiệt đới vời lượng mưa thấp và bốc hơi cao .Nhiệt độ mặt phẳng đổi khác theo vĩ độ, mạng lưới hệ thống dòng hải lưu và mùa và phản ảnh sự phân bổ nguồn năng lượng mặt trời theo vĩ độ, đổi khác dưới − 2 °C ( 28 °F ). Nhiệt độ cao nhất gặp ở phía bắc xích đạo và thấp nhất ở gần những vùng cực. Ở những vĩ độ trung bình, khu vực có nhiệt độ cao nhất giao động trong khoảng chừng 7 – 8 °C ( 44.6 – 46.4 °F ) .

Các biển trong Đại Tây Dương[sửa|sửa mã nguồn]

Đại Tây Dương có một bờ biển khúc khuỷu với rất nhiều vịnh và biển như:

Xem thêm: Bản đồ Hành chính tỉnh Cà Mau & Thông tin quy hoạch 2022

Các thay máu chính quyền[sửa|sửa mã nguồn]

Các yếu tố thiên nhiên và môi trường[sửa|sửa mã nguồn]

Ô nhiễm biển[sửa|sửa mã nguồn]

Ô nhiễm biển là một thuật ngữ được dùng để chỉ những chất thải vào đại dương gồm những hóa chất và những chất dạng hạt. Nguồn gây ô nhiễm lớn nhất là từ những con sông, chúng mang những chất từ phân bón của hoạt động giải trí nông nghiệp cũng như những chất thải từ con người. Sự vượt ngưỡng của những chất hóa học làm giảm lượng oxy dẫn đến tìn trạng thiếu oxy và tạo ra và vùng sinh thái xanh chết. [ 9 ]

Ranh giới với những vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ[sửa|sửa mã nguồn]

Các vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ có bờ biển thuộc Đại Tây Dương gồm :

Trung và Bắc Mỹ[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

SỐNG NÚI GIỮA ĐẠI DƯƠNGTóm tắt: Sống núi giữa đại dương là một dãy núi nằm dưới nước, có một thunglũng đặc biệt gọi là một rift chạy dọc theo xương sống của nó, hình thành bởi hoạtđộng kiến tạo mảng. Đây là kiểu sống núi đại dương mang đặc điểm của một trungtâm tách giãn đại dương, hay còn gọi là tách giãn đáy đại dương. Các sống núi giữađại dương trên thế giới được kết nối với nhau và tạo thành một hệ thống sống núi giữađại dương toàn cầu riêng lẻ là một phần của mỗi đại dương, làm cho hệ thống này làcác dãy núi dài nhất thế giới. Sinh khoáng liên quan đến hoạt động kiến tạo tách giãncó thể chia ra làm 2 phần. Sinh khoáng ngoại sinh và sinh khoáng nội sinh.I. MỞ ĐẦUCác phát hiện vào những năm 1960, đặc biệt là về sống núi giữa Đại TâyDương được nêu trong bài báo của nhà địa chất người Mỹ, Harry Hammond Hess(Robert S. Dietz cũng công bố ý tưởng tương tự một năm trước đó trong tạp chíNature. Tuy nhiên, độ ưu tiên thuộc về Hess, do ông đã phân phát bản thảo không côngbố của mình vào năm 1960) xuất bản năm 1962. Hess đề nghị rằng thay vì các lục địachuyển động xuyên qua vỏ đại dương (theo thuyết trôi dạt lục địa) thì bồn địa đạidương cùng với lục địa cận kề nó chuyển động trên cùng một đơn vị vỏ hay mảng.Cũng trong năm này, Robert R. Coats thuộc Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ mô tả cácyếu tố chính của cung đảo hút chìm trên quần đảo Aleutia. Bài báo của ông ít được chúý vào thời điểm đó (thậm chí bị nhạo báng), đã được gọi là "phôi thai" và "tiên tri".Năm 1967, W. Jason Morgan đề xuất rằng bề mặt trái đất gồm có 12 mảng cứngchuyển động tương đối với nhau. Hai tháng sau, năm 1968, Xavier Le Pichon xuất bảnmột mô hình hoàn hảo dựa trên 6 mảng chính với sự chuyển động tương đối củachúng.Hình 1: Sống núi đại dươngHình 2: Phân bố các sống núi giữa đại dương trên thế giới; USGSTách giãn đáy đại dương xuất hiện ở các sống núi giữa đại dương, nơi mà vỏđại dương mới được hình thành bởi các hoạt động núi lửa và sau đó chúng chuyểnđộng từ từ ra xa sống núi. Tách giãn đáy đại dương giúp giải thích quá trình trôi dạtlục địa trong học thuyết kiến tạo mảng.Kết quả của hoạt động tách giãn này là việc hình thành các sống núi giữa đạidương.Sống núi giữa đại dương là một dãy núi nằm dưới nước, có một thung lũng đặcbiệt gọi là một rift chạy dọc theo xương sống của nó, hình thành bởi hoạt động kiếntạo mảng. Đây là kiểu sống núi đại dương mang đặc điểm của một trung tâm tách giãnđại dương, hay còn gọi là tách giãn đáy đại dương. Đáy biển được nâng lên là kết quảcủa các dòng đối lưu dâng lên từ manti ở dạng macma ở vùng yếu (mỏng) dạng tuyếntrong vỏ đại dương và chảy tràn trên đáy đại dương ở dạng dung nham, tạo ra vỏ mớibởi sự đông đặc. Một sống núi giữa đại dương là một ranh giới giữa hai mảng kiến tạo,và thường được gọi là ranh giới mảng phân kỳ.Các sống núi giữa đại dương trên thế giới được kết nối với nhau và tạo thànhmột hệ thống sống núi giữa đại dương toàn cầu riêng lẻ là một phần của mỗi đạidương, làm cho hệ thống này là các dãy núi dài nhất thế giới. Các dãy núi này dàikhoảng 65000 km và tổng độ dài của hệ thống này vào khoảng 80000 km.Danh sách các sống núi đại dương•Đới nâng Chile•Sống núi Cocos•Đới nâng Đông Thái Bình Dương•Sống núi Explorer•Sống núi Gakkel (Sống núi giữa Bắc Băng Dương)•Sống núi Gorda•Sống núi Juan de Fuca•Sống núi giữa Đại Tây Dương•Sống núi Thái Bình Dương - Nam Cực•Sống núi Reykjanes•Sống núi trung tâm Ấn Độ Dương•Sống núi Đông Nam Ấn Độ Dương•Sống núi Tây Nam Ấn Độ DươngDanh sách các sống núi cổ•Sống núi Phoenix•Sống núi Izanagi•Sống núi Kula-Farallon•Sống núi Thái Bình Dương-Kula•Sống núi Thái Bình Dương-Farallon•Sống núi Bellingshausen•Sống núi AegirTrong danh sách các sống núi trên thì đáng chú ý nhất là sống núi giữa Đại TâyDương, đây là ranh giới mảng tách giãn chạy giữa đáy của Đại Tây Dương, và là dãynúi dài nhất trên thế giới. Nó chia tách mảng Á-Âu với mảng Bắc Mỹ ở phía Bắc ĐạiTây Dương, và mảng châu Phi với mảng Nam Mỹ ở phía Nam Đại Tây Dương. Sốngnúi này kéo dài từ điểm nối ba với sống núi Gakkel (sống núi giữa Bắc Băng Dương)phía đông nam Greenland về phía nam đến nối ba Bouvet ở Nam Đại Tây Dương. Mặcdù sống núi giữa Đại Tây Dương hầu hết nằm dưới nước, một phần trong đó có thể caohơn mực nước biển. Các phần của sống núi bao gồm quần đảo Iceland hay còn đượcgọi là sống núi Reykjanes.Dãy núi dưới Đại Tây Dương lần đầu tiên được MatthewFontaine Maury nói đến vào năm 1850. Dãy núi này được phát hiện trong quá trìnhthám hiểm của HMS Challenger vào năm 1872. Một nhóm các nhà khoa học trên tàuvới sự dẫn đầu của Charles Wyville Thomson, đã pháp hiện một đới nâng lớn nằmgiữa Đại Tây Dương trong khi thăm dò địa hình để đặt cáp viễn thông xuyên Đại TâyDương. Sự tồn tại của một sống núi như thế đã được xác nhận bởi tàu ngầm của HoaKỳ năm 1925. Vào thập niên 1950, bản đồ đáy đại dương trên Trái Đất được thành lậpbởi Bruce Heezen, Maurice Ewing, Marie Tharp và những người khác, cho thấy rằngsống núi giữa Đại Tây Dương có địa hình đáy biển rất kỳ lạ bao gồm các thung lũngvà các dãy núi, với thung lũng trung tâm có hoạt động địa chấn và là chấn tâm củamột số trận động đất. Ewing và Heezen đã phát hiện rằng sống núi là một phần trongtổng số 40.000 km của hệ thống các sống núi giữa đại dương kéo dài liên tục trên đáycủa tất cả các đại dương trên Trái Đất. Việc phát hiện ra hệ thống sống núi toàn cầudẫn đến học thuyết tách giãn đáy biển và sự chấp nhận một cách tổng quát về họcthuyết trôi dạt lục địa của Alfred Wegener.II. CÁC ĐIỂM ĐẶC BIỆT DỌC THEO SỐNG NÚISống núi giữa Đại Tây Dương bao gồm cả thung lũng tách giãn nằm dưới sâuchạy dọc theo trũng của sống núi và hầu như chạy dọc theo toàn chiều dài của sốngnúi. Thung lũng này đánh dấu một ranh giới hiển nhiên giữa các mảng kiến tạo, nơi màmacma từ dưới quyển manti tràn lên bề mặt đáy biển và phun trào ở dạng dung nhamđể tạo thành các vật liệu vỏ mới của các mảng.Ở gần xích đạo, sống núi giữa Đại Tây Dương bị cắt ra thành sống núi Bắc ĐạiTây Dương và sống núi Nam Đại Tây Dương bởi rãnh Romanche, đó là một rãnh đạidương hẹp với độ sâu tối đa là 7,758 m (25,453 ft), là một trong những vị trí sâu nhấtcủa Đại Tây Dương. Tuy nhiên, rãnh này không liên quan gì đến ranh giới giữa cácmảng Bắc Mỹ và Nam Mỹ, cũng như các mảng Á-Âu và châu Phi. Theo kết quả từtrung tâm nghiên cứu Azoren – trung tâm sống núi giữa Đại Tây Dương cho thấy địahào trung tâm rộng 4 km, sườn địa hào nằm ở độ sâu 2250km. Đây là cấu trúc khôngđối xứng, rìa phía Tây dốc hơn rìa phía Đông. Tốc độ mở rộng theo hướng Tây là 0.7cm/năm, theo hướng Đông là 1,3 cm/năm, hình thái cấu trúc mở rộng nhỏ thì có địahình dốc và ngược lại. Các đứt gãy rìa của của đới tách trung tâm khá dốc, nghiêng vềtrung tâm và điển hình bởi đới dăm kết. Phần trung tâm của địa hào lại là một đớinâng, cấu tạo bởi các núi lửa ngầm dưới biển và còn hoạt động. Giữa các dãy núi lửanày và đứt gãy rìa là những đới sâu với nhiều đới tách giãn chạy song song với rìa địahào và thể hiện là các cấu trúc căng giãn. Ở rìa cũng như ở trung tâm có nhiều dòngdung nham trào ra từ các họng núi lửa. Nhiệt độ trung bình của đới dung nham lên tới1100 oC làm cho nhiệt độ của nước biển tăng lên và các dung nham dạng khối đượcphun ra do quá trình tách giãn nhanh. Dung nham có thành phần mafic, đặc trưng làhàm lượng K, Rb, Ti, P, ngoài ra còn chứa một lượng nhỏ đất hiếm.Kết quả nghiên cứu còn cho thấy dung nham ở phần trung tâm địa hào có thànhphần khác với dung nham ở ngoài rìa. Ở trung tâm có dung nham toleit, nghèo K, Rb,P nhưng giàu sắt. Hiện nay người ta thừa nhận một mẫu cấu trúc cho rằng bên dưới địahào trung tâm là lò magma rộng khoảng 5 km,. Tại đây các chất nóng chảy có thànhphần bazan từ manti được dâng lên. Trong lò magma các khoáng vật giàu Fe, Mg nhưolivin, pyroxene kết tinh. Do nặng, chúng chìm xuống đáy lò magma, tạo ra ở đây mộtvùng tập trung các khoáng vật này gọi là vùng tích đọng và thường tạo ra các đáperidotit. Hiện tượng tách làm nứt vòm của lò magma, làm cho dung nham từ lòmagma chảy ra đáy biển. Nếu như các lò magma riêng lẻ, sau khi phun trào hàng chụcngàn năm cứng rắn lại thì ở những chỗ khác của địa hào trung tâm lại có hoạt động củamagma. Các đá gabro thành tạo trong lò magma và các đá mạch xuất hiện trong cáckhe nứt tạo nên một phức hệ magma theo thứ tự từ dưới lên trên lần lượt là: peridotit –gabro - đá mạch mafic - dung nham dạng gối. Phức hệ này đã được các công trìnhkhoan và địa vật lý xác nhận.Hình 3: Mẫu lò magma dưới sống núi Đại Tây Dương, Tây Nam Arozen.Tổ hợp các đá có mặt từ dưới lên trên gồm peridotit, secpentinit, gabro, cácmạch dolerit, dung nham dạng gối, trầm tích biển sâu thường chứa radiolarit điển hìnhcho vỏ đại dương và gọi là ophilit hoặc phức hệ ophilit.Về mặt địa chất, sống núi thực chất là điểm nằm trên cao của đới nâng giữa ĐạiTây Dương là chỗ đang nhô lên chạy dọc theo chiều dài của của Đại Tây Dương vớiphần đỉnh là các điểm cao nhất của đường nhô lên này. Các chỗ nhô cao này là do lựccủa dòng đối lưu bên trong quyển mềm đẩy vỏ đại dương và thạch quyển lên.Ranh giới tách giãn hình thành đầu tiên trong kỷ Trias khi một loạt các địa hàoba nhánh hợp lại trên siêu lục địa Pangaea để hình thành sống núi. Thường thì chỉ haitrong ba nhánh của địa hào dạng như trên cấu thành nên một ranh giới tách giãn. Cácnhánh không thành công trong việc tách giãn được gọi là aulacogen, và các aulacogencủa sống núi giữa Đại Tây Dương thậm chí trở thành các thung lũng sông lớn đượcthấy dọc theo châu Mỹ và châu Phi (bao gồm cả sông Mississippi, sông Amazon vàsông Niger).Sống núi nằm sâu khoảng 2.500 mét (8.200 ft) dưới mực nước biển, trong khicác sườn của nó nằm sâu hơn 5.000 mét.Hình 4: Mid Atlantic Ridge in IcelandNúi đại dương hay sống núi giữa đại dương là nơi dòng đối lưu trong man ti đilên, vì vậy ở dưới sâu, đáy của buồng đối lưu là vùng bị ép và phần trên của buồng đốilưu là vùng bị ép và phần trên của buồng đối lưu là phần bị giãn, tạo điều kiện chodung nham trào ra ngoài. Cấu trúc này được xem là sản phẩm tách giãn đáy đại dươngvà là nơi tạo ra các rìa mảng mới có cơ chế dịch chuyển tách rời nhau. Núi đại dươngcung cấp vật liệu tạo nên vỏ đại dương nên còn gọi là cấu trúc gây dựng. Núi đạidương còn gọi là rift đại dương. Chính ở khu vực này hoặc lân cận, ở những thời điểmnhất định còn có sự đi lên của những dung nham từ rất sâu tong manti trào ra bênngoài mặt đất dưới dạng núi lửa gọi là điểm nhiệt hay hostpos, hoặc dung nham từdưới sâu đội lên dạng đipia gọi là vòm manti. Trên trái đất hiện nay đã xác định được122 hostpos đã hoạt động trong khoảng 10 triệu năm trở lại đây, trong đó có 69hostpos ở lục địa và 53 hostpos ở đại dương. K.Burke, J.T.Wilson, 1976, cho rằnghostpos thường là những đai dương xuất hiện do quá trình hoạt đọng núi lửa. vật liệutừ dưới sâu của manti, trong quyển mềm theo dòng đối lưu nóng dâng lên làm nóngchảy ra ở độ sâu từ 30-100Km. nhiều tác giả cho rằng dòng đối lưu mang vật liệu từmanti lên và cố định nên thạch quyển chuyển động bên trên gặp dòng vật liệu đưa lênhình thành cấu trúc núi lửa ở thạch quyển. Do thạch quyển động trong khi hostpos cốđịnh nên có một loạt núi lửa xuất hiện thành dãy trên thạch quyển.Hình 5: dãy núi HaOai-emperorHình 6: Mặt cắt sống núi giữa đại dươngIII. SINH KHOÁNG LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÁCH GIÃNLiên quan với hoạt động này gồm 2 phần: Sinh khoáng ngoại sinh và sinh khoángnội sinh.Liên quan tới sinh khoáng ngoại sinh là các mỏ trầm tích, trong đó đảng kể làthan đá, dầu khí, Cu, Zn, Cr, Co, Ag, Mn dưới dạng sunfit hoặc oxit ở rìa và thềm lụcđịa. Dưới tác dụng của các lực kiến tạo, tập hợp các đá sinh hoặc chứa các khoáng sảnnói trên bị ép nén, biến dạng trong đó đặc biệt là dầu mỏ, khí đốt có thể bị ép dichuyển đến các khu vực khác, nằm trong các đá khác và không loại trừ khả năng bịtích tụ, chứa trong các đá gốc, đá móng kết tinh. Hiện tượng đá móng kết tinh, ví dụ đámagma có tuổi trước Kainozoi ở mỏ Bạch Hổ và một số mỏ dầu khi khác ở nước tahoặc ở trên thế giới nói chung có chứa dầu khí, thậm chí với trữ lượng lớn. Có thể giảithích hoặc là các khoáng thể này bị ép do hoạt động kiến tạo mảng, nhấn chìm xuốngsâu theo các đới phá hủy, đứt gãy là khe nứt, dồn ép trong đá móng, hoặc là do quátrình biển thoái, dầu khí và nước không có lối thoát bắt buộc phải ngấm xuống dưới đámóng , sau đó các trầm tích biển tiến ở giai đoạn sau, tạo nên lớp sét xem như mànchắn không cho chúng dâng lên phía trên..Đây là những vấn đề cần được nghiên cứutheo các phương pháp thực nghiệm khác nhau.Các khoáng sản nội sinh chủ yếu liên quan với hoạt động magma tạo nên vòngcung đảo liên quan tới hoạt động phun trào và xâm nhập dạng mạch ở dải núi giữa đạidương cũng như liên quan tới những hiện tượng biến chất, biến đổi khác. Quá trìnhđộng học tách giãn gắn liền với quá trình tạo vỏ đại dương và sinh khoáng liên quanvới chúng.IV. THẢO LUẬNCác sống núi giữa đại dương trên thế giới được kết nối với nhau và tạo thànhmột hệ thống sống núi giữa đại dương toàn cầu riêng lẻ là một phần của mỗi đạidương, làm cho hệ thống này là các dãy núi dài nhất thế giới.Về mặt địa chất, sống núi thực chất là điểm nằm trên cao của đới nâng giữa ĐạiTây Dương là chỗ đang nhô lên chạy dọc theo chiều dài của của Đại Tây Dương vớiphần đỉnh là các điểm cao nhất của đường nhô lên này. Các chỗ nhô cao này là do lựccủa dòng đối lưu bên trong quyển mềm đẩy vỏ đại dương và thạch quyển lên.V. KẾT LUẬNViệc hình thành các sống núi giữa đại dương là kết quả của hoạt động táchgiãn.Các sống núi giữa đại dương thì đáng chú ý nhất là sống núi giữa Đại TâyDương, đây là ranh giới mảng tách giãn chạy giữa đáy của Đại Tây Dương, và là dãynúi dài nhất trên thế giới.Tổ hợp các đá của sống núi giữa đại dương gồm peridotit, secpentinit, gabro,các mạch dolerit, dung nham dạng gối, trầm tích biển sâu thường chứa radiolarit điểnhình cho vỏ đại dương và gọi là ophilit hoặc phức hệ ophilit.Liên quan đến sông núi giữa đại dương có rất nhiều loại khoáng sản có giá trị.Lời cảm ơn: Trong khuôn khổ của tiểu luận các vấn đề đã trình bày ở trên cònnhiều thiếu sót và hạn chế về trình độ chuyên môn, em rất mong được sự tham gia gópý của các thầy giáo, đặc biệt là thầy giáo giảng dạy: PGS.TS Trần Thanh Hải để tiểuluận của em được hoàn thiện hơn.VĂN LIỆU[1]. PGS.TS. Trần Thanh Hải. Bài giảng “Địa kiến tạo”. Trường đại học Mỏ - Địachất.[2]. Lê Như Lai (Chủ biên), 1998. Địa kiến tạo và sinh khoáng. Trường Đại học Mỏ Địa chất.[3]. Một số bài báo trên internet.