Tại sao Ăngghen không có tên trong chủ nghĩa Mác Lênin

Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin lượt xem Edit

Câu hỏi 4. Tại sao chúng ta gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin? Đáp. Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lênin hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. 1] Nhu cầu bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. a] Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản ngày càng tinh vi, tàn bạo hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. b] Những năm cuối thế kỷ XIX, bước sang thế kỷ XX, có những phát minh vật lý mang tính vạch thời đại, làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây là cơ hội để chủ nghĩa duy tâm tấn công chủ nghĩa Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành động của phong trào cách mạng. c] Chủ nghĩa Mác đã được truyền bá vào nước Nga; nhưng những trào lưu như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v đã nhân danh đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa đó. Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu khách quan về việc khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận triết học cho các khoa học chuyên ngành; đấu tranh chống lại những trào lưu tư tưởng phản động và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra. Hoạt động lý luận của V.I.Lênin nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử đó. 2] Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác được chia thành ba thời kỳ, tương ứng với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga. a] Trong thời kỳ 1893-1907, V.I.Lênin tập trung phê phán tính duy tâm của phái “dân túy” về những vấn đề lịch sử-xã hội và chỉ ra rằng, qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin cũng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn đề về đấu tranh kinh tế, chính trị, tư tưởng được đề cập rõ nét; ông cũng phát triển chủ nghĩa Mác về những vấn đề như phương pháp cách mạng; nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan; vai trò của quần chúng nhân dân; của các đảng chính trị trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. b] Trong thời kỳ 1907-1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán [1909]- tác phẩm khái quát từ góc độ triết học những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên để bảo vệ và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác; phê phán triết học duy tâm chủ quan đang chống lại chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bản của triết học và phạm trù vật chất có ý nghĩa hệ tư tưởng và phương pháp luận hết sức to lớn. Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác về nhận thức, V.I.Lênin cũng chỉ ra sự thống nhất bên trong, không tách rời của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những luận giải duy vật về tự nhiên, về xã hội, về con người và tư duy của nó. Trong tác phẩm Bút ký triết học [1914-1916], V.I.Lênin tiếp tục khai thác hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Năm 1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng bàn về vấn đề nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng và vai trò của đảng công nhân và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; đưa ra tư tưởng về nhà nước Xôviết, coi đó là hình thức của chuyên chính vô sản; vạch ra những nhiệm vụ chính trị và kinh tế mà nhà nước đó phải thực hiện và chỉ ra những nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa xã hội được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. c] Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười [Nga] năm 1917 mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này làm nẩy sinh những nhu cầu mới về lý luận mà sinh thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thể hiện; V.I.Lênin tiếp tục tổng kết thực tiễn để đáp ứng nhu cầu đó bằng các tác phẩm mà các nội dung chính của chúng cho rằng việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những điều kiện cần thiết để chuyển sang xây dựng "chủ nghĩa xã hội kế hoạch". V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở của công cuộc xây dựng kinh tế; xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không tránh khỏi phải đi qua những nấc thang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định vai trò kinh tế hàng hóa trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông non trẻ, ông đề nghị những người cộng sản cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu ngạo, ít học và tham nhũng. V.I.Lênin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng chủ nghĩa Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống. Di sản kinh điển của V.I.Lênin trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các đảng cộng sản. Thiên tài về lý luận và thực tiễn của V.I. Lênin trong việc kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin.

  • Câu hỏi 1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành của nó?
  • Câu hỏi 2. Sự khác nhau tương đối và sự thống nhất giữa ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin?
  • Câu hỏi 3. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác?
  • Câu hỏi 4. Tại sao chúng ta gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin?
  • Câu hỏi 5. Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào cách mạng thế giới?
  • Câu hỏi 6. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin?
  • Câu hỏi 7. Vấn đề cơ bản của triết học?
  • Câu hỏi 8. Bản chất, nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng?
  • Câu hỏi 9. Khái lược về vai trò [chức năng] thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng?
  • Câu hỏi 10. Định nghĩa, nội dung và ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I. Lênin?
  • Câu hỏi 11. Phương thức, hình thức tồn tại của vật chất?
  • Câu hỏi 12. Tính thống nhất vật chất của thế giới?
  • Câu hỏi 13. Nguồn gốc của ý thức?
  • Câu hỏi 14. Bản chất của ý thức?
  • Câu hỏi 15. Phân tích thực chất và động cơ tích luỹ tư bản? Mối quan hệ và sự khác nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản? Vai trũ của tập trung tư bản trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản?
  • Câu hỏi 16. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ tư bản? í nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?
  • Câu hỏi 17. Khái lược về phép biện chứng duy vật?
  • Câu hỏi 18. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật? ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nội dung nguyên lý này?
  • Câu hỏi 19. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật?
  • Câu hỏi 20. Cặp phạm trù cái riêng, cái chung của phép biện chứng duy vật?
  • Câu hỏi 21. Cặp phạm trù nội dung-hình thức của phép biện chứng duy vật?
  • Câu hỏi 22. Phân tích nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước?
  • Câu 23. Tại sao nói quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập nêu nguồn gốc, động lực vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng?
  • Câu hỏi 24. Tại sao nói quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại nêu cách thức, tính chất phát triển của sự vật, hiện tượng?
  • Câu hỏi 25. Tại sao nói quy luật phủ định của phủ định nêu khuynh hướng và kết quả phát triển của sự vật, hiện tượng?
  • Câu hỏi 26. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
  • Câu hỏi 27. Con đường biện chứng của nhận thức chân lý?
  • Câu hỏi 28. Tồn tại xã hội, ý thức xã hội và mối quan hệ biện chứng giữa chúng?
  • Câu 29. Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội?
  • Câu 30. Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất?
  • Câu hỏi 31. Phân tích nội dung mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng?
  • Câu hỏi 32. Hình thái kinh tế -xã hội?
  • Câu hỏi 33. Giai cấp và đấu tranh giai cấp?
  • Câu hỏi 34. Cách mạng xã hội?
  • Câu hỏi 35. Vấn đề con người trong chủ nghĩa Mác-Lênin?

[TG] - Với bộ óc thiên tài, trái tim nhân hậu và đức tính khiêm nhường, Ph.Ăng-ghen đã dâng hiến cho nhân loại nhiều tư tưởng, lý luận có giá trị lịch sử to lớn và có ý nghĩa soi sáng con đường xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn.

Ph.Ăngghen [1820 - 1895]

Đầu thế kỷ XX, loài người đã chứng kiến nhiều sự biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, với nhiều hình thức từ đối đầu đến hợp tác,vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranhkiềm chế lẫn nhau quyết liệt,giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tại nhiều khu vực và nhiều nước. Trong bối cảnh đó, việc thiết lập và xuất hiện mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa [XHCN] đầu tiên trên thế giới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là thắng lợi to lớn nhất của xã hội loài người. Thắng lợi đó đã khẳng định tính khoa học chân chính của chủ nghĩa Mác - Lênin, biến chủ nghĩa xã hội [CNXH] từ không tưởng thành khoa học và trở thành một thực tế sống.

Sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn động lực cho nhiều quốc gia trên thế giới và nhân loại chính thức có một hệ thống các quan điểm khoa học và thực tiễn. Trong những cống hiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin có đóng góp của Ph.Ăng-ghen - người luôn sát cánh cùng C.Máctrong xây dựng, hoàn thiện và truyền bá tư tưởng cách mạng giúp phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động nhận thức và hành động, chuyển từ trạng thái mộng tưởng sang bừng tỉnh để bước lên vũ đài chính trị với vai trò là một giai cấp cấp tiến nhất của xã hội loài người.

Phriđơrich Ăng-ghen[Friedrich Engels]sinh ngày 28/11/1820 ở thành phố Barmen, tỉnh Rhein, Vương quốc Phổ, trong một gia đình chủ xưởng dệt. Ônglànhà lý luận chính trị, mộttriết giavà nhà khoa học nổi tiếng ngườiĐứcthế kỷ XIX, người cùng vớiC.Mác [Karl Marx]sáng lập và phát triểnchủ nghĩa cộng sản. Sự nghiệp suốt đời của Ph.Ăngghen gắn liền, khăng khít và trở thành sự nghiệp chung với C.Mác.

Những đóng góp vĩ đại của Ph.Ăng-ghen trong hệ thống lý luận củachủ nghĩa Mác đã được khẳng định và được tôi luyện trong thựctiễn phong trào công nhân và cuộc đấu tranh xây dựng xã hộiXHCN, đòi công lý, công bằng và cải thiện cuộc sống cho giai cấp vô sản.

Với bộ óc thiên tài, trái tim nhân hậu và đức tính khiêm nhường, Ph.Ăng-ghen đã dâng hiến cho nhân loại nhiều tư tưởng, lý luận có giá trị lịch sử to lớn và có ý nghĩa soi sáng con đường xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn - xã hộiXHCNcho các dân tộc trên thế giới.

XÃ HỘI MỚI ĐÒI HỎI PHẢI CÓ TƯ TƯỞNG MỚI SOI SÁNG, DẪN ĐƯỜNG

Với ước muốn cải biến xã hội, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng một học thuyết thực sự cách mạng, đáp ứng nhu cầu phát triển của quần chúng nhân dân, tạo ra động lực phát triển cho xã hội theo xu thế thời đại, gắn kết và giải đáp kịp thời nhưng vấn đề thực tiễn đặt ra. Học thuyết của C.Mác và Ph.Ăng-ghen là học thuyết chân chính được bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh chân thực quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Học thuyết đó quay trở lại phục vụ thực tiễn, trở thành nền tảng tư tưởng, vũ khí chiến đấu của giai cấp công nhân, tầng lớp nhân dân lao động và các đảng cộng sản, đảng công nhân.

Lý tưởng cao đẹp suốt đời của C.Mác và Ph.Ăng-ghen làgiải phòng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, không có tình trạng người bóc lột người, một xã hội mà ở đó con người có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Thông qua học thuyết của mình,C.Mác và Ph.Ăng-ghenđã cung cấp nhận thức luận; dẫn đường, chỉ hướng cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, các đảng cộng sản cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Đưa loài người đến với con đường chân chính - con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Con đường đó đòi hỏi phải sử dụng thành thạo phương pháp tư duy biện chứng trong nhận thức quy luật tự nhiên để luận giải, khái quát thành tựu của khoa học tự nhiên; để giải thích quá trình phát sinh, phát triển trong giới tự nhiên; để con người nhận thức sâu sắc hơn trong khoa học xã hội và khúc triết hơn trong mối quan hệ giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Là người sáng lập phương pháp tư duy biện chứng, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã sử dụng để bóc trần bản chất bóc lột của giai cấp tư sản; vạch ra phương pháp chống và lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản.

Sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử với duy vật biện chứng, giữa kinh tế với chính trị trong nhận thức bản chất của xã hội tư bản, cùng với bộ óc thiên tài, Ph.Ăng-ghen đã khẳng định, trong lòng xã hội tư bản đang tồn tại nhiều yếu tố sẽ tác động và phủ định chính xã hội tư bản, đó là các quan hệ kinh tế và các yếu tố cấu thành xã hội tư bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Từ đó, Ph.Ăng-ghen đã khẳng định tính tất yếu khách quan của cách mạng XHCN sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa cộng sản và vạch rõ tính giai cấp của ý thức xã hội đối với giai cấp công nhân - sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới.

Là người đồng sáng lập triết học Mác, Ph.Ăng-ghen bàn nhiều về nhận thức, tư duy, nhất là về tư duy lý luận, đây là nền tảng đầu tiên để hình thành một xã hội mới. Những chỉ dẫn của Ph.Ăng-ghen về tư duy lý luận không chỉ có ý nghĩa trong đấu tranh chống lại những quan điểm sai lầm, chiết trung về khả năng nhận thức của con người, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với các đảng cộng sản, đảng công nhân trên thế giới. Ph.Ăngghen cho rằng, những nguyên lý được rút ra từ tư duy chứ không phải từ thế giới bên ngoài. Do vậy, tư duy lý luận mang tính lịch sử là sản phẩm của lịch sử, ở mỗi thời đại khác nhau là khác nhau và tư duy lý luận không phải là một chân lý vĩnh viễn, không thay đổi được. Bằng những luận giải thuyết phục, khoa học, những đóng góp của Ph.Ăng-ghen có ý nghĩa to lớn đối với thành quả vĩ đại của chủ nghĩa Mác; củng cố, hoàn thiện tư duy lý luận cho các nhà mác-xít, hướng các nhà mác -xít luôn gắn lý luận với thực tiễn xã hội.

Tư duy lý luận mang tính lịch sử là sản phẩm của lịch sử, ở mỗi thời đại khác nhau là khác nhau và tư duy lý luận không phải là một chân lý vĩnh viễn, không thay đổi được.

Như vậy, trong quá trình phát triển triết học duy vật, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã mở ra một bước ngoặt căn bản trong triết học hiện đại, cung cấp cho loài người phương pháp nhận thức mới mẻ, trở thành vũ khí sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới, cải biến xã hội. Thay đổi trong tư duy, nhận thức là điểm xuất phát để tiến hành xây dựng một xã hội mới được xuất hiện ngay trong lòng xã hội cũ.

Hội thảo khoa học “Giá trị tư tưởng Ph.Ăng-ghen trong thời đại ngày nay” [2015] do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức


CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI Ở MỖI QUỐC GIA LÀ KHÁC NHAU

Ph.Ăng-ghen xuất thân từ một gia đình thuộc giai cấp tư sản, nhưng Ông đã dành trọn con tim, khối óc, tình cảm và trí tuệ cho giai cấp vô sản, hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhằm mục tiêu, lý tưởng cao đẹp. Cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen đã đem nghị lực phi thường, trí tuệ uyên bác và trái tim nồng cháy của mình tham gia phong trào cách mạng, dũng cảm đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân. Các ông được ngưỡng mộ, kính trọng không chỉ bởi trí tuệ của một nhà bác học, lòng dũng cảm, nhiệt huyết của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, mà còn bởi phẩm chất cao cả thể hiện trong tình bạn, tình đồng chí khăng khít, thuỷ chung, cảm động, hiếm có.

Ph.Ăng-ghen đã cùng với C.Mác dày công nghiên cứu, kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại; đồng thời “tắm mình” vào thực tiễn phong phú, sinh động trong phong trào đấu tranh cách mạng để xây dựng nên chủ nghĩa Mác. Toàn bộ học thuyết của hai ông là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học rất nghiêm túc để lại những công trình khoa học đồ sộ, hoàn chỉnh, chặt chẽ và chính xác, trong đó tính khoa học thống nhất với tính cách mạng triệt để.

Với tư cách là một lãnh tụ cộng sản, một nhà lý luận và tinh thần cách mạng triệt để, Ph.Ăng-ghen kiên trì cuộc đấu tranh không khoan nhượng để bảo vệ những giá trị chân chính, khoa học của chủ nghĩa Mác và đòi hỏi phải đối xử như là một khoa học. Ph.Ăng-ghen cùng C.Mác đấu tranh không mệt mỏi chống khuynh hướng phản khoa học và không tưởng trong phong trào công nhân, khuynh hướng tiểu tư sản, chủ nghĩa vô chính phủ, cải lương, tả khuynh, hữu khuynh và trào lưu phi vô sản… nhằm âm mưu chia rẽ phong trào công sản và công nhân quốc tế.

Ph.Ăng-ghen cùng C.Mác đấu tranh không mệt mỏi chống khuynh hướng phản khoa học và không tưởng trong phong trào công nhân, khuynh hướng tiểu tư sản, chủ nghĩa vô chính phủ, cải lương, tả khuynh, hữu khuynh…

Trong rất nhiều công lao của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, thì công lao lớn nhất là dạy cho giai cấp công nhân tự nhận thức được mình, có ý thức về mình, và đem khoa học thay thế cho thế giới mộng tưởng. Theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen, CNXH không phải là điều bịa đặt, mà là mục đích cuối cùng, kết quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội hiện đại. Vì lịch sử đấu tranh giai cấp là sự thay thế nền thống trị này của giai cấp xã hội này với nền thống trị khác của giai cấp xã hội khác kéo dài mãi, chừng nào những cơ sở của đấu tranh giai cấp, sự thống trị giai cấp và chế độ tư hữu vẫn chưa mất đi.

Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra sự phát triển xã hội loài người là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Theo các ông, sự ra đời xã hội mới bắt nguồn từ tất yếu kinh tế và được thai nghén từ trong lòng xã hội cũ. Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời củaCNXH, chủ nghĩa cộng sản là khách quan được bắt nguồn trực tiếp từ mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư nhân trong lòng xã hội tư bản, được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, mà ngày nay chính là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động.

Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăng-ghen cũng dự báo về đặc trưng của hai giai đoạn trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”[1]vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế trong xã hội XHCN[2].

Theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen, xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi con người không còn phụ thuộc có tính chất nô dịch vào sự phân công lao động của họ; không còn sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay; lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống; sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, và con người có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản...[3].

Tượng đài Các Mác và Ăngghen tại thủ đô Béc Lin [Đức]

Bên cạnh những nghiên cứu cùng C.Mác, Ph.Ăng-ghen cũng có nhiều nghiên cứu độc lập, một trong những điểm nhấn sáng tạo của Ph.Ăng-ghenlà tư duy biện chứng về con đường lên CNXH. Theo Ph.Ăng-ghen, quan niệm và thực tiễn quá trình kiến tạo xã hội XHCN luôn phải được bổ sung, hoàn thiện khi thực tiễn cuộc sống đặt ra những vấn đề mới. Phát triển lý luận mác-xít về thời kỳ quá độ, Ph.Ăng-ghennêu ra luận điểm “phát triển rút ngắn” trên con đường lên CNXH ở một số nước lạc hậu.

Theo Ph.Ăng-ghen, quan niệm và thực tiễn quá trình kiến tạo xã hội XHCN luôn phải được bổ sung, hoàn thiện khi thực tiễn cuộc sống đặt ra những vấn đề mới.

Với tư duy biện chứng, cùng quá trình hoạt động trực tiếp trong phong trào công nhân và bộ óc thiên tài về lý luận, Ph.Ăng-ghen nhấn mạnh, các nước đi lênCNXH, nhất là các nước còn lạc hậu phải suy nghĩa thật kỹ, không được nôn nóng, không được phép kết luận vội vàng nếu muốn xây dựngCNXHtheo con đường “rút ngắn”, bởi đây là vấn đề khó nhất trong tất cả các vấn đề tồn tại ở một thời kỳ mà các điều kiện không ngừng phát triển, thay đổi.Đối với các nước chưa từng trải qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, Ph.Ăng-ghenkhẳng định, “không những có thể mà còn chắc chắn... rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên xã hội XHCN và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây Âu... phải trải qua”[4].

TƯ TƯỞNG CỦA PH.ĂNG-GHEN SOI ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; từ khát vọng độc lập dân tộc, giải phóng đất nước, Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở lý luận và khoa học, trên thực tiễn vận động và đòi hỏi của phong trào cách mạng Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh đi đến kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[5]. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của Hồ Chí Minh được phát triển xuyên suốt theo từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Và đến cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lênCNXH[Bổ sung và phát triển năm 2011] đã chỉ rõ: “Đi lênCNXHlà khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[6].

Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là sợi chỉ đỏ, là đường lối chiến lược nhất quán; là bài học lớn cho cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua là minh chứng và khẳng định chắc chắn lựa chọn con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sáng suốt, duy nhất đúng đắn với vai trò to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người tìm đường, mở đường và dẫn đường cho dân tộc Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là sợi chỉ đỏ, là đường lối chiến lược nhất quán; là bài học lớn cho cách mạng Việt Nam; là cội nguồn dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Qua các giai đoạn cách mạng khác nhau, khuynh hướng chính trị bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên CNXH ở nước ta đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn, ăn sâu bám rễ trong lòng xã hội Việt Nam. Chúng ta đã khẳng định chắc chắn sự vận dụng sáng tạo luận điểm “phát triển rút ngắn” con đường đi lên CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam là đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”[7].


Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “con đường đi lên của nước ta là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. “Đây là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp và do vậy, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”[8]. Tuy nhiên, phải hiểu rằng, sự “phát triển rút ngắn”, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta vẫn là quá trình lịch sử - tự nhiên. Nội dung của con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam được Đảng ta xác định: “Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”[9].

Theo đó, con đường “phát triển rút ngắn” trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa; là rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại; là bỏ qua chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và tình trạng áp bức, bóc lột chứ không bỏ qua những thành tựu văn minh vật chất và tinh thần mà loài người đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là những vấn đề có tính nguyên tắc cần thiết được nhận thức và vận dụng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì bảo vệ, bổ sung học thuyết Mác - Lênin nhằm xây dựng đất nước từng bước phát triển, đặc biệt, việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc.

Vận dụng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội mác-xít, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì bảo vệ, bổ sung học thuyết Mác - Lênin nhằm xây dựng đất nước từng bước phát triển, đặc biệt, việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn xã hội và môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước; xây dựng toàn diện nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội ngày càng được hoàn thiện; tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh đạt nhiều kết quả.

Trong đổi mới và hội nhập quốc tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: xây dựng chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền quốc gia; nhận thực vềCNXHvà con đường đi lênCNXHở nước ta ngày càng được sáng tỏ; hệ thống chính trị từng bước được hoàn thiện và có bước phát triển; xây dựng, chỉnh đốn Đảngtrong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng;xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyềnXHCN;đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội; đặc biệt, dân chủXHCNngày càng được phát huy.

Khi Việt Nam và thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế số được hình thành, phát triển nhanh, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế; công nghệ số được áp dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới, xuyên quốc gia, dựa trên nền tảng công nghệ số và Internet đang tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập, tiện ích, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việc xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số được triển khai quyết liệt, bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.

Những thắng lợi vĩ đại trong 90 năm qua là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sức mạnh to lớn của nhân dân ta; là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện Việt Nam.Chúng ta đã, đang và sẽ kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để làm lên những kỳ tíchvĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại./.

TS. Đồng Quang Thái

______________________

[1] [2] [3]C.Mác và Ph.Ăngghen:, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995, t.19, tr.33, 35-36, 36.

[4]C. Mácvà Ph.Ăngghen:, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1997, t.37, tr.632, 641.

[5]Hồ Chí Minh,Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.9, tr.314.

[6] [8]Đảng Cộng sản Việt Nam:, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.70, 67.

[7]Đảng Cộng sản Việt Nam:, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.7-8.

[9]Đảng Cộng sản Việt Nam:, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.84.

Video liên quan

Chủ Đề