Thùy lá là gì

Lá kép

Lá kép

Lá kép là một dạng tiến hóa của lá cây mà mỗi phiến lá không gắn trực tiếp với thân cành mà thường thông qua hệ thống cuống lá. Phiến lá này thường có cuống, gân lá như lá đơn nguyên, phần này là lá chét của lá kép. Khi cây thay lá, lá chét thường rơi rụng trước rồi cuống chính mới rụng khỏi thân cành.

Lá chét

Lá chét là phần chính có phiến lá quang hợp của 1 lá kép. Lá chét gắn trực tiếp vào cuống lá cấp 1, cấp 2 hoặc cấp 3. Lá chét cũng có cấu tạo giống như lá đơn nguyên. Lá chét thường có hình trứng, hình trái xoan, hình trứng ngược, hình bình hành (lá cây mán đỉa),... Lá chét cũng có thể có dạng xẻ thùy (lá cây lát hoa).

Điểm gắn lá chét với cuống không có chồi ngủ như là điểm gắn của lá đơn với thân cành, đây là 1 trong các đặc điểm phân biệt lá chét với lá đơn nguyên.

Phân cấp

Phân cấp lá kép theo các cấp của cuống lá. Thường thấy điển hình là lá kép 1 lần (chỉ có cuống kép cấp 1), lá kép 2 lần (có cuống kép cấp 2).

Hình dạng

Lá kép có hình dạng khác nhau tùy thuộc váo cách đính của lá chét vào cuống kép và các loại cuống kép thứ cấp vào cuống kép sơ cấp. Thường thấy 2 loại hình chủ yếu:

* Lá kép lông chim (xương cá): cuống thứ cấp, lá chét đính vào cuống sơ cấp (cuống cấp 1) thành hính lông chim (xương cá).

* Lá kép chân vịt: cuống thứ cấp hoặc lá chét đính quanh chung 1 điểm ở cuống sơ cấp.

Ý nghĩa tiến hóa

Lá kép là dạng tiến hóa cao nhất của hình thái phiến lá nhằm tận dụng tối đa diện tích chiếu sáng.

Lá đơn

Thùy lá là gì
Lá đơn nguyên

Lá đơn là một dạng lá cây mà phiến lá gắn liền trực tiếp với thân cành cây. Chỉ có 1 cấp cuống lá, khi thay lá theo sinh lý, toàn bộ phần phiến lá và cuống sẽ rơi rụng cùng một thời điểm. Lá đơn chủ yếu xuất hiện ở lá dạng phiến và lá dạng dải.

Hình dạng, kích thước

Kích thước phiến lá đơn rất đa dạng.

Lá đơn có nhiều hình dạng khác nhau, có lá đơn nguyên phiến và lá đơn xẻ thùy.

* Lá đơn nguyên phiến: Là dạng lá đơn mà phiến lá còn nguyên vẹn, không bị xẻ thùy. Mép lá thường là nguyên, gợn sóng hoặc răng cưa. Hình dạng chung của phiến là thường là hình trái xoan, hình trứng, hình trứng ngược, hình mũi giáo, hình tim, hình dải, thuôn dài, hình khiên (lá sen), hình tròn,...

* Lá đơn xẻ thùy: Phiến lá có các thùy sâu xẻ vào hướng gân cuống. Tùy vào mức độ xẻ thùy, độ sâu xẻ thùy tỷ lệ với chiều rộng lá mà người ta phân thành: xẻ thùy nông, xẻ thùy sâu, xẻ thùy tận gân. Tùy vào cách xẻ thùy và hướng xẻ thùy và hình dạng lá xẻ thùy mà người ta phân thành: xẻ thùy chân vịt, xẻ thúy lông chim (xẻ thùy xương cá). Lá xẻ thùy cũng có nhiều cấp: xẻ thùy 1 lần, xẻ thùy 2 lần,...

Ý nghĩa

Lá đơn được đánh giá là mức độ thấp trong quá trình tiến hóa của các dạng lá đơn. Trong lá đơn thì lá đơn xẻ thùy được xem là tiến hóa hơn lá đơn nguyên. Lá đơn xẻ thùy nhằm tận dụng tối đa diện tích được chiếu sáng mà lại tiết kiệm bề mặt, hạn chế quá trình thoát hơi nước.

HÌNH THÁI BÊN NGOÀI CỦA LÁ

Câu hỏi: Liệt kê và mô tả một vài cách phân loại lá.

Các phần của lá

Phiến lá

Là phần dẹp, mỏng, to, có màu lục, do trong tế bào chứa lục lạp. Phiến lá rất đa dạng và có nhiều kích thước rất khác nhau; trong nhiều trường hợp phiến lá có những biến đổi theo điều kiện sinh thái và chức năng riêng.

* Hình dạng của phiến láthực vật Hột kín rất đa dạng và có ý nghĩa lớn về mặt hệ thống trong phân loại học ngày nay cũng như trong cổ sinh thực vật học; thật khó mà mô tả được hết hình thái của lá vì "không có hai loài khác nhau mà có cùng hình thái lá giống nhau", và trên cùng một cây có khi có nhiều dạng lá khác nhau. Khái niệm chủ yếu về hình thái lá ở đây chỉ mô tả trên một số đặc điểm thông thường, tùy thuộc vào tỷ lệ chiều dài, chiều rộng, sự đối xứng … mà lá chia các kiểu sau:

Lá tròn đều nếu chiều dài lá bằng chiều rộng; khi chiều dài gần bằng chiều rộng thì lá gần tròn. Lá bầu dục có chiều dài dài hơn chiều rộng từ 1,5 - 2,5 lần; bầu dục có thể rộng, thuôn, nhọn; bầu dục thuôn nhọn ta có hình mũi mác. Phiến lá hình trứngkhi có đối xứng qua gân giữa lá và chiều dài gấp 1,5 - 2,5 chiều rộng, và rộng ở phần đáy gốc lá; nếu chiều dài bằng hay gần bằng chiều rộng thì lá có hình trứng rộng; chiều dài vượt chiều rộng từ 3 - 5 lần thì gọi là hìnhtrứng thuôn. Nếu hình dạng ngược với các kiểu vừa mô tả có nghĩa là phần rộng nằm ở đỉnh thì gọi hìnhtrứng ngược, hìnhthuôn ngược. Lá hình thoi khi phiến có dạng giống hình thoi có thể đều hay không đều. Hoặc lá hìnhtam giác, tam giác rộng, tam giác thuôn. Lá hìnhlưỡi liềm khi lá có dạng thuôn và uốn cong về một bên. Lá hìnhkim khi lá dài, hẹp, thường cứng và nhọn; mặt cắt ngang lá có thể có hình tam giác hay hình thoi. Ngoài ra còn có các dạng hình tim, hình thận, hình mũi tên …

Các phần của lá bẹ / lá thìa bẹ chìa/ochrea (Polygonum)

* Chóp lá là phần tận cùng của lá rất đa dạng về hình dạng và cũng là đặc điểm của một số họ.

Các kiểu chóp lá 1. Chóp dài xoắn; 2. Chóp nhọn kéo dài; 3. Chóp nhọn hoắt; 4. Chóp có gai nhọn; 5. Chóp nhọn; 6. Chóp tù; 7. Chóp tròn; 8. Chóp bằng; 9. Chóp lõm; 10. Chóp hai thùy

Một số dạng của chóp lá: chóp lá kéo dài thành hình sợi mềm và xoắn lại, chóp lá nhọn do phiến lá kéo dài và thường hơi cong; chóp nhọn hoắt ít nhiều và kết thúc bằng một mũi nhọn cứng. Chóp có gai nhọn khi ở giữa đỉnh phiến có một gai nhỏ, mảnh; chóp nhọn là chóp được tạo thành như một tam giác cân. Chóp tù giống như chóp nhọn nhưng có đỉnh tròn lại còn chóp tròn nếu phiến tận cùng bằng một cung lồi, chóp bằng hay chóp cụt khi tận cùng của nó như bị cắt bằng qua; chóp lõm khi đỉnh phiến bị lõm ở giữa, nếu lõm ít là chóp hơi lõm, nếu lõm nhiều tạo thành chóp hai thùy hoặc lõm sâu thành chóp khuyết.

* Mép lácó thể nguyên khi mép có dạng một đường cong hoặc thẳng đều, có thể lõm, lượn sóng … hay bên ngoài mép có lông, có gai, có răng đầu hay không, răng thưa hoặc mép có răng cưa tròn, nhọn …

Thùy lá là gì
Các kiểu mép lá: 1. Mép nguyên; 2.Lõm; 3.Lượn sóng; 4.Uốn cong; 5. Có lông; 6. Có gai; 7. Có răng; 8. Răng hai lần; 9. Răng không đều; 10. Răng thưa; 11. Hai lần răng thưa; 12. Răng cưa không đều; 13. Răng tròn

* Gốc lácó thể có hình tim, nơi đó gốc lá lõm sâu hình tam giác, nếu chổ lõm tròn lại thì gốc sẽ được gọi gốc hình thận. Gốc lá hình mũi tên có chỗ lõm sâu hình tam giác tạo nên bởi hai phần dưới nhọn của phiến lá quay xuống dưới. Gốc hình mũi mác khi hai phần nhọn phía dưới của phiến hướng thẳng góc với cuống lá hoặc quay lên trên. Giữa các kiểu trên có các dạng chuyển tiếp trung gian, ví dụ như hình tim - hình mũi tên, hình tim - hình mũi mác… Gốc lá có thể bằnghay cụt; gốc bất đối xứnghay gốc nghiêng khi hai bên phiến gốc kết thúc không bằng nhau.

Các kiểu gốc lá 1. Hình tim; 2. Hình thận; 3. Hình mũi tên; 4. Hình mũi kích; 5. Gốc lõm; 6. Gốc tròn; 7. Gốc nhọn; 8. Gốc kéo dài; 9. Gốc bằng; 10. Gốc có tai; 11. Gốc bất đối

Cuống lá

Phiến lá được đính vào thân nhờ cuống lá. Ở đại đa số thực vật có hoa, cuống lá được xem là phần của lá; hình dạng, kích thước và nhiều đặc tính hình thái khác nhau đặc trưng cho các đơn vị phân loại khác nhau. Ví dụ: lá bưởi có cuống hình cánh, cuống hình cánh cũng thấy ở cây ráy leo (Pothos scandens) do lá kèm dính lại mà thành.

Dạng đơn giản của cuống được xem như là một phần gấp nếp của phiến lá. Ví dụ lá một số cây họ Môn (Araceae) hình như lá bị thắt lại ở gốc phiến để hình thành một lòng máng nới rộng dần về phía dưới và hình thành nên bẹ lá.

Cuống lá được xuất hiện chậm trong quá trình phát sinh cá thể nhờ sự sinh trưởng lóng ở gốc phiến lá. Có nhiều cây, lá không có cuống và đáy của phiến lá đính trực tiếp vào thân.

Lá kèm / lá bẹ

Là những phiến lồi có hình dạng và kích thước khác nhau, thường nằm ở gốc lá của nhiều cây hột kín cũng như một số cây hột trần và dương xỉ.

Lá kèm thường làm thành một đôi ở gốc lá, hoặc giữa cuống và thân hoặc nằm đối diện với cuống lá. Vì thế lá kèm có thể rời, dính nhau hoặc dính với cuống lá hay dính với thân. Lá kèm có thể có cuống hay không, có hình phiến, hình vẩy, hình sợi, hoặc thành gai (ở cây hoa hồng) hay có dạng phiến đặc biệt như lá một số cây Pothos họ Môn hay có vòi móc để móc cây khác (dây kim cang Smilax) hoặc có khi rất lớn như ở đậu hoa (Lathyrus).

Kích thước của lá kèm có thể rất nhỏ như hình kim hay rất to như ở đậu Hà lan (Pisum sativum); lá kèm có thể tồn tại lâu hay rụng sớm nên phải tìm lá bẹ ở nhánh non, ở những lá lớn chỉ còn để lại thẹo. Ở da (họ Morace), trầu (họ Piperaceae), sứ (họ Magnoliaceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae) hai lá bẹ hợp nhau làm thành ống bao lấy chồi non và bao sẽ rụng sớm khi lá phát triển.

Một số kiểu lá kèm: A. Đậu Hà lan (Pisum sativum); B. Đậu hoa (Lathyrusaphaca)C. Tra làm chiếu (Hibiscus tiliacens); D. Mơ lông (Paedaria foetida)

Bẹ lá

Bẹ lá là phần thấp nhất của phiến lá, khi lá không có cuống thì đáy của phiến lá mở rộng thành phần dẹp ôm lấy thân. Bẹ lá dùng để đính lá vào thân, làm chổ dựa cho lá, ngoài ra nó còn giúp bảo vệ chồi ngọn của cây, bảo vệ bông đang hình thành và các phần dưới của lóng nơi có mô phân sinh lóng.Về mặt giải phẩu, bẹ lá không khác phiến lá và nó cũng tham gia vào sự quang hợp.

Lá có lá bẹ gọi là lá ôm, thường gặp ở các cây đơn tử diệp. Ở họ Hòa bản, bẹ lá rất cao làm thành một ống bao trùm lấy nguyên cả lóng; ở dây mây cũng vậy.

Ở chuối, tỏi tây,bẹ các lá ôm vào nhau và làm thành một trụ đứng trông như thân: đó là thân giả khí sinh. Bẹ lá thường ít phát triển ở cây song tử diệp, chỉ gặp ở một vài họ như rau cần cơm, carrot.

Một số kiểu bẹ chìa ở họ Rau răm (Polygonaceae)

* Bẹ chìa là kiểu dính nhau đặc biệt của lá kèm. Ở họ Rau răm (Polygonaceae), lá ôm thân và có một mép làm thành ống bao lấy đáy lóng, đó là Ochrea hay bẹ chìa.

* Thìa lìa (lưỡi nhỏ) hay mép lá là kiểu lá kèm đặc trưng cho họ Lúa (Graminae) và họ Gừng (Zingiberaceae); đó là những phiến lồi nhỏ nằm ở phía trong của lá nơi ranh giới giữa phiến và bẹ lá; nó như là phần liên tục của bẹ lá; có khi chỉ được tượng trưng bằng một lằn lông. Thìa lìa là đặc tính quan trọng trong phân loại của họ Lúa.

Sự phân gân lá

Gân lá là hệ thống các bó mạch đi từ thân tiếp tục vào lá, sự phân bố các bó mạch trong phiến lá là sự phân gân lá và tập hợp tất cả các gân lá gọi là hệ gân lá. Lá có thể có một gân, hai gân hay nhiều gân …

Phiến lá có một gân

Thường gặp ở các lá có dạng hình kim như ở lá của thông, rêu, cỏ tháp bút

Gân lá song song

Là đặc tính của phiến lá nhiều cây đơn tử diệp, các gân song song thường có độ lớn gần bằng nhau và chạy dọc theo lá; các gân dọc nầy có thể được nối nhau bằng những gân nhỏ, mảnh hơn. Ví dụ như ở mía, lúa, lan … Ta có thể xem lá gân song song như là lá chỉ gồm có một gân chính nhưng gân chính nầy dẹp như bị cán ra nên các bó của nó xa nhau và giữa các bó là diệp nhục.

Ở lá kè (Livistona), thốt lốt (Borassus), mật cật (Rhapis) … gân chính như bị xòe ra ở một điểm nên lá gồm nhiều lá phụ bức xạ.

Gân hình cung cũng được xem là thuộc kiểu gân song song; gặp ở cây song tử diệp như mã đề (Plantago).

Gân lá hình mạng

Thường gặp ở cây song tử diệp, các gân lá có kích thước to nhỏ khác nhau và tạo thành mạng phân nhánh liên kết với nhau. Trong hệ gân hình mạng, những gân lớn thường nổi lên ở mặt dưới, các gân nhỏ hơn thường chìm trong mô của diệp nhục. Tùy theo cách sắp xếp của các gân lớn trong phiến lá mà hệ gân nầy được chia:

* Gân hình lông chim có gân giữa to nhứt hay còn gọi gân chính; từ gân giữa phân ra hai hàng gân phụ hai bên song song nhau, đối nhau từng cặp hay so le nhau.

* Gân hình chân vịt với các gân chính lớn có kích thước gần bằng nhau xuất phát từ gốc của phiến lá và rời nhau đi về mép của phiến lá, trông giống các ngón chân vịt. Ví dụ gân lá đu đủ, khoai mì…

* Gân hình lọng có cuống lá thay vì gắn ở bìa phiến lá lại gắn ở giữa phiến lá như ở lá sen, súng … Các gân chính đi từ giữa lá và tỏa tròn ra mép của phiến lá.

Trong hệ gân lá hình mạng, hệ gân lông chim được xem là kiểu khởi sinh, và

trong mọi trường hợp, gân phân tới mép phiến lá được xem là kiểu nguyên thủy.

Các kiểu phân gân lá

Các kiểu lá

Lá đơn (simple leave)

Khi cuống lá chỉ mang một phiến duy nhứt; tùy theo bìa phiến lá, ta phân biệt:

* Lá đơn nguyên khi bìa phiến là nguyên, trơn láng như là bông giấy, hay có răng nhọn như bụp (Hibiscus) hay răng tròn …

* Lá có thùy khi mép lá có khuyết sâu chưa đến 1/2 kể từ bìa phiến lá đến gân chính: lá thầu dầu, lá nho …

* Lá phân thùy / xẻ thùy lá có khuyết sâu hơn 1/2 phiến lá như lá móng bò (Bauhinia purpure) …

* Lá xẻ thùy khi các khuyết ăn sâu vào cho đến gần hoặc sát với gân giữa của lá như ở lá đu đủ …

Hình thái một số lá đơn nguyên

* Lá rọc khi lá như bị rọc đến gân chính; gặp ở tóc tiên (Taraxacum)… lá của vài loài cỏ sống dưới nước có thể xem như là lá rọc. Ở cỏ kim ngư (Ceratophyllum) lá có hình một cọng dẹp lưỡng phân nhiều lần, lá của Myriophyllum như chỉ gồm có gân chính và các gân phụ mà thôi.

Lá kép (compound leave)

Khi cuống chính chia thành nhiều cuống phụ nhỏ, mỗi cuống phụ mang một lá phụ hay lá chét (leaflet). Tùy theo cách sắp xếp của lá chét trên cuống chính mà ta phân biệt:

* Lá kép đơn giản nhất là lá kép có 2, 3, 4 lá chét và được gọi là lá kép hai như ở lá móng bò (Bauhinia yunnanensis), lá kép ba ở lá me đất (Oxalis), lá kép bốn gặp ở lá cây lạc (Arachis hypogea).

* Lá kép lông chim khi các lá chét sắp hai hàng hai bên cuống chung có thể mọc đối nhau hay mọc cách trên cuống chung đó.

- Lá kép lông chim chẵn khi tận cùng của cuống chung có hai lá chét, gặp ở muồng.

- Lá kép lông chim lẽ khi chót cuống lá chung mang một lá.

- Lá kép hai lần khi cuống chính mang hai hàng cuống phụ và cuống phụ nầy lại mang hai hàng lá phụ; có thể chẳn hoặc lẽ. Ví dụ như ở lá phượng (Delonix regia), lá keo giậu (Leuceuna glauca).

- Lá ba lần kép có cuống (sóng) chính mang hai hàng cuống phụ, trên cuống phụ nầy mang hai hàng cuống phụ bậc ba nhỏ hơn và trên đó mang các lá phụ. Ví dụ ở ráng, xoan (Melia azedarach) …

* Lá kép hình chân vịt khi các lá phụ (lá chét) tỏa ra tại một điểm từ cuống chung. Số lá phụ thay đổi tùy loài: 3 ở cao su, 5 - 7 ở gòn, 7 ở trôm (Sterculia foetida) …

Hình thái một số lá phân thùy, xẽ thùy

Trường hợp đặc biệt

* Nhiều cây họ Cam (Rutaceae), lá do ba lá phụ, giữa mổi lá phụ và cuống có một ngấn (đốt); ở cam, quít, lá có dạng lá đơn và có đốt ở cuống; người ta cho đây là lá kép trở thành lá đơn vì lá phụ teo mất. Ta gọi lá kép do một lá phụ.

* Ráng bòng bong (Lygodium) rất thường gặp ở lùm bụi nơi đất ẩm có một sợi dài leo quấn mang nhiều lá hai ba lần kép, thực ra tất cả lá đó chỉ do một lá và được giải thích: ráng có một thân ngầm nằm bên dưới đất, sợi dài leo quấn chính là sóng chính mang các sóng phụ đối xứng hai bên, trên sóng phụ mang các lá phụ; đây là một loại lá đặc biệt có sự sinh trưởng vô hạn định vì sóng chính mọc dài mãi.

* Ở bồ ngót (Sauropus androgynus), diệp hạ châu (Phyllanthus niruri), lá đặc biệt do khi còn nhỏ mang ít lá phụ, từ từ lá sinh trưởng ở chót có nghĩa là lá sẽ mọc dài ra và lá càng già càng mang nhiều lá phụ; khi lá già thì chỉ có lá phụ rụng còn trơ lại sóng lá trên thân. Thật ra, đó là một nhánh sinh trưởng có giới hạn và gọi là nhánh ngắn, trên nhánh ngắn nầy sẽ mang hoa và như vậy ở đây nhánh ngắn chỉ gồm có một lá.

Cách sắp xếp của lá trên thân

Lá thường mọc trên thân theo một thứ tự nhứt định gọi là diệp tự (phyllotaxy) và kiểu sắp xếp này đã được định sẳn trong đỉnh ngọn của thân, làm cho các lá không che lấp lẫn nhau và mỗi lá có đủ ánh sáng cần cho sự quang hợp. Cách mọc của lá cũng là một trong những tiêu chuẩn trong phân loại.

Thường người ta phân biệt có ba cách mọc của lá trên thân:

* Mọc cách / mọc xen khi chỉ có một lá ở mỗi mắt, lá ở hai mắt kề nhau không bao giờ nằm trên một đường thẳng.

* Mọc đối khi mỗi mắt mang hai lá mọc đối diện nhau, thường gặp kiểu lá mọc đối chéo chữ thập trong họ Hoa môi (Labiateae)

* Mọc vòng khi có hơn hai lá ở mỗi mắt, ta nói lá mọc thành luân sinh, thường có 3 ở trúc đào (Nerium), 4 lá ở Peperomia, 5 lá ở xác pháo (Russelia) hay nhiều hơn ở phi lao (Cassuarina), mộc tặc (Equisetum) …

Tiền khai lá

Trong chồi, các lá non sẽ xếp lại và sắp xếp thế nào để choán ít chổ nhất. Cách sắp đặt của lá non là tiền khai lá. Tiền khai lá là tính chất đặc trưng trong phân loại và được chia:

* Phẳng khi lá non xếp phẳng hay gần phẳng; gặp ở nhóm song tử diệp như trúc đào, cà phê, lài trâu (Tabernae montana) …

* Xếp dọc khi lá gấp xếp thành hai dọc theo gân chính như ở Plumeria …

* Xếp ngang khi lá gấp xếp theo hai lằn ngang như ở Liriodendron …

* Lá búp gấp đôi khi lá non gấp nếp thành hình chữ V hoặc chữ U theo gân giữa nhưng cũng có thể gập đôi và hướng ra ngoài thành hình . Ví dụ ở cúc, đậu, bạc hà và ở nhiều cây đơn tử diệp như lưỡi đòng, lúa …

* Nhăn khi lá xếp nhiều lần, gặp ở dừa, cau …

* Quấn khi hai bên diệp nhục quấn lại như mai, hay quấn tròn như chuối, gừng … hoặc quấn ngược khi bìa phiến quấn ra ngoài như trúc đào (Nerium), nghễ (Polygonum) … Đuôi mèo khi quấn như đuôi mèo, gặp ở ráng, Cycas …

* Cuốn ngoài khi hai mép lá của phiến cuốn về phía ngoài và trái lại là cuốn trong; cuốn tổ sâu khi lá non cuốn lại thành một ống xoắn kiểu tổ sâu.

Tiền khai lá có thể thay đổi theo sự phát triển của phiến lá.

Sự tiền khai lá