Too glam to give a damn nghĩa là gì năm 2024

Và tôi đưa cho anh ấy mẩu bánh đó, và điều tiếp theo bạn biết đấy, tất cả bánh quy trong tủ đều biến mất.

I have heard a little gossip in the town about a fete which it is proposed to give in my garden.

Tôi đã nghe một câu chuyện phiếm nhỏ trong thị trấn về một lễ hội mà nó được đề xuất để tổ chức trong vườn của tôi.

What matters to me is that you managed to smoke out that damn dog Major Ducos.

Điều quan trọng với tôi là ông đã hút được con chó chết tiệt đó, Thiếu tá Ducos.

Nurse gave him the biggest damn shot I've ever seen.

Y tá đã cho anh ta một phát súng chết tiệt lớn nhất mà tôi từng thấy.

Damn, never been up in here before.

Chết tiệt, chưa từng lên đây bao giờ.

When I was on trial, I didn't just give the jury a reason to let me go.

Khi tôi bị xét xử, tôi không chỉ cho bồi thẩm đoàn một lý do để tôi đi.

Nevertheless, it remained the responsibility of the General Assembly to give priority to topics of special interest and necessity to developing countries.

Tuy nhiên, Đại hội đồng vẫn có trách nhiệm ưu tiên các chủ đề đặc biệt quan tâm và cần thiết đối với các nước đang phát triển.

Damn doctors say I need a transplant.

Các bác sĩ chết tiệt nói rằng tôi cần cấy ghép.

Give her Froyo and braid her hair.

Đưa cho cô ấy Froyo và tết tóc cho cô ấy.

He didn't give a damn about what happened to you, just as long as it served his needs.

Anh ấy không quan tâm đến những gì đã xảy ra với bạn, miễn là nó phục vụ nhu cầu của anh ấy.

As soon as the Federals say so, and not one damn minute before.

Ngay sau khi Liên bang nói như vậy, và không một phút chết tiệt nào trước đó.

'John, you gonna eat that whole damn pig?'

"John, anh định ăn cả con lợn chết tiệt đó à?"

They don't even know the meaning of the word barter. You wanna stay in El Rey, you give them 30% of your loot;

Họ thậm chí không biết nghĩa của từ đổi hàng. Bạn muốn ở lại El Rey, bạn chia cho họ 30% chiến lợi phẩm của bạn;

My point would be that narrow spaces are so damn easy to read, that even a novice who has never seen it before instantly understands what it’s all about.

Quan điểm của tôi là không gian hẹp rất dễ đọc, đến nỗi ngay cả một người mới chưa từng nhìn thấy nó trước đây cũng có thể hiểu ngay nó là gì.

If I never hear wheels up again, it'll be too damn soon.

Nếu tôi không bao giờ nghe thấy bánh xe nữa, nó sẽ sớm quá.

I would give them the original and I would keep the copy?

Tôi sẽ cung cấp cho họ bản gốc và tôi sẽ giữ bản sao?

Ah,damn,i picked the wrong side.

A, chết tiệt, tôi đã chọn sai phía.

Non-minors on the street after sundown will be expected to have a damn good reason to be.

Những người không phải là trẻ vị thành niên trên đường phố sau khi mặt trời lặn sẽ được cho là có lý do chính đáng.

Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Tôi cứ nhớ hoài ánh mắt nam tài tử Clark Gable khi anh thủ vai nhân vật Rhett Butler ở lần đầu tiên chạm mặt Scarlett O’hara. Khác chi một tay đểu giả ngạo mạn, à không, phải gọi là gương mặt Macho với hàm ria lếu trứ danh.

“Well, my dear, take heart. Some day, I will kiss you and you will like it. But not now, so I beg you not to be too impatient.” (Hăng hái lên nào em yêu. Rồi đến một ngày, anh sẽ hôn em và em sẽ tận hưởng nó. Nhưng không phải là lúc này, chính vì thế anh khẩn cầu em đừng quá mất kiên nhẫn). “Gã chết tiệt” nào lại nói câu đó với người mình yêu, hắn là Rhett Butler.

Too glam to give a damn nghĩa là gì năm 2024

Ấn tượng của Gone with the wind là nhờ những câu thoại có một không hai của diễn viên

Khán giả điện ảnh thường thích thú với những cảnh quay công phu, chiêm ngưỡng vẻ đẹp và sự hóa thân xuất thần của diễn viên, bên cạnh đó, điều làm họ ấn tượng sâu sắc khi xem những bộ phim kinh điển như Gone with the wind là nhờ những câu thoại có một không hai dạng như trên…

Nếu như những câu nói của Rhett Butler thường thể hiện sự thách thức từ bên trong con người quá đỗi tự tin vào bản thân, thì anh chàng điệp viên lừng danh 007 cũng có một câu “tự giới thiệu” thuộc loại kinh điển: “My name’s Bond, James Bond!”, đơn giản mà đầy đủ ý nghĩa. Bond là ai cơ chứ? Chàng điệp viên săn lùng tội phạm mà hầu như lúc nào cũng giới thiệu mình thành thật đến vậy, ngoài đời chắc chẳng bao giờ có. Câu nói này thậm chí còn là đề tài cho những tín đồ điện ảnh bàn luận, xem trong số 6 diễn viên từng nhập vai 007: Roger Moore, Sean Connery, George Lazenby, Daniel Craig, Pierce Brosnan, Timothy Dalton, ai mới là người thể hiện câu này hấp dẫn nhất hoặc… tệ hại nhất.

Năm 2005, Viện Điện ảnh Hoa Kỳ (AFI) cho ra danh sách 100 câu thoại đáng nhớ nhất trong lịch sử. Đa phần là những câu thoại ngắn, có câu siêu ngắn chỉ có 1 từ. Thực tế những câu thoại trên đi vào ký ức nhiều thế hệ nhờ giá trị hiện thực, ngẫu nhiên nhưng đầy cuốn hút.

Sát thủ người máy do Arnold Schwarzenegger đóng trong Terminator để lại lời nhắn “I’ll be back” trước khi tông thẳng chiếc xe vào đồn cảnh sát như dằn mặt những con người chân yếu tay mềm mà không biết trời cao đất dầy. Có thể xem đây là trường hợp tiêu biểu cho một câu nói hết sức thông dụng thường ngày ở các quốc gia dùng Anh ngữ nhờ sức mạnh của điện ảnh đã biến nó thành một khẩu hiệu. Anh sẽ trở lại! Nhưng vào lúc nào, ở đâu? Thì tương lai không xác định là phương cách hữu hiệu giúp các nhà làm phim Hollywood tận dụng tối đa trí tưởng tượng để thực hiện những phần tiếp theo. Kể từ đó, lời thoại “I’ll be back” được xem là đặc điểm nhận diện không thể thiếu của loạt phim Terminator.

Too glam to give a damn nghĩa là gì năm 2024

“I’ll be back” – đặc điểm nhận diện không thể thiếu của loạt phim Terminator

Ở một cuộc phỏng vấn năm 2012, tức 28 năm sau khi bộ phim Terminator đầu tiên ra đời, Schwarzenegger mới tiết lộ bản thân đã gặp khó khăn khi phát âm dạng viết tắt “I’ll” trong câu, ông đã đề nghị chuyển thành “I will” nhưng đạo diễn Cameron nhất mực không đồng ý. Sau này Schwarzenegger còn tận dụng lối nói trên qua nhiều bộ phim khác nữa (Commando, Raw Deal, Junior, The 6th day…).

Bên cạnh đó, có những câu mang tính giai thoại từ trong phim đến ngoài đời, như câu nói chỉ gồm 1 từ “Rosebud” trong bộ phim Citizen Kane. Tuy Kane là nhân vật hư cấu nhưng ai cũng biết phim đó dựa theo cuộc đời của tay trùm truyền thông William Hearst thời bấy giờ. “Nụ hồng” bí ẩn thốt ra từ cửa miệng một gã trùm tư bản trước lúc lâm chung khiến ai nấy đều ngạc nhiên tự hỏi nó có ý nghĩa gì. Một từ thôi cũng là lời dẫn cho bộ phim bất hủ. Vô vàn ý kiến tranh luận, trong phim lẫn ngoài đời về “Kane’s Rosebud”. Nụ hồng của Kane không tượng trưng cho khối tài sản khổng lồ, bởi trước khi mất nó còn giá trị gì nữa khi ông đã buông tay cơ hội duy nhất có thể sống trong tình yêu, để rồi ông chỉ nhớ về thời thơ ấu, nhớ về những gì của một thời vô tư lự đã bị đánh cắp… Do đó, không phải là vô cớ khi William Hearst đã tìm mọi cách để trù dập khiến bộ phim Citizen Kane không được đánh giá cao lúc khởi chiếu. Thế còn những tin tức về cuộc đời thật của William Hearst và cái tên Rosebud (người tình của Hearst),

đây lại là một câu chuyện khác…

Too glam to give a damn nghĩa là gì năm 2024

Citizen Kane – Bộ phim bất tử nổi tiếng với lời thoại một từ “Rosebud”

Điện ảnh khó khi nào là thực tế, nhờ đó mà mầu nhiệm đến lạ kỳ, có thể lắp điều đơn giản đi trên con đường bất tận của cảm xúc. Bản thân người viết không quan tâm lắm đến thứ tự câu thoại trong bảng xếp hạng vô chừng của AFI. Đó chỉ là một danh sách công nhận tầm quan trọng của 100 lời thoại ấn tượng mà những bộ phim hình mẫu đương nhiên phải có. Ở góc độ xã hội nhìn vào thật ra chỉ là những câu Anh ngữ không hơn, chúng chỉ thật sự phát huy hết giá trị khi được đưa vào những tình huống cụ thể trên phim, có nên thêm chăng một vài tình huống trong cuộc sống (!)

Trở lại với chàng Rhett đầy ngạo khí, lần này thì tôi đồng ý với AFI, tôi ấn tượng nhất câu nói cuối cùng của Rhett trước lúc bỏ đi: “Frankly, my dear, I don’t give a damn (Thật lòng mà nói, em yêu ạ, anh đây cóc cần quan tâm)”. Chỉ vậy thôi, Rhett đã lấy đi nước mắt và làm tan chảy bao trái tim khán giả. Rhett à, Scarlett đã biết sai rồi, hãy cho cô ấy một cơ hội thì có hề chi. Trước đây anh cũng bỏ công ra chinh phục cô ấy đấy thôi. Nhưng không, Rhett đủ bản lĩnh và quyết đoán để từ bỏ người anh ta yêu thương nhất, anh ấy hoàn tất điều nhiều người cho là khó khăn nhất thật “gọn gàng”. Tôi tự hỏi (một lần nữa), có ai trong chúng ta vào lúc chia tay người yêu hay vợ/chồng mà còn đủ lý trí để thốt lên một câu đanh thép nhưng vẫn muốn bung trào tình yêu đến thế? Trong tiểu thuyết, thật ra lời thoại trên chỉ là: “My dear, I don’t give a damn”, tuy nhiên bộ phận chuyển thể từ kịch bản gốc Gone with the wind đã làm nên lịch sử chỉ bằng cách thêm từ “frankly” phía trước, vậy mới thấy điện ảnh tuyệt diệu từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất.

“After all, tomorrow is another day” – Dù là điện ảnh hay cuộc sống thường nhật, ngày mai sẽ luôn tươi đẹp hơn…