Traần thủ độ là ai

Trần Thủ Độ là nhân vật đặc biệt trong lịch sử nước ta khi là người có vai trò to lớn trong việc chuyển giao ngai vàng từ họ Lý sang họ Trần. Tranh cãi về các hành động của Trần Thủ Độ trong lịch sử rất lớn nhưng đến giờ, đa phần đều phải thừa nhận ông là người có công lớn trong việc giúp đất nước giữ vững nền độc lập. Hành động, lời nói của Trần Thủ Độ đều được ghi lại khá rõ trong lịch sử nhưng thân thế của ông lại không được sử ghi chép nhiều.

Hình ảnh Trần Thủ Độ trên phim.

Những gì mà các bộ chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư hay Khâm Định Việt sử thông giám cương mục ghi lại chỉ cho biết Trần Thủ Độ là em họ của Thái Tổ Trần Thừa và khiến đời sau tin rằng Trần Thủ Độ đương nhiên là cháu nội của Trần Háp [hay Trần Hấp]. Gần đây, có tài liệu cho rằng thân sinh Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị nhưng đã bị hậu duệ họ Trần phản ứng dữ dội vì cho rằng Trần Hoằng Nghị là nhân vật không có thật.

Theo trang web của gia tộc họ Trần [donghotrannguyenhan] thì Trần Hấp không phải là ông nội của Trần Thủ Độ mà Trần Hấp là anh ruột của Trần Tự Duy và Trần Tự Duy mới là ông nội của Trần Thủ Độ. Cụ thể, Trần Hấp ở đất Thái Đường sinh ra Trần Lý. Trần Lý lại sinh ra các con Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung, Trần Thị Tam Nương.

Người em là Trần Tự Duy ở đất Lưu Xá bên cạnh [nay là thôn Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình] sinh ra Trần Thủ Huy, Trần Thủ Huy lại sinh ra Trần Thẩm [tước An Quốc Vương] và Trần Thủ Độ. Như vậy nếu xét từ đời Trần Tự Kinh thì Trần Tự Hấp thuộc cành trưởng, Trần Tự Duy thuộc cành thứ. Đến đời Trần Thừa và Trần Thủ Độ là quan hệ anh em nhưng khác cành hay nói cách khác là anh em chung cụ nội [Trần Kinh] chứ không phải chung ông nội Trần Hấp.

Trang web của gia tộc cũng dẫn câu chuyện trong cuốn "Phật hoàng Trần Nhân Tông, tác giả Trần Trương, nxb Văn hóa - Thông tin 2009" để đưa ra thông tin: "Trần Thủ Huy vốn là một trang nam nhi tuấn tú và dũng mãnh. Gặp người bị nạn, Thủ Huy đã ra tay cứu giúp. Không ngờ người đó lại là vị thái tử nhà Lý tên là Lý Long Xưởng. Thái tử mang ơn kết tình huynh đệ với Thủ Huy. Thủ Huy giúp Lý Long Xưởng dẹp loạn trừ gian trong hoàng tộc nhà Lý nên được vua gả công chúa Đoan Nghi, trở thành phò mã có quyền, có chức trong triều đình".

Tháng 9 năm Giáp Ngọ [1174], Thái tử Lý Long Xưởng phạm tội với vua cha là Lý Anh Tông, bị vua cha phế truất làm thứ nhân và bắt giam [Long Xưởng thông dâm với cung phi của vua, vua không nỡ bắt tội chết]. Vì thế những người thân tín của Long Xưởng đều bị loại trừ. Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi bị đẩy đi sứ nước Kim, nước Liêu [thực ra thời điểm 1174 thì nước Liêu đã bị Kim tiêu diệt] không có ngày về. Trần Thủ Độ lớn lên được gửi về nước ở với bác là Trần Lý, sau đó cùng bác Trần Lý khởi nghiệp nhà Trần.

Đồng thời phân tích đánh giá: Điều này thấy là rất hợp lý bởi Trần Thủ Độ thường nói: “Ta không biết chữ nghĩa gì” có nghĩa là ở với cha mẹ tại nước Kim thì không có điều kiện học hành như ở trong nước, mà chỉ được cha mẹ dạy dỗ ở nước ngoài mà thôi. Lớn lên, Trần Thủ Độ được gửi theo đoàn liên lạc ngoại giao về nước ở với bác là Trần Lý rồi tham gia khởi nghiệp nhà Trần. Khi phải đi sứ như vậy thì Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi gửi con trai Trần Thẩm ở lại nhờ bác Lý nuôi dạy.

Và cũng theo đó, tuy không được học hành đầy đủ nhưng Trần Thủ Độ vì được sống và trưởng thành ở nước Kim nên hiểu rất rõ quân Nguyên Mông, biết chỗ mạnh, chỗ yếu của chúng, và tìm ra được cách đánh thắng chúng cho nên khi chúng kéo quân sang đánh nước ta thì nhiều kẻ lo sợ muốn đầu hàng, nhưng Trần Thủ Độ lại mạnh mẽ trả lời trước Hoàng đế Trần Thái Tông: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”.

Tài liệu của TS. Trần Hoàng Bách trên trang của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Thái Bình cũng có chi tiết tương đồng khi dẫn chi tiết hơn: Theo gia phả của con cháu Trần Ích Tắc tại Trung Quốc, thì Trần Thủ Huy là một tướng giỏi đời vua Lý Anh Tông, nên được nhà vua giả công chúa Lý Đoan Nghi làm vợ. Công chúa Lý Đoan Nghi là con của vua Lý Anh Tông với bà thần phi Bùi Chiêu Dương, nên Trần Thủ Độ là cháu ngoại vua Lý Anh Tông, là con của Phò mã Trần Thủ Huy và Công chúa Đoan Nghi [con vua Lý Anh Tông].

Đáng tiếc là chúng ta không có nhiều sử liệu hơn để củng cố thông tin về việc Trần Thủ Độ chính là cháu ngoại của vua Lý Anh Tông. Đây là một giả thuyết được hậu duệ họ Trần ngày nay khá tin tưởng.

Nếu có thêm sử liệu để chứng minh thực sự Trần Thủ Độ là cháu ngoại của vua Lý Anh Tông thì chúng ta sẽ lại phải hoài nghi chi tiết được ghi trong chính sử là Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Nếu Trần Thủ Độ là cháu ngoại của Lý Anh Tông thì đâu có thể tuyệt tình với họ mẹ như vậy.

Đại Việt Sử ký toàn thư chép là: [Năm1232]… Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Khi ấy Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết”.

Tuy nhiên, không phải cái gì sử chép là chúng ta có thể tin ngay mà cần thử suy nghĩ theo hướng khác, hợp lý và nhân văn hơn. Đó phần chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp ở các bài sau.

Các tổ tông đời trước Trần Thái Tông

Trần Tự An sinh ra Trần Tự Mai

Trần Tự Mai sinh ra Trần Tự Kinh [sau được truy tôn là Mục Tổ hoàng đế]

Trần Tự Kinh sinh Trần Hấp [sau được truy tôn là NinhTổ hoàng đế]

Trần Hấp sinh ra Trần Lý [sau được truy tôn là Nguyên Tổ hoàng đế]

Trần Lý sinh ra Thái Tổ Trần Thừa

"Họ Trần dòng thống tôn có chữ đệm là “Tự” cư ngụ ở Kinh Bắc, truyền đến đời Trần Tự An [1010 - 1077] mỗi ngày thêm hiển hách trong giới võ lâm của Đại Việt. Để phân biệt với các võ phái khác, Tự An đặt tên cho võ phái của mình là Đông A, triết tự chữ “Trần” ra hai chữ “Đông” “A” mà thành. Thời ấy ở Đại Việt ta có ba võ phái nổi danh: võ phái Lĩnh Nam xuất phát từ đất Mê Linh sau lưu truyền quanh vùng Tam Đảo - Ba Vì; võ phái Hoa Sơn xuất phát ở Kinh Bắc rồi lan truyền ra Thăng Long và các vùng phụ cận và võ phái Đông A của Tự An. Ba võ phái trên đều tràn đầy lòng tự tôn dân tộc, nhưng có sự khác nhau về hệ tư tưởng, lại muốn thống trị giới võ lâm cả nước nên mâu thuẫn khá gay gắt. Phái Lĩnh Nam sùng bái đạo Lão. Hai phái Hoa Sơn và Đông A cùng xuất phát ở Kinh Bắc, nhưng Hoa Sơn theo Phật giáo Nghiêm Hoa tông, còn Đông A theo Phật giáo Thiền tông. Phái Hoa Sơn thuộc hoàng tộc họ Lý nên đương nhiên lấn át phái Lĩnh Nam và Đông A về nhiều phương diện. Thế nhưng Đông A với sự dìu dắt của Trần Tự An hồi ấy có “Côi Sơn tam anh” là ba nhân vật võ công lừng lẫy: Thanh Mai, Tự Mai và Thông Mai.

Trước khi qua đời, Tự An khuyên con trai Tự Mai nên tìm cách chuyển võ đường Đông A đi nơi khác, tránh sự xung đột với phái Hoa Sơn, có hại cho sự nghiệp chung của võ lâm Đại Việt. Lúc đầu Tự Mai chuyển đến ở Đông Triều - Chí Linh, sau đến đời con [khoảng cuối thế kỷ XI] là Trần Tự Kinh chuyển đến dừng chân ở Tức Mạc với hai người con trai rất giỏi võ là Trần Tự HấpTrần Tự Duy. Về cuối đời, ông nghe theo lời của con trưởng Tự Hấp chuyển hẳn về đất Thái Đường, định cư lâu dài, có nhiều ân đức với dân trong vùng. Đến đời Tự Hấp kế tục làm trưởng môn phái võ Đông A, thanh thế họ Trần đã rất lớn".

Giết hại hoàng tộc nhà Lý, cưới hoàng hậu nhà Lý cùng họ Trần, yêu cầu hoàng thân nhà Trần lấy người cùng họ – Những việc Trần Thủ Độ làm bị coi là đại nghịch bất đạo, đảo lộn luân thường, không thể lý giải, lại hoàn toàn có thể lý giải thông qua lá số tử vi của ông, qua xuất thân và quãng đời tuổi thơ không phải ai cũng biết của ông… Dù chúng ta không chấp nhận những hành động của Trần Thủ Độ, nhưng đã đến lúc giải mã tường tận con người ông.

Trần Thủ Độ là người có ảnh hướng lớn nhất đến lịch sử Đại Việt trong suốt nửa thế kỷ thay triều đổi đại từ Lý sang Trần. Ông theo bác mình là Trần Lý và anh họ là Trần Tự Khánh giúp nhà Lý đánh dẹp loạn khắp nơi, được phong làm Điện tiền chỉ huy sứ. Vua Lý Huệ Tông bệnh nặng lại không có con trai, Trần Thủ Độ đã để vua nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, rồi lại bàn bạc với các triều thần khác để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Từ đó, nhà Lý chấm dứt, nhà Trần lên thay.

Cảnh trong phim “Thái sư Trần Thủ Độ”. [Ảnh từ khampha.vn]

Tuy có ảnh hưởng lớn như vậy nhưng nguồn gốc xuất thân của Trần Thủ Độ không được các sách chính sử như “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “An Nam chí lược”, hay “Lịch triều hiến chương loại chí” chép rõ. Có nguồn sử liệu cho rằng Trần Thủ Độ người làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng [nay là xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình], lúc nhỏ ở với bác của mình là Trần Lý. Nhưng những thông tin ít ỏi này không thể nói rõ hết thân thế của Trần Thủ Độ.

Nguồn gốc xuất thân

Trong cuốn “gia phả họ Trần” có ghi chép rằng họ Trần khởi nguồn ở Kinh Bắc [Bắc Ninh ngày nay] suốt 1.000 năm, bắt đầu từ thời Trần Tự Minh, đến thời Trần Tự Viễn thì nổi tiếng bởi dòng võ học của mình. Để tránh dòng võ Đông A của mình xung đột với phái võ Hoa Sơn của nhà Lý [cùng ở vùng Kinh Bắc], nên đến đời Trần Tự Mai họ Trần đã chuyển võ đường đến Đông Triều, Chí Linh.

Đến đời Trần Tự Kinh thì họ Trần chuyển về Thái Đường nhờ biết được một vị trí phong thủy tốt [Xem bài: Phong thủy trong câu chuyện lên ngôi của nhà Trần]. Trần Tự Kinh có con là Trần Tự Hấp và Trần Tự Duy. Con trưởng Trần Tự Hấp là cố của vua Trần Thái Tông. Con thứ là Trần Tự Duy sinh được Trần Thủ Huy.

Sách “Trần Nhân Tông” có viết rằng:

Trần Thủ Huy vốn một trang nam nhi tuấn tú và dũng mãnh. Gặp người bị nạn, Thủ Huy đã ra tay cứu giúp. Không ngờ người đó lại là vị thái tử nhà Lý tên là Lý Long Xưởng, con vua Lý Anh tông. Thái tử mang ơn kết tình huynh đệ với Thủ Huy.

Là người giỏi võ nghệ và có tài thao lược, Trần Thủ Huy đã có công lớn dẹp loạn trừ gian trong hoàng tộc nhà Lý nên được nhà vua gả công chúa Đoan Nghi và trở thành phò mã tài ba của triều đình.

Tháp Bình Sơn thời Trần ở chùa Vĩnh Khánh, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. [Ảnh: Viethavvh/Wikipedia, Public Domain]

Thế nhưng sau này nghe theo lời gièm pha, nhà vua đã bắt Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi đi sứ phương xa tận nước Kim, nước Liêu [thuộc Mông Cổ ngày nay]. Đường xá xa xôi, trên một bến đò, công chúa Đoan Nghi trở dạ sinh được một bé trai, công chúa muốn đặt tên cho con trai có chữ “đò” để ghi nhớ sự kiện này. Trần Thủ Huy liền đặt tên cho con là “Độ” có nghĩa là “bến đò”. Từ đó đứa trẻ được mang tên Trần Thủ Độ.

Trần Thủ Độ lớn lên nơi thảo nguyên Mông Cổ, nên bị ảnh hưởng bởi văn hóa vùng thảo nguyên. Sau này sứ của nhà Lý đến Mông Cổ đón phò mã và công chúa về, nhưng Trần Thủ Huy thấy nhà Lý bội bạc với mình nên quyết định không trở về nữa. Vậy là công chúa Đoan Nghi mang theo con là Trần Thủ Độ trở về Đại Việt.

Bất hạnh thay, công chúa Đoan Nghi mất trên đường trở về. Đến Đại Việt, Trần Thủ Độ ở với bác của mình là Trần Lý. Đến thời điểm này các sử liệu mới đề cập về Trần Thủ Độ, các giai đoạn tuổi thơ khi ông ở Mông Cổ thì nhiều sách sử đều không hề biết đến.

Lớn lên ở nơi thảo nguyên, văn hóa Mông Cổ đã ăn sâu vào nếp nghĩ của Trần Thủ Độ. Chính vì thế mà những quyết định hết sức khó hiểu, thậm chí trái với đạo lý của Trần Thủ Độ bị các nhà sử học kịch liệt phê phán. Không ai biết rằng đó là do ảnh hưởng văn hóa Mông Cổ mà ông đã trải qua từ thở nhỏ.

Lấy hoàng hậu nhà Lý

Chuyện Trần Thủ Độ lấy hoàng hậu nhà Lý [cùng họ Trần] bị người đời sau cho là hành vi đê hèn và trái luân thường. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Thủ Độ coi việc đó là hết lòng trung, lo việc nước, nhưng có biết đâu thiên hạ đời sau chỉ mặt gọi là giặc giết vua, huống chi lại còn làm thói chó lợn.” Hàm ý rằng hành vi của Trần Thủ Độ như là cầm thú súc vật. Nhưng sự việc này lại có nguyên nhân sâu xa hơn nhiều.

Trần Thủ Độ – Cảnh trong phim “Thái sư Trần Thủ Độ”.

Trong bài “Người phụ nữ giúp Trần Quốc Tuấn giữ chức Quốc Công Tiết Chế đánh bại quân Nguyên Mông“, chúng ta đã có dịp bàn tới màn đánh cuộc tử vi nổi tiếng giữa Huệ Túc phu nhân và vua Thái Tông về thái sư Trần Thủ Độ [bấy giờ vua nói giả Trần Thủ Độ là ông lão làm vườn]. Trần Thủ Độ sinh vào giờ Tỵ ngày 6 tháng 6 năm Giáp Dần 1194, được Huệ Túc phu nhân phán về tình duyên như sau:

Cung thê của tiên sinh có Phá quân, ngộ Hóa quyền, Thai, lại bị Kiếp, Không chiếu thì duyên tình của tiên sinh rối như mớ bòng bong. Cho đến giờ này cũng chưa xong, còn chạy như ngựa nhong nhong.

Năm trên mười tuổi, tiên sinh gặp một người. Rồi hai người thề non, hẹn biển, định cuộc trăm năm, không cần mai mối, cũng chẳng thỉnh mệnh cha mẹ. Mà dù cha mẹ có cản trở, tiên sinh cũng không nghe nào!

Hai người xa nhau. Nàng tuân lệnh cha mẹ lấy chồng. Tiên sinh hóa điên, hóa khùng, nhưng nhất quyết trung thành với nàng. Vì vậy khi chồng nàng qua đời, tiên sinh với nàng nối lại tình xưa. À, có một điều tiểu nữ nói tiên sinh đừng giận. Kể về uy quyền, thì tiên sinh thuộc loại vương bất vi vương, bá bất vi bá, nhi quyền khuynh thiên hạ. Nghĩa rằng tiên sinh chẳng là vua, cũng chẳng là bá, mà quyền nghiêng thiên hạ. Thế nhưng, bất cứ một người ở địa vị cao sang cũng năm thế bẩy thiếp. Riêng tiên sinh thì chỉ biết có một phu nhân mà thôi!

Đây chính là lời giải cho hành vi lấy hoàng hậu nhà Lý, cùng họ Trần, của Trần Thủ Độ.

Khi Trần Thủ Độ ở nhà bác mình là Trần Lý, từ thuở thiếu thời đã để ý đến Trần Thị Dung, con của Trần Lý và là chị họ của mình. Theo tập tục họ Trần lúc ấy thì anh chị em họ cách nhau 3 đời thì có thể được kết hôn. Hơn nữa, ảnh hưởng bởi văn hóa Mông Cổ nên Trần Thủ Độ không cảm thấy có gì bất hợp lý khi yêu thương Trần Thị Dung. Hai người thề non hẹn biển mà hầu như không ai được biết.

Sau này để tránh nạn Quách Bốc, thái tử Sảm phải nương nhờ Trần Lý, thấy Trần Thị Dung xinh đẹp liền lấy làm vợ. Rồi thái tử lên ngôi vua gọi là Lý Huệ Tông, phong vợ Trần Thị Dung là nguyên phi, sau đó phong làm hoàng hậu [Xem bài: Phong thủy trong câu chuyện lên ngôi của nhà Trần].

Khu di tích đền Trần ở Thái Bình. [Ảnh từ wikipedia.org]

Bấy giờ Trần Thủ Đô bị mất người mình yêu thì rất căm hận thái tử Sảm, tuy nhiên vẫn theo Trần Lý và Trần Tự Khánh đánh dẹp các loạn đảng, để mong có cơ hội được gần Trần Thị Dung.

Sau này, Trần Thủ Độ dù làm quan to lên đến Điện tiền chỉ huy sứ, nhưng khác với những người khác có năm thê bảy thiếp, ông vẫn một mình đơn chiếc, cả đời ông chỉ có một mối tình duy nhất với Trần Thị Dung. Khi nhà Trần lên thay nhà Lý, Trần Thủ Độ đã cưới Trần Thị Dung, bất chấp đạo lý luân thường tại Đại Việt.

Giết hại hoàng tộc nhà Lý

Khi xem lá số cho Trần Thủ Độ, Huệ Túc phu nhân cũng nói rằng:

Thiên hình miếu địa ở mệnh, thì dù tiên sinh chịu ơn ai một bát cơm, sau sẽ trả bằng một kho thóc. Bị ai mắng một câu, sau này tiên sinh sẽ tru di tam tộc nhà người ta.

Cả đời Trần Thủ Độ chỉ biết đến một người là Trần Thị Dung, mối tình này bắt đầu từ khi còn rất nhỏ, thế nhưng thái tử Sảm nhà Lý đã lấy mất người con gái này, Trần Thủ Độ cũng không thể làm gì khi người đó là thái tử, nhưng ông hận trong lòng từ đó.

Cảnh trong phim “Thái sư Trần Thủ Độ”.

Hơn nữa, Trần Thủ Độ biết rằng cha mình là Trần Thủ Huy cũng không muốn về Đại Việt vì hận triều đình nhà Lý đã đối xử bất công. Trần Thủ Huy đã từng cứu Thái tử Lý Long Xưởng, giúp nhà Lý trừ nội gian trong triều, dẹp yên các loạn đảng. Thế nhưng chỉ vì nghe theo lời của kẻ gièm pha mà phò mã Trần Thủ Huy cùng công chúa Đoan Nghi bị đẩy đến tận vùng Mông Cổ xa xôi.

Đúng như Huệ Túc Phu Nhân nói, “bị ai mắng một câu, sau này tiên sinh sẽ tru di tam tộc nhà người ta”, Trần Thủ Độ đã diệt hoàng tộc nhà Lý bởi hai mối hận lớn trong lòng.

Người trong dòng họ lấy nhau

Trần Thủ Độ chủ trương là người trong hoàng tộc chỉ lấy người trong dòng họ. Các sử gia xưa nay vẫn cho rằng nhà Trần thông qua hôn nhân mà lấy được ngôi của nhà Lý, vì thế để đảm bảo ngôi vị vững bền, Trần Thủ Độ đã yêu cầu người trong dòng họ kết hôn với nhau, tránh việc bị người khác cướp ngôi.

Thực ra còn có một nguyên nhân khác là Trần Thủ Độ lớn lên tại thảo nguyên Mông Cổ, nơi đó anh em con chú con bác, cô cậu hay con dì đều có thể lấy nhau; phụ nữ tái giá là việc bình thường và đương nhiên; các Khả hãn ở Mông Cổ có nhiều vợ, với ai có công lao với mình thì Khả hãn cũng có thể đem một số phi tần nhường lại cho họ.

Bởi vậy có thể lý giải được tại sao khi hoàng hậu không thể sinh con trai cho vua Trần Thái Tông thì Trần Thủ Độ đưa vợ của anh vua là Trần Liễu đang mang thai 3 tháng đến làm vợ vua. Đây là quan niệm trên thảo nguyên ảnh hưởng.

Điều này cũng được Huệ Túc Phu Nhân đề cập đến khi xem lá số tử vi cho Trần Thủ Độ:

Nhưng tiếc rằng cung quan ngộ Thiên không[*], nên tiên sinh hành sự bất chấp luật pháp, chẳng kể đạo lý. Có lúc tiên sinh thành người nửa chính, nửa tà, nửa ma, nửa quỷ. Tiểu nữ e muôn nghìn năm sau còn bị dị nghị. Nhưng… dù ai dị nghị, thì chỉ dị nghị về cá nhân tiên sinh. Còn đối với đất nước, quả thật công nghiệp cũng như tấm lòng của tiên sinh sáng như trăng rằm, không ai chê trách được.

[*] Sao “Địa không” trong tử vi ngày nay án vị trí sao “Thiên không” trong tử vi cổ xưa.

Như vậy dù không chấp nhận những việc làm loạn luân thường đạo lý của Trần Thủ Độ, nhưng chúng ta có thể hiểu hơn về con người ông, về cuộc đời vốn nhiều bí ẩn của ông.

Được nước tự trời, mất nước tự trời

Nói về việc thay triều đổi đại, ngoài những nhận xét về tình hình rối ren thời bấy giờ và về Trần Thủ Độ, sử thần Ngô Sĩ Liên cũng nhắc hậu thế về một việc khác:

Tục truyền rằng Lý [Thái] Tổ khi mới được thiên hạ, xa giá về Cổ Pháp ngự chơi chùa ở hương Phù Đổng, có thần nhân đề thơ ở cột chùa rằng: “Nhất bất công đức thủy, Tuỳ duyên hoa thế gian. Quang quang trùng chiếu chúc. Một ảnh nhật đăng san” [Một bát nước công đức [của Phật], theo duyên sinh hoá ở thế gian. Sáng rực hai lần đuốc rọi, mặt trời gác núi là hết bóng]. Sư chùa là Vạn Hạnh đem bài thơ ấy dâng lên. Lý Thái Tổ xem xong rồi nói: “Việc của thần nhân thì không thể hiểu được”. Người đời truyền tụng, không ai biết thơ ấy nói thế nào. Đến khi nhà Lý mất, mới cho bài thi ấy là nghiệm. Vì từ đời Huệ Tông trở lên đến Thái Tổ là tam đời mà Huệ Tông tên là Sảm, tức là mặt trời gác núi, hết bóng. Thế thì nhà Lý được nước là tự trời, mất nước cũng là tự trời vậy.

Nên dẫu là “nửa chính, nửa tà, nửa ma, nửa quỷ”, thì âu Trần Thủ Độ cũng ứng vào đại kiếp mất nước của nhà Lý vậy.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video:

Video liên quan

Chủ Đề