Ví dụ về sự giống nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

C1

* Giống nhauCả hai quá trình nhận thức đều phản ánh hiện thực khách quan để có những hình ảnh về chúng.Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là quá trình tâm lý có mở đầu, có diễn biến và kết thúc.

* Khác nhau


Nhận thức cảm tính: là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
- Nhận thức lý tính: là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.

C2

- Nhận thức lý tính: là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.* đặc điểm: + Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng. + Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.

* VD:Để cải thiện tình hình giao thông vận tải người ta đã chế tạo ra nhiều loại phương tiện để giúp con người ta di chuyuển dễ dàng và nhanh chóng hơn như máy bay, ô tô,xe máy...

C3

- Chủ nghĩa duy vật:

Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn rất nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến Thần linh hay Thượng đế.

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng.

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy

- Chủ nghĩa duy tâm:

Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.

+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể.

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng theo họ đấy là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v..

Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên; như vậy là đã bằng cách này hay cách khác thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình. Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí.

Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.

Cùng với nguồn gốc nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm ra đời còn do nguồn gốc xã hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Các giai cấp thống trị và những lực lượng xã hội phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị - xã hội của mình.

Một học thuyết triết học thừa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh thần) là nguồn gốc của thế giới được gọi là nhất nguyên luận (nhất nguyên luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm).

Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học xem vật chất và tinh thần là hai nguyên thể tồn tại độc lập, tạo thành hai nguồn gốc của thế giới; học thuyết triết học của họ là nhị nguyên luận. Lại có nhà triết học cho rằng vạn vật trong thế giới là do vô số nguyên thể độc lập tạo nên; đó là đa nguyên luận trong triết học (phân biệt với thuyết đa nguyên chính trị). Song đó chỉ là biểu hiện tính không triệt để về lập trường thế giới quan; rốt cuộc chúng thường sa vào chủ nghĩa duy tâm.

C4

Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng, sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan nói chung đều ở trong những mối liên hệ, trong sự vận động và phát triển theo những qui luật khách quan vốn có của nó.

Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng, mọi sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau, cái này ở bên cạnh cái kia và nó luôn ở trong trạng thái tĩnh không có sự vận động và phát triển. Nhưng nếu như có thừa nhận sự phát triển thì chẳng qua chỉ là một quá trình tăng hoặc giảm về số lượng. Mặt khác, quan điểm này không thừa nhận mâu thuẫn bên trong bản thân các sự vật và hiện tượng.

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit.Morbi adipiscing gravdio, sit amet suscipit risus ultrices eu.Fusce viverra neque at purus laoreet consequa.Vivamus vulputate posuere nisl quis consequat.

Create an account

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những khái niệm quan trọng của môn tâm lý học. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người không hiểu rõ về chúng. Vậy nên hôm nay bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn về khái niệm, so sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Mời các bạn cùng theo dõi!

Sau khi tìm hiểu kỹ về các khái niệm: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Chúng ta sẽ cùng nhau so sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.

Ví dụ về sự giống nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý trí có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có nhận thức cảm tính thì sẽ không có nhận thức lý tính. Và nếu không có nhận thức lý tính thì chúng ta cũng sẽ không thể nào biết rõ về bản chất của sự việc, hiện tượng. Tóm lại, Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có mối quan hệ tương quan hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau cùng phát triển.

Tiêu chí so sánh Nhận thức cảm tính Nhận thức lý tính
Bản chất và hình thức 
  • Là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức của con người. Đây là giai đoạn mà con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm mục đích nắm bắt sự vật đó.
  • Các hình thức của nhận thức cảm tính: Cảm giác, tri giác và biểu tượng.
  • – Là giai đoạn phản ánh sự trừu tượng, khái quát về sự vật.
  • – Các hình thức của nhận thức lý tính: Khái niệm, phán đoán và suy luận.
Đặc điểm
  • Phản ánh trực tiếp các đối tượng bằng các giác quan của chủ thể.
  • Giai đoạn này cũng có thể có trong tâm lý của động vật.
  • Phản ánh bề ngoài, cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, cái có bản chất và cái không bản chất.
  • Chưa thể khẳng định được các mặt, các mối quan hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. 
  • Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật và hiện tượng.
  • Là quá trình chúng ta đi sâu tìm hiểu về bản chất của chúng.
  • Phản ánh sự vật hiện tượng rõ hơn và đầy đủ hơn. 

Nhận thức cảm tính còn được biết tới là những trực quan sinh động (phản ánh các thuộc tính ở bên ngoài thông qua cảm giác và tri giác), là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đây chính là một trong các giai đoạn quan trọng của quá trình nhận thức mà con người sử dụng các loại giác quan để tác động vào sự vật, sự việc nhằm nắm bắt được sự vật và sự việc ấy.

Ví dụ về sự giống nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính chính là giai đoạn đầu quan trọng của quá trình nhận thức

Nhận thức cảm tính gồm có các hình thức sau:

  • Cảm giác: Đây là một hình thức nhận thức cảm tính phản ánh về các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng có sự tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác chính là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hóa những nguồn năng lượng kích thích từ bên ngoài để hình thành các yếu tố ý thức.

VD: Khi chúng ta chạm tay vào nước nóng, bàn tay sẽ có cảm giác nóng và có phản ứng co lại ngay.

  • Tri giác: Hình thức nhận thức cảm tính này phản ánh tương đối toàn vẹn về sự vật khi nó đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Tri giác chính là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận đầy đủ hơn và phong phú hơn. Trong tri giác có chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật, hiện tượng.

VD: Khi chúng ta cầm một quả bóng đá, thông qua các giác quan sẽ nhận biết được quả bóng này có hình cầu, làm bằng chất liệu da và có hai màu đen, trắng.

  • Biểu tượng: Là hình thức của nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh về các sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại khi sự vật đã không còn tác động trực tiếp vào các giác quan nữa. Trong biểu tượng vừa chứa đựng các yếu tố trực tiếp, vừa chứa đựng các yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành là nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các loại giác quan và có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng có thể phản ánh được những thuộc tính đặc trưng, nổi trội của các sự vật.

VD: Khi nhắc đến chiếc xe đạp, chúng ta sẽ lập tức hình dung ra được nó là phương tiện có hai bánh làm bằng cao su, có bàn đạp, tay lái và ghi đông.

||Xem thêm: So sánh cảm giác và tri giác trong quá trình nhận thức

Nhận thức lý tính là tư duy trừu tượng (phản ánh về thực chất bên trong, bản chất của sự việc), là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát về sự vật được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận. 

Ví dụ về sự giống nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính và cảm tính bên nào nặng hơn?

Trong đó các hình thức:

  • Khái niệm: Sự hình thành ra khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hiện tượng. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, cũng vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong quá trình nhận thức bởi nó là cơ sở để chúng ta hình thành ra các phán đoán và tư duy khoa học.

Ví dụ: Thời điểm mà nhà nước chưa ra đời, mọi vấn đề của xã hội hầu hết đều được điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức hay cảm tính. Tuy nhiên, khi nhà nước được hình thành đã ban hành ra nhiều luật lệ, mệnh lệnh buộc những người dân phải tuân thủ. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, các quy định trên đã phát triển hoàn thiện thành pháp luật. Khái niệm pháp luật được hiểu như sau: Pháp luật là các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành ra hoặc thừa nhận để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mong muốn, ý chí của nhà nước.

  • Phán đoán: Đây là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để đưa ra sự khẳng định hay phủ định về một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.

Ví dụ: Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng chính là một phán đoán vì có sự liên kết giữa 2 khái niệm là: “dân tộc Việt Nam” và “anh hùng”.

  • Suy luận: Chính là hình thức tư duy trừu tượng liên kết giữa các phán đoán lại với nhau để có thể rút ra được một phán đoán có tính chất kết luận nhằm tìm ra tri thức mới.

Ví dụ: Nếu liên kết giữa các phán đoán “đồng dẫn điện” với “đồng là kim loại” với nhau thì chúng ta sẽ rút ra được tri thức mới là “mọi kim loại đều dẫn điện”. Tùy theo sự kết hợp của các phán đoán theo trật tự như nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch. Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng là phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.

Bên trên là những thông tin chúng tôi đã chia sẻ cho các bạn về vấn đề được nhiều người quan tâm của môn tâm lý học: So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính? Hy vọng bài viết sẽ giúp các bạn tìm được câu trả lời và làm bài kiểm tra, nghiên cứu tốt nhất.

||Xem thêm: