vì sao lại có nhiều thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm?

Trong tố tụng dân sự [ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt], đương sự yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.

luật sư giỏi

Như vậy, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình, nguyên tắc chung làđương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Tuy nhiên, trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. 

văn phòng luật sư

Về thời hạn giao nộp, Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định:

Khi vụ án được giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, theo khoản 4 Điều 96 Bộ Luật tố tụng dân sự, thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử.

luật sư bào chữa

Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp thì đương sự phải chứng minh lý do chính đáng của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó.

luật sư hình sự

Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ án dân sự.

luật sư ly hôn

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, theo quy định tại Điều 287 Bộ Luật Tố tụng dân sự, đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ sau đây: [i] Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng; [ii] Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.

luật sư nhà đất

Ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, theo quy định tại Khoản 1 Điều 330, Điều 357  Bộ Luật Tố tụng dân sự, đương sự có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án.

luật sư thừa kế

Tóm lại, về thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ, các đương sự phải giao nộp trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Việc giao nộp sau đó [tại phiên tòa sơ thẩm, giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm] thì việc giao nộp chỉ được chấp nhận khi [i] Đối với tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp, đương sự phải chứng minh được “lý do chính đáng” của việc giao nộp trễ, [ii] Đối với tài liệu, chứng cứ mà Tòa án không yêu cầu giao nộp, đương sự phải chứng minh được mình đã không thể biết được các tài liệu, chứng cứ này trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

luật sư uy tín

Việc xác định thế nào là “lý do chính đáng” hay cơ sở nào để xác định đương sự đã “không thể biết” được các tài liệu, chứng cứ này trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm pháp luật chưa quy định rõ, mà đánh giá nó thế nào là “lý do chính đáng”, thế nào là “không thể biết” lại phụ thuộc phần nhiều vào quan điểm của Thẩm phán. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết nàyTôi xin trình bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quy định về thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ và hậu quả của việc giao nộp tài liệu, chứng cứ trễ hạn.

công ty luật

Về nguyên tắc, tất cả các chứng cứ mà đương sự cung cấp khi đã quá thời hạn cung cấp do thẩm phán ấn định mà không có lý do chính đáng đều không được chấp nhận. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự, vì nhiều lý do khác nhau, các đương sự không giao nộp tài liệu, chứng cứ đúng hạn; có không ít trường hợp do nhận thức pháp luật hạn chế, không biết nên giao nộp, cần giao nộp ở thời điểm nào, sợ “lộ bài” cho đối phương biết nên không cung cấp cho Tòa án, đợi đến phiên tòa mới giao nộp. Vấn đề đặt ra là, dù giao nộp trễ hạn, dù không có lý do chính đáng, nhưng nếu các chứng cứ giao nộp trễ hạn đó có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan, làm thay đổi nội dung, bản chất của vụ án, mà nếu chấp nhận hay không chấp nhận sẽ làm đảo ngược pháp quyết của Tòa án. Trong trường hợp này, Thẩm phán có chấp nhận chứng cứ giao nộp trễ hạn hay không; việc từ chối xem xét các chứng cứ này, chấp nhận ra một bản án mà mình biết rằng, nếu không xem xét các chứng cứ trễ hạn, Bản án sẽ không đúng với sự thật khách quan liệu có phù hợp đạo đức và nhiệm vụ của tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân[Điều 2 Luật TTDS].

luật sư đất đai

Một mặt quy định nghĩa vụ giao nộp tài liệu chứng cứ là của đương sự, nhưng theo Khoản 2, Điều 97 Bộ Luật Tố tụng dân sự, trong trường hợp cần thiết Tòa án có thể tự mình thu thập chứng cứ. Thậm chí, theo Khoản 1, Điều 259 Bộ Luật Tố tụng dân sự, khi thấy “cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa”thì Hội đồng xét xử còn phải tạm dừng phiên tòa. Như vậy, dù việc chứng minh là nghĩa vụ của đương sự, nhưng Tòa án cũng không thể phó mặc; làm sáng tỏ sự thật, đưa ra một bản án công bằng, đúng với tình tiết khách quan là nhiệm vụ, mục tiêu của công tác xét xử. Rõ ràng rằng, khi hồ sơ, chứng cứ bị thiếu, dù đang xét xử Tòa án cũng phải tạm dừng phiên tòa để thu thập thêm, thì không có lý do gì để từ chối chứng cứ mà đương sự giao nộp tại phiên tòa, dù là trễ hạn, nếu các chứng cứ này có ý nghĩa quyết định, làm thay đổi nội dung vụ án.

ly hôn nhanh

Các quy đinh trên cho thấy, quy định về thời hạn giao nộp và hậu quả của việc giao nộp tài liệu, chứng cứ trễ hạn không có sự đồng nhất với các quy định khác trong Bộ Luật tố tụng dân sự. Điều này, dẫn đến sự “tùy nghi” của thẩm phán trong việc áp dụng pháp luật. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp tòa án. Không ít vụ án cấp sơ thẩm không xem xét chứng cứ trễ hạn nhưng Phúc thẩm lại xem xét; thậm chí, sơ thẩm, phúc thẩm không xem xét nhưng chứng cứ này lại được sử dụng làm cơ sở giám đốc thẩm, tái thẩm, dẫn đến bản án bị hủy, kéo dài thời gian giải quyết, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự.

thuê luật sư

Trong tố tụng dân sự, quan hệ quyền lợi – nghĩa vụ cần được giải quyết là quan hệ giữa các đương sự. Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự.Nhưng ở góc độ khác, nhiệm vụ của thẩm phán, của tòa án, của công tác xét xử là đưa ra một phán quyết đúng pháp luật và đúng với tình tiết, sự thật khách quan, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đương sự. Nếu phán quyết của tòa án, dù vì bất cứ lý do nào, nếu không phù hợp, không đúng sự thật khách quan thì rõ ràng là một sự thất bại của công tác xét xử. Do vậy, theo quan điểm của Tôi, Luật Tố tụng dân sự cần quy định rõ, việc không chấp nhận tài liệu, chứng cứ trễ hạn chỉ được áp dụng trong trường hợp chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, việc chấp nhận hay không chấp nhận không làm thay đổi nội dung, bản chất vụ án. Trong trường hợp ngược lại, Tòa án, thẩm phán phải xem xét chấp thuận. Điều này cũng phù hợp với nhiệm vụ, mục tiêu của luật pháp và công tác xét xử, đảm bảo sự thống nhất trong các quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Đoàn Thị Thu Hiền

Trợ lý Luật sư

.

Thời hạn chuẩn bị xét xử trong tố tụng dân sự có ý nghĩa vô cùng to lớn trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung. Nó góp phần quyết định thời gian, tiến trình giải quyết xong vụ án. Việc quy định thời hạn chuẩn bị xét xử giúp khống chế thời gian tối đa mà Tòa án cần phải tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án và trong thời hạn đó Thẩm phán ra một trong các quyết định: Công nhận sự thoả thuận của các đương sự; Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Đưa vụ án ra xét xử [khoản 3 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự]. Quy định này góp phần đảm bảo được mong muốn của đương sự khi khởi kiện vụ án dân sự là mong vụ án nhanh chóng được đưa ra giải quyết, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thời hạn chuẩn bị xét xử

Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định:

“1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:

a] Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

b] Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.

Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.”

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP quy định:

“2. Trong trường hợp Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án, thì [thời hạn chuẩn bị xét xử được xác định từ ngày hoàn thành thủ tục phản tố, yêu cầu độc lập]… ” 

Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng

Trong thực tiễn xét xử, những trường hợp nêu trên đều được áp dụng để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, có trường hợp Tòa án vẫn tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong một số trường hợp khác như khi đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng hoặc khi nhập/tách vụ án.

Trường hợp đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng:

Quan điểm một số Thẩm phán cho rằng sau khi đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng thì Tòa án phải tiến hành lại thủ tục kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, phải tiến hành thêm các bước thu thập chứng cứ nên phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày ra thông báo đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.

Theo quan điểm tác giả: Như đã viện dẫn các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tính thời hạn chuẩn bị xét xử, chưa có quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thông báo đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng. Mặt khác, theo điểm b khoản 2 Điều 204 BLTTDS có quy định “xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác” là thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Do đó việc Thẩm phán đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng và tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử là chưa phù hợp quy định của pháp luật.

Thực tế, đã có trường hợp Thẩm phán lạm dụng việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng để quay lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Chẳng hạn như đưa mỗi lần một hoặc vài người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử lại đưa tiếp một người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nữa, thậm chí còn dựa vào đó để gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, cứ như vậy làm vụ án kéo dài thời gian giải quyết, gây bức xúc cho đương sự.

Trường hợp nhập hặc tách vụ án:

Theo Điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật; Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật. Tuy nhiên vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về việc tính thời hạn chuẩn bị xét xử như thế nào trong các trường hợp nhập hoặc tách vụ án dân sự.

Có quan điểm cho rằng, sau khi nhập hoặc tách vụ án thì Tòa án phải tiến hành lại thủ tục kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, phải tiến hành thêm các bước thu thập chứng cứ nên phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày ra quyết định nhập, tách vụ án.

Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, đối với trường hợp nhập vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án sau khi nhập được xác định là thời hạn của một trong các vụ án được nhập có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại dài nhất. Hay nói cách khác, Tòa án tiến hành nhập những vụ án còn thời hạn chuẩn bị xét xử ít hơn vào vụ án có thời hạn chuẩn bị xét xử dài nhất. Ví dụ: Trường hợp nhập vụ án A và vụ án B vào vụ án C. Tại thời điểm nhập vụ án, vụ án A còn thời hạn chuẩn bị xét xử là 01 [một] tháng, vụ án B còn thời hạn chuẩn bị xét xử là 02 [hai] tháng, vụ án C còn thời hạn chuẩn bị xét xử là 03 [ba] tháng. Như vậy thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án C sau khi nhập là 03 [ba] tháng.

Đối với trường hợp tách vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại của vụ án đó cũng được xác định là thời hạn chuẩn bị xét xử của những vụ án được tách ra. Ví dụ: Trường hợp tách vụ án A thành vụ án A và B. Tại thời điểm tách, vụ án A còn thời hạn chuẩn bị xét xử là 03 [ba] tháng thì thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án B sau khi được tách ra từ vụ án A cũng được xác định là còn lại 03 [ba] tháng.

Tác giả cho rằng, do hiện nay chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về việc tính thời hạn chuẩn bị xét xử như thế nào trong các trường hợp nhập hoặc tách vụ án dân sự, do đó phải áp dụng Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP để tính thời hạn chuẩn bị xét xử; cụ thể như sau:

Đối với trường hợp nhập vụ án, tác giả thống nhất quan điểm là hai hay nhiều vụ án được nhập có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại khác nhau thì thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án sau khi nhập được xác định là thời hạn của một trong các vụ án được nhập có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại dài nhất. Do những vụ án trước khi nhập đều đã trải qua một thời gian chuẩn bị xét xử nhất định, đã được Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng, các biện pháp thu thập chứng cứ. Đồng thời, việc nhập vụ án nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án được thuận lợi hơn, đầy đủ và toàn diện hơn, không làm tăng tính phức tạp của vụ án. Nếu xác định lại thời hạn chuẩn bị xét xử từ ngày ra quyết định nhập vụ án thì có thể sẽ tạo ra tâm lý “bỏ bê” của Thẩm phán, để vụ án “nằm ì” đến khi có thời gian sẽ mang ra và nhập vụ án. Như vậy sẽ càng làm cho lượng án tồn không giảm mà còn tăng, kéo dài thời gian giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó không cần thiết phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày ra quyết định nhập vụ án, thời hạn của vụ nào còn dài nhất thì xác định đó là thời hạn của vụ án sau khi nhập.

Đối với trường hợp tách vụ án: Vụ án B sau khi được tách ra từ vụ án A thì Tòa án phải vào sổ thụ lý mới, ngày thụ lý vụ án B là ngày Tòa án ra quyết định tách vụ án. Do đó thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án B được tính từ ngày thụ lý, hay nói cách khác thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án B được tính từ ngày Tòa án ra quyết định tách vụ án. Đối với vụ án A, sau khi tách bớt một hay nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp, những thủ tục tố tụng hoặc những chứng cứ đã thu thập đúng quy định của pháp luật vẫn còn nguyên giá trị chứng minh, càng không có căn cứ để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Vì lẽ đó, thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án A trước khi tách cũng chính là thời hạn chuẩn bị xét xử của nó sau khi đã tách vụ án.

Do vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, cần có hướng dẫn của ngành cấp trên về cách tính thời hạn chuẩn bị xét xử khi Tòa án đưa thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng và khi nhập hoặc tách vụ án. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho Viện kiểm sát kiểm sát tốt việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật./.

Video liên quan

Chủ Đề