Viết quy trình ủ phân bằng phương pháp ủ nóng

Viết quy trình ủ phân bằng phương pháp ủ nóng
Ủ phân là biện pháp cần thiết trước khi đem phân chuồng ra bón ruộng.
Ảnh : hoinongdan.org.vn
Trung bình mỗi đầu gia súc nuôi nhốt trong chuồng, sau mỗi năm có thể cung cấp một lượng phân chuồng (kể cả độn) như sau: Lợn: 1.8 – 2.0 tấn/con/năm. Dê: 0.8 – 0.9 tấn/con/năm. Trâu bò: 8.0 – 9.0 tấn/con/năm. Ngựa: 6.0 – 7.0 tấn/con/năm. Độn chuồng vừa có tác dụng giữ ấm, tạo điều kiện khô ráo cho gia súc, vừa tăng thêm khối lượng phân. Vì vậy chất độn chuồng cần có tác dụng hút nước phân, nước giải, giữ đạm và tăng cả khối lượng lẫn chất lượng phân chuồng. Cần chọn chất độn chuồng tốt và tiến hành độn chuồng cẩn thận. Bà con nông dân thường dùng rơm rạ, thân lá cây họ đậu, cây phân xanh, lá cây, cỏ khô để làm chất độn chuồng. Ủ phân là biện pháp cần thiết trước khi đem phân chuồng ra bón ruộng. Bởi vì trong phân chuồng tươi còn có nhiều hạt cỏ dại, nhiều kén nhộng côn trùng, nhiều bảo tử, ngủ nghỉ của nấm, xạ khuẩn, vi khuẩn và tuyến trùng gây bệnh. Ủ phân vừa có tác dụng sử dụng nhiệt độ tương đối cao trong quá trình phân huỷ chất hữu cơ để tiêu diệt hạt cỏ dại và mầm mống côn trùng, bệnh cây vừa thúc đẩy quá trình phân huỷ chất hữu cơ, đẩy nhanh quá trình khoáng hoá để khi bón vào đất phân hữu cơ có thể nhanh chóng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây. Mặt khác, trong phân tươi tỷ lệ công nghệ cao, là điều kiện thuận lợi cho các loài vi sinh vật phân huỷ các chất hữu cơ ở các giai đoạn đầu hoạt động mạnh. Chúng sẽ sử dụng nhiều chất dinh dưỡng nên có khả năng tranh chấp chất dinh dưỡng với cây. Ủ phân làm cho trọng lượng phân chuồng có thể giảm xuống, nhưng chất lượng phân chuồng tăng lên. Sản phẩm cuối cùng của quá trình ủ phân là loại phân hữu cơ được gọi là phân ủ, trong đó có mùn, một phần chất hữu cơ chưa phân huỷ, muối khoáng, các sản phẩm trung gian của quá trình phân huỷ, một số enzym, chất kích thích và nhiều loài vi sinh vật hoại sinh. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ở nước ta với ẩm độ cao, nắng nhiều, nhiệt độ tương đối cao, quá trình phân huỷ các chất hữu cơ diễn ra tương đối nhanh… Sử dụng phân chuồng bán phân giải là tốt nhất, bởi vì ủ lâu phân ủ sẽ mất nhiều đạm. Chất lượng và khối lượng phân ủ thay đổi nhiều tuỳ thuộc vào thời gian và phương pháp ủ phân. Thời gian và phương pháp ủ phân ảnh hưởng đến thành phần và hoạt động của tập đoàn vi sinh vật phân huỷ và chuyển hoá chất hữu cơ thành mùn, qua đó mà ảnh hưởng đến chất lượng và khối lượng phân ủ. Để đảm bảo cho các quá trình hoạt động của vi sinh vật được tiến hành thuận lợi, nơi ủ phân phải có nền không thấm nước, cao ráo, tránh ứ đọng nước mưa. Đống phân ủ phải có mái che mưa và để tránh mất đạm. Cạnh nơi ủ phân cần có hố để chứa nước từ đồng phân chảy ra. Dùng nước phân ở hố này tưới lại đống phân để giữ độ ẩm cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho tập đoàn vi sinh vật hoạt động mạnh. Có 3 phương pháp ủ phân:Ủ nóng được thực hiện khi lấy phân ra khỏi chuồng để ủ, phân được xếp thành từng lớp ở nơi có nền không thấm nước, nhưng không được nén. Sau đó tưới nước phân lên, giữ độ ẩm trong đống phân 60 – 70%. Có thể trộn thêm 1% vôi bột (tính theo khối lượng) trong trường hợp phân có nhiều chất độn. Trộn thêm 1 – 2% supe lân để giữ đạm. Sau đó trát bùn bao phủ bên ngoài đống phân. Hàng ngày tưới nước phân lên đống phân. Sau 4 – 6 ngày, nhiệt độ trong đống phân có thể lên đến 60oC. Các loài vi sinh vật phân giải chất hữu cơ phát triển nhanh và mạnh. Các loài vi sinh vật háo khí chiếm ưu thế. Do tập đoàn vi sinh vật hoạt động mạnh cho nên nhiệt độ trong đống phân tăng nhanh và đạt mức cao. Để đảm bảo cho các loài vi sinh vật háo khí hoạt động tốt cần giữ cho đống phân tơi, xốp, thoáng. Phương pháp ủ nóng có tác dụng tốt trong việc tiêu diệt các hạt cỏ dại, loại trừ các mầm mống sâu bệnh. Thời gian ủ tương đối ngắn. Chỉ 30 – 40 ngày là ủ xong, phân ủ có thể đem sử dụng. Tuy vậy, phương pháp này có nhược điểm là để mất nhiều đạm. Ủ nguội thực hiện khi phân được lấy ra khỏi chuồng, xếp thành lớp và nén chặt. Trên mỗi lớp phân chuống rắc 2% phân lân. Sau đó ủ đất bột hoặc đất bùn khô đập nhỏ, rồi nén chặt. Thường đống phân được xếp với chiều rộng 2 – 3 m, chiều dài tuỳ thuộc vào chiều dài nền đất. Các lớp phân được xếp lần lượt cho đến độ cao 1,5 – 2 m. Sau đó trát bùn phủ bên ngoài. Do bị nén chặt cho nên bên trong đống phân thiếu oxy, môi trưởng trở nên yếm khí, khí cacbonic trong đống phân tăng. Vi sinh vật hoạt động chậm, bởi vậy nhiệt độ trong đống phân không tăng cao và chỉ ở mức 30 – 35oC. Đạm trong đống phân chủ yếu ở dạng amôn cacbonat, là dạng khó phân huỷ thành amôniăc, nên lượng đạm bị mất giảm đi nhiều. Theo phương pháp này, thời gian ủ phân phải kéo dài 5 – 6 tháng phân ủ mới dùng được. Nhưng phân có chất lượng tốt hơn ủ nóng. Phương pháp ủ nóng trước, nguội sau thực hiện khi phân chuồng lấy ra xếp thành lớp không nén chặt ngay. Để như vậy cho vi sinh vật hoạt động mạnh trong 5 – 6 ngày. Khi nhiệt độ đạt 50 – 60oC tiến hành nén chặt để chuyển đống phân sang trạng thái yếm khí. Sau khi nén chặt lại xếp lớp phân chuồng khác lên, không nén chặt. Để 5 – 6 ngày cho vi sinh vật hoạt động. Khi đạt đến nhiệt độ 50 – 60oC lại nén chặt. Cứ như vậy cho đến khi đạt được độ cao cần thiết thì trát bùn phủ chung quanh đống phân. Quá trình chuyển hoá trong đống phân diễn ra như sau: ủ nóng cho phân bắt đầu ngấu, sau đó chuyển sang ủ nguội bằng cách nén chặt lớp phân để giữ cho đạm không bị mất. Để thúc đẩy cho phân chóng ngấu ở giai đoạn ủ nóng, người ta dùng một số phân khác làm men như phân bắc, phân tằm, phân gà, vịt… Phân men được cho thêm vào lớp phân khi chưa bị nén chặt.

Ủ phân theo cách này có thể rút ngắn được thời gian so với cách ủ nguội, nhưng phải có thời gian dài hơn cách ủ nóng.Tuỳ theo thời gian có nhu cầu sử dụng phân mà áp dụng phương pháp ủ phân thích hợp để vừa đảm bảo có phân dùng đúng lúc vừa đảm bảo được chất lượng phân.


  • ủ phân
  • phân chuồng
  • cách ủ

rong thực tế, phân được thải ra không được bón ngay vì có những điểm không thuận lợi như sau:

  • Trong phân chuồng tươi có nhiều hạt cỏ dại, nếu bón cỏ dại sẽ mọc lấn át cây trồng, tốn công trừ cỏ
  • Đối với gia súc bị bệnh truyền nhiễm, bón phân chuồng dễ lây lan bệnh cho gia súc.
  • Phân chuồng tươi có nhiều rác độn, tỷ lệ C/N cao, quá trình phân huỷ sinh ra nhiều acid hữu cơ có hại cho cây trồng, đồng thời những chất dinh dưỡng dễ tiêu của phân và của đất phần lớn bị VSV hấp thu trong quá trình phân giải
  • Bón phân chuồng tươi rong rêu phát triển mạnh.
Ủ phân chuồng có thể làm cho trọng lượng phân chuồng giảm xuống nhưng chất lượng phân chuồng tăng lên. Sản phẩm cuối cùng của quá trình ủ phân là phân hữu cơ hay còn gọi là phân ủ. Trong phân có mùn, một phần chất hữu cơ chưa phân huỷ, muối khoáng, các sản phẩm trung gian của quá trình phân huỷ, một số enzim, chất kích thích, và nhiều loại vi sinh vật hoại sinh.
Sự cần thiết phải ủ phân chuồng:
  • Giảm các chất độc hại, mầm bệnh và cỏ dại
  • Tránh gây ô nhiễm môi trường
  • Tăng hiệu quả sử dụng, tăng độ dễ tiêu
  • Không gây hại đến cây trồng
4 giai đoạn biến đổi của quá trình ủ phân như sau:

Viết quy trình ủ phân bằng phương pháp ủ nóng
Các giai đoạn biến đổi của phân trong quá trình ủ

Các phương pháp ủ phân:
1. Ủ nóng hay ủ xốp
Dùng trong trường hợp khi phân chuồng có nhiều chất độn, tỷ lệ C/N của chất độn cao do vậy mà tỷ lệ C/N của phân bón cũng cao.
a. Tiến hành:
Phân đổ thành từng đống tơi xốp, thoáng khí, giữ ẩm 50 – 60%, ở ẩm độ này nhiệt độ lên cao 60 – 70oC, phân mau hoai, diệt cỏ dại, nhiều mầm bệnh nhưng mất nhiều đạm.
Có thể trộn thêm 1% vôi bột (tính theo khối lượng) trong trường hợp phân có nhiều chất độn. Thêm 1 – 2 % super lân để giữ đạm.
Sau đó trát bùn bao phủ bên ngoài đống phân.
Hàng ngày tưới nước lên đống phân.
b. Ưu, nhược điểm:
* Ưu điểm:
  • Phân mau hoai mục, thời gian ngắn (3 tuần)
  • Diệt hầu hết được cỏ dại, mầm bệnh
* Nhược điểm:
  • Tỉ lệ chất hữu cơ và đạm bị mất nhiều (trên 30%)
  • Phân chuồng ủ xốp nhiệt độ cao quá trình phân giải nhanh nên cũng được dùng trong trường hợp phân chuồng được lấy từ chuồng gia súc có bệnh hoặc các loại phân phân trâu bò có lẫn nhiều hạt cỏ.
2. Ủ nguội hay ủ chặt

Viết quy trình ủ phân bằng phương pháp ủ nóng
Phương pháp ủ phân nguội hay ủ chặt

a. Tiến hành:
Phân được nén chặt, đảm bảo cho đống phân tiến hành ủ trong điều kiện yếm khí, ở ẩm độ 50 – 60% nhiệt độ đống phân không lên cao quá 35oC. Dùng đất, rơm rạ hoặc than bùn phủ kín đống phân, phân được nén chặt, nhiệt độ không vượt quá 15 – 30oC, phân được phân giải trong điều kiện yếm khí hoàn toàn, chất hữu cơ được phân giải chậm. Trong điều kiện này, CO2 thoát ra kiềm hãm hoạt động của vi sinh vật, phân lâu hoai, không diệt được mầm bệnh và cỏ dại nhưng ít mất đạm (Đạm trong đống phân chủ yếu ở dạng amon cacbonat, là dạng khó phân huỷ thành amoniac nên ít mất). Theo phương pháp này, thời gian ủ phân kéo dài.
Phân được rải thành lớp rộng 1,5 – 3m, dày 0,30 – 0,40 m rồi nén chặt và tưới nước. Tuỳ theo số lượng phân người ta có thể tăng chiều rộng đống phân rồi tiếp tục xếp lớp khác với chiều rộng và chiều dài như trên rồi tưới, lưu ý chiều cao đống phân không nên cao quá 1,5 m, chiều dài thì tuỳ ý.
b. Ưu, nhược điểm:

Viết quy trình ủ phân bằng phương pháp ủ nóng
Cấu tạo đống ủ


* Ưu điểm: Tỉ lệ chất hữu cơ và đạm bị mất ít (dưới 10%)
* Nhược điểm: Phân lâu hoai mục, thời gian dài (3 – 4 tháng). Mầm bệnh, cỏ dại không được tiêu diệt triệt để.
3. Ủ hỗn hợp:
a. Tiến hành:
Phân được lấy ra chất thành đống không nén, cao 0,8 -1m, phân được phân giải trong điều kiện hiếu khí, chất hữu cơ phân giải mạnh, nhiệt độ nhanh lên cao. Sau 3- 4 ngày khi nhiệt độ đạt đến 60 -700C thì bắt đầu nén cẩn thận đống phân, tưới nước cho không khí không vào đống phân nữa, nhiệt độ hạ xuống 30 – 400C quá trình phân giải hiếu khí được thay bằng quá trình phân giải yếm khí, chất hữu cơ và đạm mất ít đi. Xếp lần lượt các lớp lên nhau cho đến khi đống phân cao khoảng 2 m thì nén lại phủ đất hoặc than bùn và bảo quản cho đến khi đem bón.
b. Ưu, nhược điểm:
Ưu điểm của phương pháp này là phân chuồng phân giải nhanh, hạt cỏ dại và mầm bệnh truyền nhiễm bị tiêu diệt nhưng chất hữu cơ và đạm mất nhiều hơn ủ nguội.
Phương pháp ủ hỗn hợp chỉ sử dụng khi phân chuồng có nhiều chất độn và loại phân này phải được đem bón càng sớm càng tốt.
Phương pháp này thường dùng khi trong phân có lẫn nhiều mầm bệnh, cỏ dại và khi bà con nông dân muốn nhanh có phân hoai bón ruộng