Vụ lúa đông xuân là gì

Với mỗi vụ lúa sẽ cho chất lượng gạo khác nhau. Vì thế người nông dân cần nắm chắc những kiến thức về vụ mùa lúa trong năm để thuận lợi cho việc canh tác, sản xuất khoa học. IDrone Việt Nam gửi đến bạn đọc những thông tin về các vụ lúa được trồng khắp ba miền Bắc – Trung – Nam. 

Tổng quan các vụ mùa lúa theo khu vực của nước ta. 

Việt Nam đã quá nổi tiếng về lúa gạo là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long. Hai đồng bằng này được biết đến là hai khu vực có diện tích trồng lúa lớn nhất nước. Vậy các vụ mùa lúa ở hai khu vực này có đặc điểm như thế nào?

Tìm hiểu các vụ mùa lúa ở đồng bằng Sông Hồng

Ở đồng bằng Sông Hồng có hai vụ mùa chính là lúa vụ mùa và lúa chiêm xuân. 

Vụ lúa chiêm xuân xanh mướt được trồng vào mùa khô. Nước tưới được cung cấp thường xuyên. Nhưng vào đầu mùa và giữa mùa thì lại có gió rét, cuối mùa lại nóng có mưa. Vụ lúa chiêm xuân là vụ mà cây lúa gặp nhiều tác động của môi trường nhất. Chính vì thế người nông dân phải chọn những loại giống lúa có khả năng kháng bệnh, khỏe, chống chịu được rét. Mùa vụ này nên gieo vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11 và tiến hành thu hoạch vào cuối tháng 5. 

Vụ lúa mùa ở đồng bằng Sông Hồng lại được chia làm 3 vụ như: Vụ mùa sớm, vụ mùa trung và vụ mùa muộn. Các vụ này thường được gieo từ cuối tháng 5 và thu hoạch và giữa tháng 11. Nên lưu ý chọn những giống cây ngắn ngày, có khả năng sinh trưởng tốt từ 105 ngày đền 120 ngày.

Các vụ mùa lúa ở đồng bằng văn biển Trung Bộ

Tại đây, hằng năm sẽ có 3 vụ mùa chính là: Vụ thu hè, vụ Đông xuân và vụ Mùa. Mỗi vụ sẽ có những đặc điểm khác nhau.

Với vụ mùa lúa Đông xuân: Thường được nông dân gieo vào cuối tháng 10 và thu hoạch vào tháng 4 hằng năm.

Vụ mùa lúa Hè thu được gieo vào cuối tháng 4 và thu hoạch vào tháng 9 hàng năm.

Vụ mùa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 11 hằng năm. Tùy vào địa điểm của từng nơi để chọn giống lúa phù hợp. Ví dụ như với những khu vực cần người hỗ trợ lấy nước thì thường chọn những giống lúa của khu vực phía Bắc. Khun vực nước chủ đồng thì chọn giống các tỉnh phía nam.

Diện tích của đồng bằng ven biển miền trung có địa hình tương đối dốc và hẹp nên đây được xem là yếu tố chính ảnh hưởng đến thời vụ và các phương thức chăm sóc. 

Các vụ mùa lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long

Đồng bằng Sông Cửu Long được biết đến với khí hậu nhiệt đới thuận tiện cho việc gieo trồng cây lúa. Tại đây, nông dân gieo trồng theo hai vụ: Vụ Chiêm và vụ Mùa. Đồng thời, cây lúa cũng được gieo trồng thêm vụ Hè Thu.

Vụ Mùa: Tận dụng thời tiết thích hợp, vụ mùa của cây lúa được gieo trồng vào khoảng cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6 và thu hoạch vào cuối tháng 11 hằng năm. Những loại giống lúa như MTL449, Nàng Hương, VND404, VND95-19,… là những giống lúa thích hợp cho vụ mùa này. Đặc biệt giống lúa dài ngày và thích hợp với mực nước sâu sẽ được ưu tiên chọn lựa. 

Vụ Chiêm xuân: Khoảng thời gian từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 12 là thời điểm thuận lợi cho việc gieo trồng lúa. Những loại như OM 5472, OM 6677, OM 4101, OM 3995, OM 5451, OM 8232,… được chọn trồng nhiều nhất. Đây là những giống cây ngắn ngày, thích hợp với thời tiết ở thời điểm này.

Vụ Hè thu: loại giống ưu tiên sản xuất là các giống lúa thơm, lúa đặc sản như Nàng Hoa 9, VD 20, ST25. Ngoài ra còn có những giống lúa chất lượng cao như Đài Thơm 8, OM 7347, OM 4218, Jamine 85. Cây lúa được gieo trồng vào đầu tháng 4 và thu hoạch vào cuối tháng 8. 

Đây là những thông tin chi tiết của các vụ mùa lúa trong năm ở Việt Nam từ IDrone Việt Nam cung cấp. Mong rằng những thông tin trên sẽ giúp bà con nông dân có thêm những kiến thức cần thiết.

Đăng nhập

GS TS Nguyễn Bảo Vệ

Trường Đại Học Cần Thơ

Hàng năm, nước nổi về Đồng bằng sông Cửu Long mang lại lợi ích cho đồng ruộng và cho cả nông dân sống ở vùng nầy. Đặc biệt năm nay, đến chu kỳ vào mùa nước nổi thì lương nước về đồng ruộng không nhiều, đó là hiện tượng bất thường của thời tiết, đã gây ra 1 thiệt hại, 3 bất lợi và 1 nguy cơ cho vụ lúa Đông Xuân của nhà nông chúng ta: [a] Thiệt hại cho người nông dân sống nhờ vào nghề phụ thuộc vào nguồn nước nổi, họ đã bị thất thu về nguồn lợi thủy sản, sự thất thu nầy kéo theo thất thu khác của một bộ phận những người làm nghề sản xuất dụng cụ đánh bắt, đóng xuồng, ghe; [b] Còn ba bất lợi cho vụ lúa Đông Xuân đó là: Lượng phù sa theo dòng nước tràn về bồi đắp cho đồng ruộng ít nên nông dân phải sử dụng nhiều phân bón hơn; Những dịch hại trên đồng ruộng như cỏ dại, ốc bưu vàng, chuột và sâu bệnh có điều kiện thuận lợi để phát triển, người nông phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nhiều hơn; Việc rửa độc chất phèn, mặn và độc chất hữu cơ bị hạn chế sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây lúa và nông dân phải tốn chi phí cải tạo đất nhiều hơn; và [c] Nguy cơ có thể xảy ra cho lúa vụ Đông Xuân là nguồn nước đổ về Đồng Bằng Sông Cửu Long ít, có thể sẽ gây ra thiếu nước tưới vào cuối vụ, đồng thời mặn có điều kiện để xâm nhập sớm và sâu vào nội đồng làm cho việc thiếu nước ngọt tưới cho lúa ở vùng ven biển trở nên trầm trọng hơn.

Tất cả những bất lợi trên đây sẽ làm đội giá thành sản xuất, làm tăng gánh nặng cho người trồng lúa. Để khắc phục phần nào những bất lợi cho vụ lúa Đông Xuân năm nay, nhà nông ta cần thiết phải tạo cho cây lúa khỏe ngay từ đầu vụ để cây lúa đủ sức chống chịu lại với dịch hại và điều kiện bất lợi của môi trường, giữ vững năng suất và chất lượng của hạt lúa. Bốn việc cần phải làm như sau:

  1. Không để dịch hại ảnh hưởng đến cây lúa ngay từ đầu vụ:

            - Diệt trừ cỏ dại: Diệt cỏ sớm ở giai đọan tiền nẩy mầm và phun dậm cỏ sót ở giai đoạn hậu nẩy mầm. Để diệt cỏ đạt hiệu cao cần phải chọn đúng thuốc [thuốc diệt cỏ tiền nẩy mầm, hậu nẩy mầm sớm hay hậu nẩy mầm], làm đất bằng phẳng, phun đúng thời điểm và pha đúng lượng theo hướng dẫn trên bao bì, mở bét phun mịn và phun thật đều, không phun lúc trời nắng gắt, khi phun đất phải đủ ẩm và vô nước ruộng sau khi phun 1-3 ngày để làm tăng hiệu lực của thuốc.

- Diệt ốc bưu vàng bằng biện pháp tổng hợp: thu gom ốc và ổ trứng; đào rãnh thu gom ốc trong ruộng và xung quanh ruộng; dùng lưới chắn ốc ở những chỗ có đường nước chảy vào ruộng; thả vịt vào ruộng ăn ốc; ở ruộng có nhiều ốc thì phải tăng lượng giống gieo sạ lên từ 5-10% so với những ruộng bình thường khác để trừ hao hụt do ốc ăn mất sau này; giữ mực nước ruộng sâu khoảng 2-3 phân;và có thể dùng thuốc rải vào những chỗ có nhiều ốc.

- Ngăn ngừa rầy nâu, bù lạch và bệnh lúa von: Xuống giống đồng loạt và đúng theo lịch thời vụ của địa phương để chủ động né rầy; ngâm hạt giống trong nước muối có nồng độ 15% [150 g muối pha trong 1 lít nước] để loại bỏ những hạt lúa lép, lửng mang mầm bệnh; trộn hột giống lúc ủ với những loại thuốc có khả năng phòng chống rầy nâu, bù lạch và bệnh lúa von ở giai đoạn đầu của cây lúa.

  1. Tạo cơ địa cho cây lúa khỏe ngay từ đầu vụ:

            - Chọn giống lúa có cơ địa khỏe: Đây là yếu tố quan trọng do đặc tính di truyền của giống quyết định. Do đó, ngoài việc chọn giống có năng suất cao và phẩm chất gạo tốt, nông dân cần phải chọn giống có tính kháng sâu, bệnh và chống chịu tốt với điều kiện môi trường như phèn, mặn hay hạn.

            - Hạt giống phải nẩy mầm tốt và khỏe mạnh: Không lấy lúa ở những ruộng bị sâu, bệnh đem làm giống; Ruộng lúa giống phải có đầy đủ dinh dưỡng; Tốt nhất nên sử dụng giống xác nhận; Cần kiểm tra độ nẩy mầm của hạt giống để tính lượng giống cần sạ trước khi ngâm ủ.

            - Cường lực cho cây lúa khỏe: Xử lý hột giống trong lúc ngâm ủ với những loại thuốc có khả năng giúp cho rễ lúa phát triển nhiều, mập mạnh, vươn dài để ăn sâu, hút được nhiều dưỡng chất làm cho cây khỏe, chống chịu tốt khi sâu, bệnh tấn công và chịu đựng được sự bất lợi của môi trường.

  1. Tạo môi trường sống phù hợp cho cây lúa ngay đầu vụ:

            Môi trường sống của lúa gồm thời tiết, nguồn nước tưới và đất canh tác. Thời tiết và nước tưới ở đầu vụ Đông Xuân thích hợp và thuận lợi nhất để cây lúa sinh trưởng và phát triển hơn so với những vụ mùa khác trong năm. Riêng đối với môi trường đất thì phèn, mặn trong đất ở đầu vụ Đông Xuân không phải là yếu tố bất lợi chính cho cây lúa, mà vấn đề ngộ độc hữu cơ mới là yếu tố bất lợi cần phải quan tâm đối với những vùng canh tác lúa liên vụ.

Rơm rạ, cỏ dại, lúa chét còn tươi chưa hoai mục khi chôn vùi chúng vào trong đất ngập nước, thiếu không khí sẽ bị vi sinh vật yếm khí phân hủy tạo ra nhiều acid hữu cơ và những độc chất khác. Những độc chất nầy ở nồng cao làm giảm khả năng hô hấp của rễ, sự hấp thu dưỡng chất kém và làm chết rễ. Do đó, cần có biện pháp để hạn chế ngộ độc hữu cơ cho cây lúa vào đầu vụ Đông Xuân theo nguyên tắc phòng ngừa, hóa giải độc chất và tăng cường sức chống chịu của cây lúa như sau: [a] Phòng ngừa ngộ độc hữu cơ: Di chuyển gốc rạ, cỏ dại, lúa chét ra khỏi ruộng, nếu muốn xuống giống sớm. Trong trường hợp trục vùi các vật liệu hữu cơ trên vào đất thì phải có thời gian để chúng phân hủy ít nhất 3 tuần; [b] Hóa giải độc chất hữu cơ: Sau khi sạ lúa được 2 tuần rút kiệt nước ruộng cho đến khi đất nứt chân chim rồi bơm nước mới vào và lặp lại như vậy khi cây lúa được 4 tuần; [c] Tăng cường sức chống chịu cho cây lúa bằng cách cung cấp các chất dinh dưỡng như can-xi, lân và silic.

  1. Cung cấp đủ dinh dưỡng cho lúa ngay từ đầu vụ:

            Dinh dưỡng cung cấp cho cây lúa trong giai đoạn đầu từ 2 nguồn thức ăn chính đó là từ bản thân hạt giống [phôi nhủ] và từ môi trường đất. Trong khoảng 10 hay 11 ngày đầu sau khi gieo, hạt lúa hút nước để thủy phân tinh bột, protein, chất béo, … thành những chất dinh dưỡng dễ tiêu cung cấp cho cây lúa non, đồng thời hạt giống cũng lấy không khí để thở tạo năng lượng cho các tiến trình biến dưỡng trong hạt. Chính vì vậy sau khi gieo, đất phải đủ ẩm và đủ không khí để cung cấp cho hạt giống và phải ngăn chận không cho vi sinh vật trong đất chia sẻ nguồn dinh dưỡng nầy với cây mạ non. Do đó, cần phải xử lý hạt giống với thuốc để bảo vệ toàn bộ nguồn dinh dưỡng nầy cho cây lúa non sử dụng.

            Để cây lúa khỏe ngay từ đầu vụ thì ngoài nguồn dinh dưỡng được cung cấp từ hạt gạo thì rễ cây lúa phải sớm lấy được nguồn dinh dưỡng từ đất. Do đó, cần phải bón lót vôi [loại vôi nung] với liều lượng từ 25-50 kg/công, và bón toàn bộ phân lân và một phần phân kali lúc làm đất.

Chủ Đề