Cảm nhận nhân vật khách trong phú sông bạch đằng

Đề bài: Anh/chị hãy Phân tích hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng

Mục Lục bài viết:
I. Dàn ý chi tiết
II. Bài văn mẫu

Phân tích hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng

I. Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng

1. Mở bài

- Sông Bạch Đằng đã là một địa danh quen thuộc, là chứng nhân lịch sử đã viết lên nhiều mốc son chói lọi trong những trang sử vẻ vang của dân tộc, đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho nhiều thi nhân văn sĩ.
- Trong đó phải kể đến một tác phẩm thuộc thể loại phú rất nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam ấy là bài Phú sông Bạch Đằng của tác giả Trương Hán Siêu. Phần đầu của tác phẩm nổi lên hình tượng của và cảm xúc của nhân vật "khách" khởi đầu cho cả tác phẩm phú với lối đối đáp "chủ-khách".

2. Thân bài:
* Tác giả:
- Trương Hán Siêu (?-1354), quê ở huyện Yên Ninh nay thuộc thành phố Ninh Bình, ông là một nhà văn hóa kiệt xuất của thời trung đại đồng thời cũng một nhà chính trị xuất sắc dưới thời Trần.

* Tác phẩm:
- Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Trương Hán Siêu, được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý - Trần,...(Còn tiếp)

>> Xem Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng chi tiết tại đây.

II. Bài văn mẫu Phân tích hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng

Sông Bạch Đằng đã là một địa danh quen thuộc, là chứng nhân lịch sử đã viết lên nhiều mốc son chói lọi trong những trang sử vẻ vang của dân tộc, chính vì thế sông Bạch Đằng đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho nhiều thi nhân văn sĩ, cho ra đời những tác phẩm khá nổi tiếng. Một số tác phẩm ví như Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông, Bạch Đằng giang phú của Nguyễn Mộng Tuân hay Bạch Đằng giang của Nguyễn Xưởng,... Trong đó phải kể đến một tác phẩm thuộc thể loại phú rất nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam ấy là bài Phú sông Bạch Đằng của tác giả Trương Hán Siêu. Phần đầu của tác phẩm nổi lên hình tượng của và cảm xúc của nhân vật "khách" khởi đầu cho cả tác phẩm phú với lối đối đáp "chủ-khách".

Trương Hán Siêu (?-1354), quê ở huyện Yên Ninh nay thuộc thành phố Ninh Bình, ông là một nhà văn hóa kiệt xuất của thời trung đại đồng thời cũng một nhà chính trị xuất sắc dưới thời Trần. Ông vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo, trong suốt 4 đời vua Trần ông luôn được giao phó những chức vụ quan trọng, ông cũng có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2 và lần 3. Về sự nghiệp văn chương, hiện còn lưu giữ 17 bài thơ và hai tác hẩm văn xuôi, trong đó xuất sắc nhất được gọi là kiệt tác là bài Phú sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu được các vua Trần rất mực kính trọng, tôn gọi là thầy chứ không gọi bằng tên húy, khi mất ông đã được truy phong là Thái bảo, Thái phó thờ ở Văn miếu Quốc tử giám.

Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Trương Hán Siêu, được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý - Trần, là đỉnh cao nghệ thuật của thể loại phú trung đại, tác phẩm còn được tôn vinh là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Không rõ tác phẩm được sáng tác năm nào, nhưng theo 1 số nghiên cứu thì bài phú được sáng tác khoảng sau chiến thắng quân Mông - Nguyên 50 năm, khi nhà Trần bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái.

Trong bài hình tượng nhân vật "khách" xuất hiện đầu tiên với những chuyến du ngoạn trên 2 loại địa danh, thứ nhất là du ngoạn trên các địa danh nổi tiếng trong các điển cố của Trung Quốc: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Đây đều là những danh thắng đẹp và rộng lớn của Trung Quốc, đến với các địa danh này, tác gỉa đã du ngoạn qua sách vở và thông qua trí tưởng tượng của mình. Thứ hai tác giả du ngoạn thực tế trên các địa danh của đất Việt: Cửa Đại Thanh, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, đều là những địa danh khoáng đạt rộng lớn, đẹp đẽ và đặc biệt là chúng đã từng ghi dấu son trong lịch sử. Chúng hiện lên trước mắt của Trương Hán Siêu với hai đặc điểm lớn, đầu tiên là sự thơ mộng hùng vĩ "Bát ngát sóng kình muôn dặm", dưới tầm mắt tác giả những con sóng của sông Bạch Đằng đang liên tiếp trải dài đến vô cùng vô tận, cùng với đó từ "bát ngát" lại dễ khiến người ta liên tưởng đến sự rộng lớn, hùng vĩ của khung cảnh sông nước. "Thướt tha đuôi trĩ một màu", gợi ra hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau qua lại trên sông, thật mềm mại, duyên dáng và yểu điệu, gợi ra sự thơ mộng của dòng sông Bạch Đằng vốn đã rất hùng vĩ, mênh mông. Bên cạnh sự thơ mộng, hùng vĩ, nhân vật "khách" còn cảm nhận được cái đìu hiu, lạnh lẽo thể hiện ở hình ảnh "Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu", không một bóng người. Thêm câu "Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô", hợp lại khung cảnh hiện lên lại mang thêm màu sắc thê lương, buồn bã, đầy những hoài niệm. Như vậy qua những cuộc du ngoạn, ta dễ dàng nhận thấy nhân vật "khách" là người có tráng chí bốn phương, cũng là người có tâm hồn thơ mộng, khoáng đạt ham thích du ngoạn, mở rộng tầm mắt, với một tâm thế tự nguyện và say sưa, chủ động, "tiêu dao" thảnh thơi đi đây đi đó, không hề có chút vướng bận ngoài thân. Nhân vật "khách" du ngoạn có nhiều mục đích, trước hết là thưởng ngoạn những cảnh sắc tuyệt vời của non sông, sau đó là nghiên cứu cảnh trí đất nước để bồi bổ kiến thức cho bản thân, điều mà "khách" học theo nhà sử gia nổi tiếng Tư Mã Thiên của Trung Quốc. Có thể thấy rằng hình tượng "khách" mà tác giả gây dựng ở đầu bài chính là một phân thân của tác giả, trong bóng dáng của khách ta thấy được bóng dáng của Trương Hán Siêu.

Nhân vật "khách" khi đứng trước những địa danh của đất Việt có nhiều tâm trạng và cảm xúc. Trước hết là nỗi vui mừng trước cảnh đẹp của sông nước vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đó còn là niềm tự hào không giấu nổi trước dòng sông ghi dấu những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó tác giả còn bộc lộ trực tiếp những buồn thương, nuối tiếc trước chiến trường xưa oanh liệt nay chỉ còn trơ trọi lại nỗi hoang vu và hiu quạnh khôn xiết, anh hùng nay đã mất, chỉ còn lại những dấu vết cũng sắp sửa phai mờ.

"Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâuThương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu"

Khách "đứng lặng giờ lâu", không giấu nổi sự bâng khuâng, hụt hẫng, trống trải, tâm trạng khách có sự thay đổi từ hướng ngoại, phơi phới, sôi nổi vì cảnh sắc nay đã chuyển sang hướng nội, buồn thương nuối tiếc trước dòng chảy lạnh lùng của thời gian, lịch sử, đã phủ mờ lên cảnh cũ người xưa. Ngày nay, chiến trường xưa vốn oanh liệt, nay chỉ còn bờ lau, bến lách chỉ còn sông chìm, giáo gãy chỉ còn "gò đầy xương khô", những anh hùng một thuở lưu danh trong sử sách những ngày hôm nay "đâu vắng tá" đều đã trở thành người thiên cổ. Đó cũng là những nỗi lo lắng tiềm ẩn, của một chí sĩ yêu nước trước thực cảnh của đất nước vào những năm cuối thời Trần.

Nhân vật "khách" cũng là hiện thân của Trương Hán Siêu, trước tình hình đất nước đang trên đà suy vong, khi trở về thăm lại sông Bạch Đằng, bỗng chốc nảy sinh nhiều cảm xúc, mà phần nhiều đều xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, nỗi lo cho vận mệnh của dân tộc của một nguyên lão 4 triều. Bên ngoài là cái vẻ thảnh thơi ngắm nhìn cảnh sắc hùng vĩ thơ mộng của Đại Việt ta, nhưng ấp ủ trong ấy là bao nỗi lòng hoài niệm, tiếc thương những ngày đất nước thật thái bình thịnh trị, quân đội hùng mạnh, viết nên những trang sử hào hùng. Nhưng giờ cảnh còn người mất, khiến tác giả không khỏi bâng khuâng khỏi lặng người, như vậy mạch cảm xúc tâm trạng của nhân vật "khách" chính là tiền đề khởi nguồn cho những phần tiếp theo của bài phú.

-------------------HẾT---------------------

Để thấy được nét đặc sắc trong hình tượng nhân vật khách, bên cạnh bài văn mẫu trên đây, các em có thể tham khảo thêm: Thuyết minh về hình tượng nhân vật khách trong đoạn đầu của văn bản Phú Sông Bạch Đằng, Cảm nhận về lòng yêu nước của Trương Hán Siêu trong bài Phú sông Bạch Đằng

Phân tích hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng là đề bài quen thuộc nhằm giúp các em củng cố kiến thức về bài phú cũng như kĩ năng viết bài phân tích một tác phẩm. Các em có thể tham khảo bài văn mẫu dưới đây để thấy được những đặc sắc trong hình tượng nhân vật khách và có thêm những gợi ý về nội dung khi phân tích bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu Cảm nhận đoạn 3 Phú sông Bạch Đằng Trận Bạch Đằng qua sự hồi tưởng của nhân vật tập thể các bô lão Phân tích cảm hứng yêu nước trong bài Phú sông Bạch Đằng Phân tích đoạn 2 Phú sông Bạch Đằng Dàn ý phân tích bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu

Trong nền văn học Việt Nam trung đại, ta không khó bắt gặp những hình tượng anh hùng đẹp đẽ. Đó là bài “Hịch tướng sĩ” xây dựng hình tượng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, là vị vua Lí Công Uẩn luôn hướng đến tương lai đất nước trong tác phẩm “Chiếu dời đô”. Và ta cũng không thể không kể đến tinh thần hão sảng của bậc vĩ nhân Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo. Nhưng sẽ không trọn vẹn nếu không nhắc đến tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu, với việc xây dựng hình tượng nhân vật khách nhiều tâm tư hoài niệm. Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng sẽ thấy rõ tâm tình mà tác giả gửi gắm cũng như nghệ thuật văn học độc đáo được Trương Hán Siêu sử dụng.

Nhân vật khách ở đây là một nhân vật hư cấu. Thông qua nhân vật này, tác giả thể hiện cái khí thế, cái tráng trí bón phương của người khách hay chính tác giả và gợi lại một thời oanh liệt của dân tộc với những trận đánh toàn thắng trên sông Bạch Đằng. Vì vậy, Ta có thể hiểu, nhân vật khách là hiểu hiện cho cái tôi tác giả, là sự hóa thân của người thi sĩ và cũng là một đấng anh hùng từng chinh chiến bốn phương nay mang nặng nỗi niềm về đất nước.

Thân bài

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng chi tiết

Nhân vật khách xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm, với tâm thế của một tao nhân, một du sĩ và cũng là một nghệ sĩ phóng khoáng, mang theo cái tráng trí bốn phương của một anh hùng.

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta thấy, trong đời thơ trên Trương Hán Siêu sử dụng các điển tích, điển cố, các hình ảnh có tình ước lệ và cường điệu. Nào giường buồm giong gió, nào lướt bể chơi trăng. Và có thể, nhân vật khách là người thích thú ngao, thể hiện đây là một người có tâm hồn khoáng đạt, lãng mạn, phiêu du. Kẻ khách trong đoạn thơ như đang giương buồm vi vu trời bể với gió, với trăng qua bao tháng ngày. Từ láy “chơi vơi”, “mải miết” đã nhấn mạnh sự say mê của nhân vật khách đối với giấc mộng hải hồ. Đồng thời, ở đây Trương Hán Siêu sử dụng phép liệt kê, đưa kẻ khách đến với những cảnh đẹp nổi tiếng Trung Quốc và đoạn cuối chuyến hành trình là trở về trên sông Bạch Đằng.

Những địa danh hùng vĩ nơi Phương Bắc, có thể kẻ khách đã từng ghé thăm, nhưng có thể chỉ biết qua sách vở, nhưng cho thấy vốn hiểu biết rộng lớn của bậc nho sĩ, nghệ sĩ mang tâm hồn lãng du. Người du sĩ đi để khám phá những vùng đất mới lạ và cũng để mở mang tri thức cho mình. Vì vậy Trương Hán Siêu viết “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”. Thật vậy, dù đi đến nhiều nơi, nhưng cái tráng trí bốn phương, cái sở thích ngao du vẫn còn tha thiết lắm. Kẻ khách mang hoài bão lớn được ngao du, thưởng ngoạn bốn phương nên tâm hồn luôn khoáng đạt, bay bổng. Bởi thế nhân vật khách muốn học Tử Trường cái thú tiêu diêu. Sự học ấy là quan sát thắng cảnh, vừa nghiên cứu lịch sử, trau dồi vốn hiểu biết và cũng là cách để trút bầu tâm sự.

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu.

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta thấy, người khách dong buồm khắp chốn núi non sông nước, lướt qua từng địa danh và cuối cùng đến sông Bạch Đằng. Lúc này, cảnh tượng hiện ra trước mắt nhân vật thật ngỡ ngàng làm sao, đó là khung cảnh đẹp không tả xiết của mùa thu. Bằng bút pháp miêu tả lãng mạn, Trương Hán Siêu tả mà như vẽ một bức tranh thủy mặc về dòng Bạch Đằng độ mùa thu chín nhất.

Miêu tả sông Bạch Đằng với “bát ngát sóng kình” cho thấy sông Bằng Đằng ngàn năm vẫn cuồn cuộn sóng. Còn cái thướt tha của những chiếc thuyền nối đuôi nhau như đuôi trĩ một màu cùng với cảnh trời, sắc nước đã tô đậm vẻ thơ mộng, nên thơ của dòng sông lịch sử. Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng có thể khẳng định rằng, phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên mê đắm, đôi mắt nghệ sĩ và cảm quan nghệ thuật, mới họa ra một bức tranh thu đẹp đến vậy. Cảm xúc trước thiên nhiên hùng vĩ mà không kém phần thơ mộng cứ thể reo vui, ta càng cảm nhận thêm được sự phóng khoáng, lãng mạn ở nhân vật kẻ khách, một nho sĩ uyên bác, biết rộng hiểu sâu.

Từ những xúc cảm của bậc tao nhân kẻ khách, ta không khỏi nhớ tới hình dáng của nhà nho Nguyễn Bỉnh Khiêm trong đoạn thơ:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

Và ta cũng như thấy cả khí phách, dáng hình của Cao Bá Quát trong “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”:

“Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng

Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt”

Nhưng khác với hai vị tao nhân trên, ở đây Trương Hán Siêu tìm đến thiên nhiên là để thỏa lòng đam mê ngao du thiên hạ và cũng để tìm hiểu nhiều hơn về núi non sông bể dân tộc mình. Và một ý nghĩa khác không thể không nhắc tới khi phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng , là qua việc ngắm cảnh, nhân vật thể hiện niềm hoài nhớ lẫn tự hào về một thời lịch sử hào hùng của cha ông ta. Vì vậy, kẻ khách không chỉ hiện lên là một lãng khách yêu thú tiêu dao mà còn một trí thức luôn nặng lòng với dân tộc.

Trước đó, khi nhìn thấy phong cảnh ba thu, kẻ khách thấy vui vẻ trước thiên nhiên tươi đẹp. Nhưng lúc này đây, khi đối diện, nhìn thẳng vào dòng sông Bạch Đằng, cảm xúc của nhân vật là nỗi buồn hoài niệm, bởi những chiến tích năm xưa nay đã bị mai một, bào mòn:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng , ta thấy trước đó khi miêu tả về vẻ đẹp của mùa thu trên thông, Trương Hán Siêu đã dùng bút pháp miêu tả lãng mạn. Nhưng hiện tại, bút pháp tả thực được sử dụng đã gợi lên trước mắt người đọc một khung cảnh đối lập. Kẻ khách nhìn vào dòng sông, nơi từng là một thời oanh liệt mà nay thật ảm đạm, thật thê lương. Hình ảnh bờ lau, bên lách rồi các từ láy như “đìu hiu”, “san sát” đã bao trùm lên không gian một màu xám của nỗi buồn. Nhớ năm xưa trên dòng sông này, khí thế hào hùng biết bao, nhưng nay lòng sông chỉ còn giáo gãy, rồi “gò xương khô”. Nên không còn vẻ vui tươi như trước, quan sát khung cảnh này, tâm trạng của kẻ khách bồng nặng trĩu, u buồn. Ta như thấy nhân vật khách đang buồn mà lặng lẽ cúi đầu với bao xót xa, bao ngậm ngùi và hoài tiếc. Thời gian trôi đi, vạn vật dần đổi thay, làm cho những dấu tích oai hình năm xưa của dân tộc nay chỉ còn không khí đìu hiu, u buồn. Mà cũng chính trên dòng sông này, Nguyễn Trãi nhiều năm sau lúc đi qua cũng mang cảm giác ngậm ngùi ấy, như ông viết trong tác phẩm “Cửa biển Bạch Đằng”:

Việc trước quay đầu ôi đã vắng

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng

Lúc này đây, sau khi phân phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng qua các đoạn thơ, ta thấy rõ chuyển biến tâm trạng của người thi nhân. Đó là sau bao nhiêu cảm thương, kẻ khách thể hiện cái ước vọng được trở lại những thời khắc oai hùng một thưở.

Lúc này bài thơ có sự xuất hiện của hình ảnh các bị bô lão, những người đã từng là người trong cuộc, đã chiến đấu anh dũng và giờ đây hoài niệm mà tái hiện lại quá khứ hào hùng ấy, khiến kẻ khách không khỏi tự hào, kiêu hãnh.

Sông Bạch Đằng được ca ngợi nhiều trong văn thơ, lịch sử và được xem là dòng sông huyền thoại. Bởi năm xưa, hai trận đánh trên dòng trường giang này của hai vị Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa đã khiến kẻ thù thất bại không xót lại chút hiển vinh.

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta thấy, trong đoạn thơ các bô lão kể chuyện xưa, không có sự tham gia của nhân vật khách. Tuy vậy ta vẫn như thấy vị du sĩ nàng hiện diện bằng cảm xúc. Bởi lời kể với đậm chất ước lệ, cường điệu cùng cảm hứng vũ trụ đã tái hiện vô cùng chân thực những trận đánh hào hùng của dân tộc ta những năm xưa.

Đến đây, sau khi nghe các bô lão kể chuyện, tâm trạng buồn thương của kẻ khách trước đó đã tan biến. Lúc này chỉ còn là sự kiêu hãnh, thán phục và tự hào về một quá khứ hào hùng và truyền thống yêu nước ngàn năm vẫn còn của dân tộc, nhân dân ta.

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta thấy người mặc khách lắng nghe và một mực đồng tình với những điều các bô lão kể. Bởi kẻ khách là nho sĩ am hiểu kẽ đời, từng chứng kiến lịch sử nên hiểu rằng, để thành công không chỉ cần có thiên thời, địa lợi, mà nhất thiết cần đến nhân hòa. Đến đây kẻ khách một lòng ngợi ca những người anh hùng, nhưng bậc thánh đế minh vương đã mang về những chiến công hiển hách, thu phục lòng dân, giữ yên bình cho đất nước. Và chiến công ấy được ghi tạc mãi mãi vào lichn sử dân tộc. Những lời cuối bài phú, giọng thơ như âm vang, nhịp đều cùng với sóng sông Bạch Đằng, cho thấy niềm tin vui của kẻ khách:

Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thăng bình

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao

Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng và cũng là nỗi lòng người thi nhân. Nỗi lòng nhớ về quá khứ và niềm cảm khái cùng những ưu tư về thời thế bấy giờ. Và với những nỗi hoài niềm, nhân vật khách đã khơi dậy giá trị lịch sử rất đỗi thiêng của dân tộc ta. Qua đó đề cao và trân trọng nhưng người đã chiến đấu, đã ngã xuống vì dân, vì nước.

Kết luận khi phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng

Có thể thấy, trong bài “Phú sông Bạch Đằng” Trương Hán Siêu đã sử dụng thành công bút pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học trung đại. Đó là tả cảnh và lối kể mang tính ước lệ, đó là điển tích, điển cố. Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta cũng thấy rõ kẻ khách mang những phẩm chất của chính Trương Hán Siêu. Bằng cách tô đậm cái tôi lãng du, nghệ sĩ của kẻ khác, Trương Hán siêu đã truyền tải thành công giá trị tư tưởng của tác phẩm về lịch sử hào hùng cùng truyền thống yêu nước, chiến đấu anh dũng của dân tộc.