Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thời COVID

Tháo gỡ khó khăn về chính sách để doanh nghiệp vượt qua COVID-19

[ĐCSVN] – Nhiều doanh nghiệp mong muốn chính quyền các cấp đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật nhằm tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi. Đây sẽ là hỗ trợ quan trọng cho sự phục hồi bền vững của các doanh nghiệp trong quá trình ứng phó với tác động của đại dịch toàn cầu COVID-19.

Dịch bệnh COVID-19 không chỉ làm ảnh hưởng tới đời sống xã hội mà còn làm đứt gẫy các chuỗi cung ứng, thu hẹp cả tổng cung và tổng cầu, gia tăng rủi ro tài chính đưa kinh tế thế giới vào vòng suy giảm. Làn sóng phá sản doanh nghiệp đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, với ước tính tỷ lệ doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh toán sẽ tăng tới 35% trong giai đoạn từ năm 2019 đến 2021.

Triển khai chính sách hỗ trợ linh hoạt và hiệu quả cho các doanh nghiệp [Ảnh: HNV]

Theo thống kê ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [VCCI], trung bình cứ 3 doanh nghiệp trên thế giới thì có 1 doanh nghiệp đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán. Kéo theo đó là làn sóng mất việc làm của người lao động. Báo cáo của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy, COVID-19 đã khiến cho mức tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 và 10 tháng 2021 ở mức thấp nhất và cũng là năm mà số lượng doanh nghiệp rút khỏi thị trường đạt mức kỷ lục, vượt ngưỡng 100 ngàn doanh nghiệp.

Mặc dầu vậy, thời gian qua, Việt Nam cũng ghi dấu sự kiên cường của cộng đồng doanh nghiệp để vượt lên hoàn cảnh khó khăn và quả thực, chúng ta đã phát hiện ra rằng khả năng chống chịu kiên cường đang trở thành một năng lực cạnh tranh cốt lõi của nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp Việt. Doanh nghiệp cũng đã thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều qua đại dịch. Doanh nghiệp phải suy ngẫm lại chiến lược, phải tái cấu trúc, đào tạo lại nguồn lao động, chú trọng nhiều hơn đến thị trường nội địa, xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ và chuỗi cung ứng Việt, đồng thời với việc đa dạng hoá thị trường tiêu thụ và nguồn cung ứng… Các sáng kiến trong ứng phó với COVID-19 đã được các doanh nghiệp thực hiện. Quá trình chuyển đổi số cũng từng bước được triển khai. Đó là những bài học và trải nghiệm vô giá từ COVID-19.

Có được những kết quả đó, ngoài sự chủ động tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, có vai trò cổ vũ và yểm trợ của Nhà nước. Để khắc phục hậu quả từ dịch COVID-19, nhiều chính sách đã được ban hành, với các gói hỗ trợ lớn bao gồm: Chính sách tiền tệ, trọng tâm là cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi suất, hỗ trợ tín dụng với quy mô 250 nghìn tỷ đồng; chính sách hỗ trợ bảo đảm an sinh xã hội 62 nghìn tỷ đồng; chính sách tài khóa, trọng tâm là gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất với quy mô 180 nghìn tỷ đồng và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trả lương cho người lao động 16 nghìn tỷ đồng. Chính phủ cũng đẩy mạnh các chương trình giải ngân vốn đầu tư công, tạo cú hích cho sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp. Đặc biệt, Chính phủ cũng đã trình Quốc hội thông qua nghị quyết cắt giảm 30% thuế TNDN cho các doanh nghiệp chủ yếu thuộc quy mô vừa và nhỏ, có doanh số dưới 200 tỷ đồng/năm để thực hiện giảm trọng điểm chịu ảnh hưởng bởi COVID-19. Có thể nói đây là hệ thống các gói giải pháp, chính sách khá đồng bộ, chưa từng có ở Việt Nam.

Trong đó, các chính sách hỗ trợ và sự đồng hành của Chính phủ trong bối cảnh COVID-19 được các doanh nghiệp đánh giá cao nhất là các chính sách tài khoá như việc giãn, hoãn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, tiền thuê đất, các chính sách nới lỏng về tín dụng của các ngân hàng. Kết quả khảo sát của VCCI cho thấy một số chính sách như gia hạn đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, gia hạn đóng thuế giá trị gia tăng nhìn chung dễ tiếp cận hơn cả. Còn việc vay lãi suất 0% để trả lương cho người lao động được đánh giá là chính sách khó tiếp cận nhất.

Có thể nói, việc ban hành các chính sách trên đã kịp thời cổ vũ, động viên tinh thần đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Một thông điệp vô cùng tích cực về sự đồng hành từ Chính phủ đã được lan tỏa tới cộng đồng kinh doanh.

Thực tế, suốt thời gian qua. Chính phủ cũng đã và đang chứng minh bằng hành động quyết liệt và kịp thời ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn cao điểm của đại dịch COVID-19 dù ngân sách trung ương eo hẹp. Tuy vậy, các chính sách ban hành để đáp ứng với “trạng thái khẩn cấp” đã bộc lộ những bất cập và cần phải điều chỉnh đề phù hợp với “trạng thái bình thường mới”. Hiện nay, chúng ta đang đón chờ kế hoạch phục hồi sắp tới sẽ được Quốc hội xem xét để có những giải pháp hỗ trợ bổ sung cùng với kế hoạch hành động của năm 2022 vừa được Quốc hội thông qua mới đây.

Liên quan tới vấn đề này, kết quả khảo sát của VCCI mới đây cũng chỉ ra, cộng đồng doanh nghiệp kiến nghị Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền các địa phương cần phổ biến rộng rãi hơn thông tin về các chính sách hỗ trợ, cắt giảm mạnh mẽ các thủ tục hành chính, đơn giản hoá các tiêu chí, điều kiện tiếp cận cũng như đảm bảo công bằng giữa các đối tượng trong diện được hỗ trợ. Nhiều doanh nghiệp mong muốn chính quyền các cấp đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật nhằm tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi – đây sẽ là hỗ trợ quan trọng cho sự phục hồi bền vững của các doanh nghiệp trong quá trình ứng phó với tác động của đại dịch toàn cầu COVID-19.

Thiết nghĩ, vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay vẫn là sự quyết tâm đã có, điều quan trọng là thống nhất, đồng lòng trong toàn hệ thống, từ Trung ương xuống cơ sở với việc phối kết hợp chặt chẽ để đưa các kiến nghị tổng hợp từ thực tế thực thi của các cấp chính quyền địa phương trở nên hiệu quả; từng bước gỡ bỏ các vướng mắc thực tế khi tiếp cận các gói hỗ trợ từ doanh nghiệp cũng như phát huy đúng và đủ vai trò của các phương tiện truyền thông, báo chí nhằm chung tay tuyên truyền, hỗ trợ quá trình triển khai chính sách mới…

Bên cạnh đó, hơn lúc nào hết là sự chủ động và linh hoạt từ bản thân các doanh nghiệp với các đổi mới đáp ứng nhu cầu mới với các ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số mạnh mẽ để tận dụng tối đa cơ hội từ cách mạng công nghệ 4.0 “bứt phá” vươn lên trong bối cảnh dịch bệnh còn phức tạp như hiện nay./.

Lê Anh

Ngày 19/10/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 406/NQ-UBTVQH15  về giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của Covid-19. Theo đó, doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ:

- Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 đối với trường hợp người nộp thuế theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có doanh thu năm 2021 không quá 200 tỷ đồng và doanh thu năm 2021 giảm so với doanh thu năm 2019.

Trong đó, không áp dụng tiêu chí doanh thu năm 2021 giảm so với doanh thu năm 2019 đối với trường hợp người nộp thuế mới thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách trong kỳ tính thuế năm 2020, năm 2021.

- Miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 của các khoản nợ tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với doanh nghiệp, tổ chức [bao gồm cả đơn vị phụ thuộc, địa điểm kinh doanh] phát sinh lỗ trong năm 2020.

Không áp dụng quy định tại khoản này đối với các trường hợp đã nộp tiền chậm nộp.

 Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng Covid-19 [Ảnh minh họa]

 

Theo Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, doanh nghiệp được áp dụng mức đóng bằng 0% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong 12 tháng từ 01/7/2021- 30/6/2022.

Bên cạnh đó, người sử dụng lao động dùng toàn bộ số tiền được giảm hỗ trợ người lao động phòng, chống đại dịch Covid-19.
 

3. Tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất

Căn cứ Nghị quyết 126/NQ-CP, người sử dụng lao động được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất nếu có đủ các điều kiện:

- Đã đóng đủ bảo hiểm xã hội hoặc đang tạm dừng đóng vào Quỹ hưu trí và tử tuất đến hết tháng 01/2021.

- Bị ảnh hưởng bởi Covid-19 dẫn đến phải giảm từ 10% lao động tham gia bảo hiểm xã hội trở lên so với thời điểm tháng 01/2021.
 

4. Hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động

Nghị quyết 68 quy định, người sử dụng lao động được hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp khi:

- Đóng đủ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động từ đủ 12 tháng trở lên;

- Do thay đổi cơ cấu công nghệ;

- Có doanh thu của quý liền kề trước khi đề nghị giảm từ 10% trở lên so với năm 2019 hoặc 2020;

- Có phương án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.

Mức hỗ trợ: Tối đa 1,5 triệu đồng/người/tháng trong tối đa 06 tháng.

Thời gian nộp hồ sơ: Từ 01/7/2021 - 30/6/2022.

 Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng Covid-19 [Ảnh minh họa]

5. Cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất

Căn cứ Nghị quyết 126, doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất như sau:

- Cho vay trả lương ngừng việc:

+ Người sử dụng lao động được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội với lãi suất 0% và không phải thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay để trả lương ngừng việc đối với người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc phải ngừng việc từ 15 ngày liên tục trở, trong thời gian từ ngày 01/5/2021 đến hết ngày 31/3/2022.

+ Mức cho vay tối đa bằng mức lương tối thiểu vùng đối với số người lao động theo thời gian trả lương ngừng việc thực tế tối đa 3 tháng với thời hạn vay vốn dưới 12 tháng.

- Cho vay trả lương phục hồi sản xuất:

Các trường hợp được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội với lãi suất 0% và không phải thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay để trả lương cho người lao động bao gồm:

+ Người sử dụng lao động phải tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch Covid-19;

+ Người sử dụng lao động có trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg

+ Hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong thời gian từ ngày 01/5/2021 đến hết ngày 31/3/2022.

Mức cho vay tối đa bằng mức lương tối thiểu vùng đối với số người lao động làm việc theo hợp đồng lao động và đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo thời gian trả lương thực tế tối đa 3 tháng với thời hạn vay vốn dưới 12 tháng.
 

6. Kéo dài thời gian miễn, giảm lãi vay đến 30/6/2022

Theo khoản 2 Điều 1 Thông tư số 14/2021/TT-NHNN, việc miễn, giảm lãi, phí sẽ được thực hiện đến ngày 30/6/2022 thay vì 31/12/2021 như quy định trước đó tại khoản 3 Điều 1 Thông tư 03/2021/TT-NHNN.

Trong đó, khách hàng sẽ được miễn, giảm lãi, phí khi đáp ứng đồng thời các điều kiện như sau:

- Áp dụng với số dư nợ của khoản nợ phát sinh trước ngày 01/8/2021 từ hoạt động cấp tín dụng nhưng không bao gồm các khoản nợ phát sinh từ việc mua, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp.

- Nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi đến hạn thanh toán phải nằm trong khoảng thời gian từ 23/01/2021 - 30/6/2022.

- Khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng, thỏa thuận do ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến doanh thu, thu nhập của khách hàng bị giảm.

Ngoài ra, việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cũng được tiếp tục áp dụng đến ngày 30/6/2022.

Trên đây là thông tin về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn do Covid-19. Nếu gặp vướng vướng mắc, bạn đọc liên hệ 1900.6192 để được giải đáp.

>> "Bết bát" vì Covid 19: Doanh nghiệp nên tạm ngừng kinh doanh hay giải thể?

Video liên quan

Chủ Đề