Công an về hưu gọi là gì
Không chỉ là những cá nhân mà các phương tiện truyền thông đại chúng cũng sử dụng từ ngữ chưa thống nhất. Ngay trên một tờ báo cũng có sự khác nhau giữa các tin, bài và phổ biến hơn là giữa các trang tin ở trong nước với các trang tin ở nước ngoài. Có thể ai đó cho là "viết sao cũng hiểu mà", nhưng thiết nghĩ sẽ hay hơn nếu mọi người để ý hơn để viết đúng hơn, nhất là khi báo, đài thường được kỳ vọng sử dụng ngôn ngữ đúng chuẩn. Nhắc đến những người từng đảm nhận các chức vụ, công việc nào đó mà nay đã nghỉ hưu hoặc không còn làm việc nữa, nhiều báo, đài dùng từ "nguyên". Chẳng hạn, nguyên chủ tịch nước, nguyên thủ tướng, nguyên tổng giám đốc... Tuy nhiên, cũng phản ánh về những cá nhân như thế ở nước ngoài thì hầu hết các trang quốc tế của các báo đều dùng "cựu". Ví dụ: cựu tổng thống Mỹ Obama, cựu tổng thống Ukraine Saakashvili... "Cựu" tức là cũ, thuộc thời trước, trái với "tân" (mới) hoặc "trước kia từng là" ứng với người giữ chức vụ, phận sự nào đó. Còn "nguyên" là cái gốc, cái vốn có từ ban đầu. Đối với những người đã nghỉ, đã thôi không còn giữ chức nữa thì dùng "cựu" như cách thường dùng nêu trên của các trang báo quốc tế là rất chính xác. Như thế, khi đưa tin mới xảy ra đối với ông Lê Quang Thung, người giữ chức chủ tịch hội đồng thành viên Tập đoàn Cao su Việt Nam từ tháng 3-2010 và về hưu vào đầu tháng 1-2012, từ "cựu" nên được chọn lựa vì vừa đúng vừa ngắn để viết là "khởi tố cựu chủ tịch tập đoàn cao su". Với người còn làm việc, đang giữ chức vụ, khi muốn thông tin về công việc, chức vụ trước đó của họ thì dùng "nguyên". Ở nước mình, do có nhiều người có nhiều chức nên để đỡ rối thì có thể chọn chức liền trước đó để giới thiệu. Ví dụ, nói về ông Trương Quang Nghĩa - bí thư Thành ủy Đà Nẵng - thì có thể ghi thêm là "nguyên bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải". "Nguyên", "cựu" không theo quy chuẩn nào Các nhà ngôn ngữ học cũng bàn luận nhiều nhưng mỗi người giải nghĩa theo cách hiểu của riêng mình. Có nhiều ý kiến cho rằng từ "cựu" là chỉ người nào đó sau khi rời chức vụ trước đó của mình thì về hưu luôn, không còn làm chức vụ khác nữa; còn từ "nguyên" là chỉ người nào đó sau khi rời chức vụ trước đó nhưng không về hưu mà vẫn tham gia một số chức vụ khác nữa. Ví dụ: ông H hiện nay là bí thư thành ủy nhưng ông là nguyên bộ trưởng. Trên các sách báo và các phương tiện thông tin của nước ta, việc dùng hai từ "nguyên" và "cựu" không tuân theo một quy chuẩn nào mà tùy thuộc vào mục đích của người dùng. Ví dụ: đối với những cá nhân đều gọi là "nguyên", chứ không gọi là "cựu". Không chỉ đối với các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, mà đối với cả người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng gọi là "nguyên". Ví dụ: bị cáo Phạm Thanh B, nguyên là chủ tịch hội đồng quản trị tổng công ty Y... Còn từ "cựu" chỉ được dùng đối với danh từ chung (số nhiều) như: họ đều là cựu sinh viên Trường Chu Văn An; các cựu chiến binh, cựu quân nhân, cựu thanh niên xung phong... Xem ra việc dùng hai từ "nguyên" và cựu" cũng phức tạp và nếu dùng không đúng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự trong sáng của tiếng Việt. Luật sư Đinh Văn Quế THU TÂM QPTĐ-Bộ luật Lao động năm 2019 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2019, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021 với nhiều nội dung mới, trong đó có quy định về tuổi nghỉ hưu của người lao động nói chung. Và đối với các đối tượng công tác trong quân đội nói riêng, quy định đó có trực tiếp điều chỉnh về tuổi phục vụ tại ngũ, tuổi nghỉ hưu không? Những tổng hợp sau đây mong muốn sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm nội dung này. Bộ luật Lao động không trực tiếp điều chỉnh tuổi phục vụ tại ngũ của các đối tượng công tác trong quân đội. Các đối tượng công tác trong quân đội hiện nay bao gồm: Sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan binh sĩ, công chức quốc phòng, công nhân và viên chức quốc phòng, lao động hợp đồng. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, nhóm chủ thể mà địa vị pháp lý đã được pháp luật quy định đầy đủ, đồng thời là đối tượng chủ yếu được giải quyết chế độ hưu trí trong quân đội hiện nay. Độ tuổi nghỉ hưu theo Bộ luật lao độngTại Điều 169 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: Người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng BHXH theo quy định của pháp luật về BHXH được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Theo đó, từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ. Tại Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP ngày 18/11/2020 của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu. Riêng đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân, hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân…, nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên được hưởng lương hưu khi: “Có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), Luật Công an nhân dân, Luật Cơ yếu, Luật (QNCN), công nhân và viên chức quốc phòng (CN&VCQP) có quy định khác”. Đây là điểm mới đáng lưu ý của Bộ luật Lao động năm 2019 so với các quy định trước đó. Lần đầu tiên tại đạo luật gốc điều chỉnh quan hệ lao động có quy định đối với lao động trong lực lượng vũ trang và cơ yếu. Theo đó, các đạo luật chuyên ngành quy định cụ thể về độ tuổi phục vụ, độ tuổi nghỉ hưu đối với các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh. Đồng thời, có những chủ thể vừa là đối tượng điều chỉnh của luật chuyên ngành (chịu sự quy định về độ tuổi phục vụ tại ngũ, độ tuổi phục vụ), vừa thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ Luật lao động (về độ tuổi hưởng chế độ hưu trí). |