Khi một bên chủ thể có hành vi lừa dối chủ thể bên kia thì giao dịch dân sự vô hiệu

Hiện nay, việc pháp luật đưa ra các quy định cụ thể về giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp các chủ thể tham gia giao dịch đó, bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong giao dịch dân sự, tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhằm để đạt mục đích tham gia giao dịch dân sự. Pháp luật Việt Nam cũng nêu ra các trường hợp cụ thể mà giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu. Khi tham gia vào các giao dịch trong đời sống xã hội các chủ thể cần nắm rõ các quy định này để đảm bảo quyền lợi của mình. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong Bộ luật dấn sự năm 2015.

Khi một bên chủ thể có hành vi lừa dối chủ thể bên kia thì giao dịch dân sự vô hiệu

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568

1. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu:

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, các trường hợp giao dịch bị vô hiệu có thể được phân thành hai nhóm chính cụ thể đó là:

Thứ nhất: Vô hiệu tuyệt đối (hay còn gọi là vô hiệu đương nhiên).

Các trường hợp giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối gồm có:

– Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội được quy định cụ thể tại Điều 123 Bộ luật dân sự 2015:

Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của pháp luật không cho phép các chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Còn đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Tài sản giao dịch và lợi tức thu được từ giao dịch dân sự vô hiệu có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước.

– Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo được quy định cụ thể tại Điều 124 Bộ luật dân sự 2015.

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo để nhằm mục đích che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu hoàn toàn, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ các trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 hoặc luật khác có liên quan. Đối với trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm mục đích để có thể trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

– Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được quy định cụ thể tại Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015.

Theo nguyên tắc của pháp luật thì các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Đối với những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng kí hoặc xin phép mà các bên khi tham gia các giao dịch lại không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu.

Đối với các giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản lại không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, cơ quan Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, cơ quan Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó theo quy định của pháp luật.

Thứ hai: Vô hiệu tương đối.

Các trường hợp giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối bao gồm:

– Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện được quy định cụ thể tại Điều 125 Bộ luật dân sự năm 2015.

Dựa theo yêu cầu của người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thì Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý trừ những trường hợp cụ thể sau đây:

+ Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó.

+ Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ.

+ Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

– Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn được quy định cụ thể tại Điều 126 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên tham gia giao dịch nhưng không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu cơ quan Tòa án có thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trừ trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn nhưng mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

– Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép được quy định cụ thể tại Điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015.

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì bên đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

– Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình theo quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2015.

Các chủ thể là người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu theo quy định pháp luật.

Như vậy, ta nhận thấy các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là một thể thống nhất và có những sự liên quan, mỗi quan hệ gắn bó với nhau. Chính bởi vì thế, khi xem xét một giao dịch vô hiệu hay không cần phải đặt các giao dịch đó trong tổng thể của mối quan hệ này. Theo quy định của pháp luật, nếu giao dịch vô hiệu từng phần mà không ảnh hưởng đến các phần khác thì chỉ phần vô hiệu không có hiệu lực, các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành. Quy định này là một trong những nội dung quan trọng để xác định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.

2. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép:

2.1. Thế nào là giao dịch dân sự bị đe dọa, lừa dối, cưỡng ép?

– Lừa dối trong giao dịch dân sự được hiểu là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm mục đích làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên chủ thể đó đã xác lập giao dịch dân sự đó.

– Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự được hiểu là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm mục đích để tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

Đối với những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, bị cưỡng ép và cơ quan toà án sẽ xem xét. Nếu đầy đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì sẽ chấp nhận yêu cầu đó. Như vậy, ta nhận thấy, những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực nếu không có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, bị cưỡng ép. Đối với trường hợp các giao dịch bị tuyên bố vô hiệu, bên lừa dổi, đe doạ có trách nhiệm cần phải bồi thường những thiệt hại xảy ra đối với bên bị lừa dối, bị đe doạ.

Theo quy định của pháp luật thì đối với các chủ thể bị đe dọa, lừa dối, cưỡng ép khi thực hiện giao dịch dân sự sẽ thực hiện các hành vi không phải xuất phát từ tính tự nguyện mà là do bị ép buộc bởi người khác nên đây là một giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của điều 112 Bộ luật dân sự năm 2015.

2.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự là vô hiệu:

– Theo quy định của pháp luật thì khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu cơ quan Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Hay hiểu một cách đơn giản thì giao dịch bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép sẽ chỉ vô hiệu nếu có tuyên bố của Tòa án tuyên rằng giao dịch đó là vô hiệu.

– Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép là vô hiệu là hai năm kể từ thời điểm người bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị lừa dối hoặc người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép. Trong trường hợp hết thời hạn hai năm mà không có yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch là vô hiệu thì giao dịch dân sự sẽ có hiệu lực.

2.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép:

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép về cơ bản cũng giống như hậu quả pháp lý do các giao dịch dân sự vô hiệu khác mang lại. Cụ thể:

– Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

– Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Đối với trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

– Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

– Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bị thiệt hại.

– Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân theo quy định của pháp luật hiện hành.

Nhằm mục đích tránh bị rủi ro pháp lý trong việc xác lập hợp đồng, khi tham gia các giao dịch dân sự, các chủ thể phải tìm hiểu thật kỹ thông tin của của các bên giao dịch để chắc chắn việc giao dịch này là hoàn toàn hợp pháp, không có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi tham gia giao dịch. Đối với những giao dịch quan trọng thì cần nhờ những chuyên gia, những người có kinh nghiệm pháp lý tư vấn, hỗ trợ trong việc xác lập hợp đồng là cách để giảm thiểu rủi ro pháp lý khi tham gia giao kết hợp đồng.