Phương châm tác chiến của quân dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh thắng tư năm 1975 là

Cập nhật: 25/03/2022 Tác giả : Thanh Long

Câu hỏi

Phương châm tác chiến của quân dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 là

Lời giải và Đáp án

Phương châm tác chiến của quân dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh (4 – 1975) là: “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng”. Đây là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động quân sự, là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh có tính truyền thống của dân tộc ta, đã trải qua một quá trình thừa kế, phát triển sáng tạo.

Đáp án đúng: D

QĐND - Trải qua hơn một tháng liên tục Tổng tiến công và nổi dậy, với các Chiến dịch lớn: Tây Nguyên, Trị-Thiên-Huế, Đà Nẵng và Chiến dịch Xuân Lộc giành thắng lợi to lớn, đã tạo ra thế và lực mới cho quân và dân ta mở chiến dịch quyết chiến chiến lược đánh vào Sài Gòn-Gia Định, sào huyệt cuối cùng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, nhằm kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nắm vững thời cơ chiến lược mới, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch tiến công giải phóng thành phố Sài Gòn-Gia Định (ngày 14-4-1975 đổi tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh).

Phương châm tác chiến của quân dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh thắng tư năm 1975 là

Xe tăng của Quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập trưa 30-4-1975. Ảnh: Francoise de Mulder

Chiến dịch Hồ Chí Minh được chuẩn bị chu đáo và diễn ra từ ngày 26-4-1975 đến ngày 30-4-1975, với phương châm chỉ đạo tác chiến là: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Trước khi diễn ra chiến dịch, ta đã kịp thời nắm bắt đúng thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm chiến dịch chính xác, kịp thời. Sau thắng lợi vang dội ở Tây Nguyên, ta nhanh chóng tiêu diệt Quân khu 1 và lực lượng còn lại của Quân khu 2 địch, không cho chúng co cụm về Sài Gòn. Vùng giải phóng được mở rộng, chiếm 3/4 đất đai và gần 1/2 dân số miền Nam. Một cục diện mới trên chiến trường mở ra thời cơ chưa từng có để quân và dân ta tiến lên giải phóng miền Nam đã đến. Trước thời cơ chiến lược đó, trong phiên họp ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị chủ trương: Tập trung lực lượng, binh khí, kỹ thuật và vật chất giải phóng xong Sài Gòn-Gia Định trước mùa mưa (tháng 5-1975).

Cùng với việc tạo thời cơ, nắm bắt và tranh thủ thời cơ chiến lược, ta tập trung lực lượng lớn bộ đội chủ lực, biệt động và các lực lượng vũ trang tại chỗ, trong đó 4 quân đoàn chủ lực và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) làm nòng cốt, hình thành thế bao vây, từ 5 hướng tiến công vào nội thành Sài Gòn, kết hợp chặt chẽ với lực lượng đặc công, biệt động, lực lượng vũ trang địa phương ở bên trong, cùng với quần chúng nổi dậy. Đây là sự vận dụng nghệ thuật tập trung lực lượng tạo ưu thế hơn hẳn địch trên một địa bàn chiến dịch trong thời điểm quyết định giành thắng lợi cuối cùng.

Trong thời gian rất ngắn, ta đã tạo lập được thế trận hợp vây lớn, chia cắt địch hiểm. Trước chiến dịch, ta tổ chức các đợt chiến đấu tạo thế rộng, thực hiện hợp vây lớn và chia cắt tập đoàn phòng ngự của địch, bịt chặt mọi đường rút chạy của địch ở hướng tây và tây nam về Đồng bằng sông Cửu Long, hướng đông đi Vũng Tàu ra biển, đập tan mọi sự phản kháng của địch, nhanh chóng hình thành thế trận bao vây chặt Sài Gòn-Gia Định trên tất cả các hướng: Đông, Bắc, Tây Bắc, Tây Nam và Nam. Đây là thế trận rất hiểm hóc dựa trên cơ sở lực lượng toàn chiến dịch, gồm cả lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương, trong đó các binh đoàn chủ lực cơ động là nòng cốt quyết định đánh thắng nhanh, đẩy quân địch mau chóng thất bại.

Về cách đánh chiến dịch, ta vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, đạt hiệu quả cao. Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra với mức độ tiến công quy mô lớn, dứt điểm nhanh, gọn chỉ trong hơn 3 ngày (từ 17 giờ ngày 26-4 đến 11 giờ 30 phút ngày 30-4). Ta kết hợp chặt chẽ cách đánh tập trung lực lượng ưu thế tiêu diệt các sư đoàn chủ lực cơ động địch ở tuyến phòng thủ vòng ngoài và nhanh chóng thọc sâu bằng các binh đoàn đột kích lớn cơ giới hóa vào đánh chiếm ngay 5 mục tiêu then chốt nhất ở trung tâm thành phố Sài Gòn. Đây là nét phát triển mới về cách đánh chiến dịch của ta. Với việc kết hợp ngoài đánh vào, trong đánh ra, kết hợp quả đấm rất mạnh các binh đoàn chủ lực với đánh nhỏ nhưng hiểm của các lực lượng địa phương đã làm cho địch bị phân tán, chia cắt và nhanh chóng tan vỡ.

Trong chiến dịch này, ta tổ chức hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, cả quân chủng và binh chủng trên địa bàn rộng lớn. Đó là sự phối hợp chặt chẽ giữa các binh đoàn chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương, giữa 5 hướng tiến công, giữa các binh chủng của một tập đoàn chiến lược binh chủng hợp thành. Điểm nổi bật là hiệp đồng đánh địch ở tuyến phòng ngự từ xa và đột phá tuyến phòng ngự ven đô với đánh địch bằng binh đoàn thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn, giữa chia cắt đường bộ với ngăn đường sông và khống chế đường không, giữa tiêu diệt bộ binh xe tăng, thiết giáp với chế áp trận địa pháo binh và ném bom, bắn phá, làm tê liệt sân bay địch để giành thắng lợi.

Bên cạnh lấy tiến công quân sự làm chính, ta kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng. Đòn tiến công quân sự mạnh mẽ, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài và trong nội thành, tạo điều kiện để nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ ở khóm, phường, đường phố. Ở những nơi bộ đội ta chưa đến, hoặc xa các trục đường tiến công, quần chúng nhân dân do tổ chức Đảng lãnh đạo và lực lượng vũ trang địa phương hỗ trợ đứng lên đấu tranh, giành quyền làm chủ. Có thể nói, quần chúng nhân dân ở 32 điểm vùng ven và nội đô Sài Gòn nổi dậy đã tạo thuận lợi để sáng 30-4, quân ta trên các hướng tổng công kích vào trung tâm nội thành Sài Gòn, nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu chiến lược quy định. Đặc biệt, Quân đoàn 2 tổ chức lực lượng đột kích thọc sâu, cùng lực lượng biệt động đánh chiếm và cắm cờ giải phóng lên dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Đại tá, TSDƯƠNG ĐÌNH LẬP

(Bqp.vn) - Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mang đầy đủ những nét độc đáo, sáng tạo và đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tiến công độc đáo, sáng tạo: “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” là một nét đặc sắc về nghệ thuật dùng binh của ông cha ta từ xưa tới nay. Đây vừa là tư tưởng chỉ đạo, vừa là phương châm hành động quân sự nổi bật của Bộ Tổng Tham mưu (BTTM) trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Phương châm tác chiến của quân dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh thắng tư năm 1975 là

Sở Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. (ảnh tư liệu)

Tháng 7/1973, khi Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đang diễn ra, BTTM đã tập trung nỗ lực chuẩn bị kế hoạch tác chiến chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, BTTM tiếp tục chỉ đạo Tổ Trung tâm [1] tiếp thu nội dung Nghị quyết để bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Kế hoạch được nghiên cứu rất công phu, có sự tham gia của nhiều cán bộ chủ chốt, các tướng lĩnh, lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường và được bổ sung nhiều lần trước khi trình lên Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị. Một trong những vấn đề lớn và khó khăn nhất của kế hoạch là phải tìm hiểu khả năng can thiệp trở lại của đế quốc Mỹ và sự can thiệp của các nước khi ta mở cuộc Tổng tiến công chiến lược... BTTM đã chỉ đạo các chiến trường thực hiện một số chiến dịch để thăm dò phản ứng của Mỹ và sức mạnh của Quân đội Sài Gòn như: Chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức (17/7 - 25/8/1974), La Sơn - Mỏ Tàu (28/8 - 28/9/1974), Đường 14 - Phước Long (17/12/1974 - 6/1/1975)...

Ngày 9/1/1975, sau khi đánh giá tình hình mọi mặt, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch tiến công vào Nam Tây Nguyên, mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Chiến dịch Tây Nguyên diễn ra với ba trận then chốt gần như đồng thời và liên tục. Bộ Chính trị cử đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng cùng một số cán bộ BTTM và các tổng cục vào giúp Bộ Tư lệnh Tây Nguyên (B3) điều hành chiến dịch. Quá trình chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch, BTTM đã theo dõi sát diễn biến tình hình, lực lượng và thế trận của địch, tham mưu cho Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm chính xác, kịp thời chuyển sang tổng tiến công chiến lược, tạo và thúc đẩy thời cơ để giành thắng lợi, nhanh chóng và liên tiếp mở các chiến dịch tiếp theo.

Sau Chiến thắng Tây Nguyên có ý nghĩa chiến lược, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chuyển “Kế hoạch cuộc tiến công chiến lược 1975” thành cuộc “Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975”. Trong khi Chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra, BTTM đã chỉ đạo các địa phương ở Trị - Thiên và Quân khu 5 thực hiện các đợt hoạt động mạnh của các địa phương, coi đây là hướng phối hợp chiến lược quan trọng. Tiếp đó, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm mở Chiến dịch Trị Thiên - Huế, Chiến dịch Đà Nẵng nhằm tạo điều kiện cho Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Ngay sau chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Trị Thiên - Huế, Chiến dịch Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn, hàng chục tỉnh, thành phố, thị xã được giải phóng, gần một nửa binh lực của Quân đội Sài Gòn trên toàn miền Nam đã bị tiêu diệt và tan dã. Âm mưu co cụm chiến lược của chúng bị phá sản. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài Gòn bị hạn chế. Tình hình đó đã tạo ra một thời cơ chiến lược hết sức thuận lợi để quân và dân ta bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 nhận định: “Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế sụp đổ đến nơi của nguỵ” [2]. Bộ Chính trị khẳng định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể để chậm” [3].

Trung ương Đảng, BTTM cùng quân và dân cả nước với tinh thần quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong một thời gian ngắn nhất đã phát huy truyền thống quân sự độc đáo, sáng tạo của dân tộc, khi có thời cơ và điều kiện thuận lợi, thực hiện thành công lối đánh thần tốc, táo bạo, bất ngờ.

Để bảo đảm thắng lợi lớn và nhanh chóng, BTTM Quân đội nhân dân Việt Nam đã giải quyết một loại các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề điều động và cơ động lực lượng cho chiến dịch. Ngoài những lực lượng có sẵn trên địa bàn, phải sử dụng một lực lượng cơ động từ xa. Quân đoàn 3 phát triển tiến công xuống các tỉnh đồng bằng Nam Trung bộ rồi ngược Trường Sơn lên Tây Nguyên hành quân thần tốc vào Nam bộ. Quân đoàn 2 hành quân thần tốc gần 1.000 km trong 17 ngày đêm; tổ chức cho 2.376 xe các loại, trong đó có hơn 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100 pháo lớn từ 85 - 155 mm và hơn 100 khẩu pháo phòng không các loại vượt qua nhiều sông, ngòi lớn nhỏ, lại phải vừa hành quân vừa tiến hành đột phá tuyến phòng thủ của địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân. Đưa các lực lượng kịp thời vào tham gia các trận đánh một cách nhịp nhàng, đúng kế hoạch trong thời gian ngắn, bảo đảm bất ngờ, đó là điều kỳ diệu chưa từng thấy trong tổ chức và hành quân thần tốc, táo bạo của Quân đội ta. Quân đoàn 1 cơ động vào Huế, Đà Nẵng sẵn sàng chờ lệnh rồi tiếp tục hành quân thần tốc vào tập kết ở Đồng Xoài - Đông Nam bộ để chuẩn bị bước vào chiến dịch. Tập trung được lực lượng trong một thời gian nhanh chóng như vậy là một thành công đặc biệt, thể hiện một quyết tâm rất cao của quân và dân ta nhằm chớp thời cơ, thần tốc xốc tới giành thắng lợi quyết định.

Quá trình, phát triển của cuộc Tổng tiến công và nhất là thắng lợi nhanh chóng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã khiến cho chính quyền và các nhà quân sự chiến lược Mỹ cũng như phương Tây và Quân đội Sài Gòn không sao hiểu nổi. Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Thủ tướng Chính quyền Sài Gòn, sau khi thoát thân ra được tàu Midway của Mỹ đã thốt lên rằng: “Điều tôi khó hiểu nhất là cuộc chiến đấu đã kết thúc quá nhanh... Cách đây chưa đầy một tuần tôi còn yêu cầu chính quyền để cho tôi được tiếp tục chiến đấu... Mới một tuần trước đây thôi, tôi còn cho rằng không thể chấm dứt mau chóng như thế được” [4]. Tại Oa-sinh-tơn, khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, Kít-xinh-giơ ngậm ngùi nói: “Tôi cứ tưởng rằng họ có thể thương lượng một sự đầu hàng, chứ đâu lại... tuyên bố đầu hàng. Tôi không ngờ sự việc diễn ra nhanh chóng đến mức đó”. Còn tướng Oét-mo-len thì thú nhận: “Đó là một đòn đau đớn... Tôi phải nói rằng quá trình sụp đổ đã nhanh hơn thực tế tình hình mà tôi đã nghĩ”.

Thần tốc, mau lẹ là một phương châm giành thắng lợi của Đảng ta khi thời cơ đến trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Xét toàn bộ cuộc chiến tranh, trên cơ sở đánh lâu dài, đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, Đảng ta luôn năng động, sáng tạo và nắm vững thời cơ, tranh thủ thời gian giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã khẳng định điều đó. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cũng như các tướng lĩnh chỉ huy của BTTM trong Chiến dịch Hồ Chí Minh luôn theo sát tình hình, giải quyết thấu đáo các vấn đề chỉ đạo tác chiến chiến lược, chọn đúng phương hướng, tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ; xác định đúng hình thức tác chiến và cách đánh linh hoạt, phát hiện thời cơ sau mỗi trận, sau mỗi chiến dịch để đôn đốc thực hiện tốt việc tổ chức chiến đấu, giành thắng lợi nhanh chóng và toàn diện. Một khi thời cơ xuất hiện thì yêu cầu thần tốc trở thành một nội dung trong phương châm chỉ đạo chiến lược, cũng như trong hành động quân sự của quân đội.

Tuy nhiên, muốn đánh nhanh, thắng nhanh cũng cần phải táo bạo, bất ngờ. Táo bạo là một phương châm trong tác chiến chiến lược, là một yêu cầu quan trọng của hành động quân sự, là nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tiến công. Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, BTTM đã chỉ đạo cách đánh táo bạo, bất ngờ mãnh liệt - được thể hiện rất rõ không chỉ ở tư tưởng chỉ đạo mà cả trong hành động quân sự tiến công của quân và dân ta. Chưa bao giờ ta sử dụng một lực lượng quân sự lớn mạnh như ở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tham gia chiến dịch gồm 4 quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) tinh nhuệ cùng các LLVT nhân dân. Bên cạnh còn có hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn thuộc các quân và binh chủng với nhiều vũ khí và phương tiện kỹ thuật tương đối hiện đại. Đây là một bước phát triển mới, một biểu hiện của cách đánh táo bạo của Bộ Chỉ huy về việc sử dụng tập trung lực lượng trong một chiến dịch tiến công, nhằm tạo thế và lực áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của đối phương tại trung tâm đầu não của chúng.

Nếu như trước kia, trong Chiến dịch Thăng Long, Nguyễn Huệ đã mạnh bạo sử dụng cùng một lúc hàng trăm voi chiến mang trên mình hoả hổ, hoả pháo khiến kỵ binh của quân Thanh vô cùng khiếp sợ, thì thời hiện đại ở Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã sử dụng khoảng 400 xe tăng và xe bọc thép, hơn hai chục trung đoàn, lữ đoàn, tiểu đoàn pháo binh, tên lửa và cả lực lượng không quân tham gia chiến đấu khiến quân địch hết sức ngạc nhiên.

Trong một thời gian ngắn ta đã thực hiện được một cuộc hội quân lớn như vậy chứng tỏ sự quyết tâm, táo bạo và trình độ tổ chức, chỉ huy chiến dịch của BTTM và các tướng lĩnh ta lúc đó. Tập trung lực lượng, bất ngờ tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là một nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi. Nhưng vấn đề quan trọng hơn chính là nét độc đáo, sáng tạo về cách đánh thần tốc, táo bạo và bất ngờ của nghệ thuật tiến công. Cả Quang Trung - Nguyễn Huệ khi tiến công Thăng Long và quân ta khi giải phóng Sài Gòn - Gia Định đều thực hiện thế trận tiến công toàn diện, trên nhiều mũi, nhiều hướng; thực hiện bao vây, chia cắt, thọc sâu nhanh chóng và mãnh liệt, tạo nên thế áp đảo; vừa tiêu diệt, làm tan rã, vừa bịt đường tháo chạy của địch.

Để thực hiện cách đánh “thần tốc, táo bạo và bất ngờ”, BTTM đã chỉ đạo các đơn vị bộ đội chủ lực sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào các mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra khiến cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Đó là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ. Cách đánh đó đã đưa lại hiệu quả chiến dịch lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn như chúng ta đã biết.

Thần tốc và táo bạo luôn gây cho địch những bất ngờ lớn, đồng thời đánh bất ngờ lại thường dẫn đến thắng lợi mau chóng. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, bất ngờ là một phương châm đánh giặc truyền thống thể hiện trong tư tưởng chỉ đạo cũng như trong hành động quân sự. Đánh địch bất ngờ là một nguyên tắc mà dân tộc ta đã vận dụng một cách rộng rãi, thành thạo và sáng tạo. Trong điều kiện nước nhỏ, quân ít phải chống lại những kẻ thù xâm lược lớn, quân đông và tàn bạo thì vận dụng cách đánh bất ngờ “xuất kỳ bất ý” là hết sức cần thiết. Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ” (Bình Ngô đại cáo). Lê Lợi cho rằng, nắm thời cơ đánh bất ngờ là phương châm hành động để “dùng sức một nửa mà công được gấp đôi”. Nhân tố bất ngờ được quân đội thời Trần vận dụng thành công trong kháng chiến chống quân Mông - Nguyên, khi tập kích địch ở Đông Bộ Đầu giải phóng Thăng Long (tháng 1/1258), hoặc tiến công địch ở Bạch Đằng Giang (năm 1288).

Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, điều kiện tương quan lực lượng đã khác trước. Quân ta đã vượt hẳn quân thù về cả thế và lực. Tuy nhiên trong bất kỳ tình huống nào, yếu tố bất ngờ cũng là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh. Đòn “điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột là một bất ngờ lớn đối với địch, dẫn tới sự tan rã dây chuyền nhanh chóng của chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là một bất ngờ lớn hơn nữa mà địch tuy đã lường định nhưng vẫn không đoán được. Chúng đâu có ngờ ta đã sử dụng 4 quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) tiến theo 5 hướng khác nhau, trong đó có những mũi thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới. Chúng không ngờ ta đã huy động đến 400 xe tăng và xe bọc thép làm lực lượng đột kích, cùng 500 khẩu pháo lớn và hơn nửa triệu tấn vật chất kỹ thuật cho chiến dịch, chúng sửng sốt khi ta sử dụng cả lực lượng không quân. Và chúng càng không ngờ trận tiến công lại diễn ra và kết thúc nhanh chóng đến thế.

Phương châm tác chiến của quân dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh thắng tư năm 1975 là

Trung đoàn Bộ binh 88 phối hợp đánh chiếm Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia Ngụy, ngày 30/4/1975. (ảnh tư liệu)

Như vậy, tác chiến tiến công “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng” là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động quân sự, là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của BTTM, mang đậm tính truyền thống của dân tộc ta, trải qua một quá trình thừa kế, phát triển sáng tạo trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng là một trong những bài học quí của nghệ thuật quân sự Việt Nam được BTTM Quân đội nhân dân Việt Nam vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo tác chiến chiến lược, góp phần quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (tháng 4/1975) chứng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, BTTM, của các tướng lĩnh chỉ huy và sự nỗ lực phi thường của quân và dân cả nước. Chiến thắng vĩ đại đó không những ghi vào lịch sử dân tộc ta như một mốc son rực sáng nhất trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc suốt 30 năm của quân và dân ta (1945 - 1975), mà còn là nét nổi bật và đặc sắc nhất của nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tiến công “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng”.

[1] - Tổ Trung tâm thành lập tháng 4/1973, gồm một số cán bộ chỉ huy Cục Tác chiến, do đồng chí Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng phụ trách.

[2] - Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 (số 240-NQ/TW) ngày 25/12/1974.

[3] - Hội nghị Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam (từ ngày 18/12/1974 đến ngày 8/1/1975).

[4] - Lời thú nhận của vị tướng nguỵ Sài Gòn. Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ, Nxb Thông tin, 1990.

Thượng tướng, Viện sỹ, Tiến sỹ KHQS Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng