So sánh hai kinh tin kính năm 2024

Bản văn này được gọi là Kinh Tin Kính của các Tông đồ được sử dụng rộng rãi trong giáo hội phương Tây như một bản tóm tắt ngắn gọn về các chủ đề chính của đức tin Kitô giáo. Sự phát triển lịch sử của nó rất phức tạp, với nguồn gốc của nó nằm trong các tuyên bố về đức tin được yêu cầu đối với những người muốn được rửa tội. 12 tuyên bố riêng lẻ của kinh này, dường như đã có được hình thức cuối cùng của nó trong thế kỷ thứ tám, theo truyền thống được cho các tông đồ riêng lẻ soạn thảo, mặc dù không có sự cơ sở lịch sử nào cho niềm tin này. Trong thế kỷ hai mươi, Kinh Tin Kính của các Tông đồ đã được chấp nhận rộng rãi bởi hầu hết các giáo hội, phương Đông và phương Tây, như một tuyên bố ràng buộc về đức tin Kitô giáo, mặc dù thực tế là các tuyên bố của nó liên quan đến việc “xuống ngục Tổ tông” và “sự hiệp thông của các thánh” (ở đây được in trong ngoặc vuông) không được tìm thấy trong các phiên bản phương Đông của bản văn này Xem thêm 1.5, 2.7, 4.15.

Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.

Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi,

bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai sinh bởi Bà Maria Đồng Trinh,

chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh giá, chết và táng xác,

[xuống ngục Tổ tông], ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại,

lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng,

ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.

Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này. [Các Thánh thông công].

Tôi tin phép tha tội.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.

Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Bình luận

Lưu ý cách bản văn được chia thành 12 lời khẳng định theo truyền thống, mỗi lời khẳng định được liên kết với tên của một tông đồ. Những tuyên bố đức tin này ngắn gọn và không gây tranh cãi. Chúng khẳng định một số điểm nhất định mà không chỉ trích các lựa chọn thay thế. Thật thú vị khi so sánh điều này với Kinh Tin Kính Nicene (1.5), vốn quan tâm đến việc chống lại các ý tưởng của Arian và do đó lên án rõ ràng những giáo lý như vậy. Kinh Tin Kính của các Tông Đồ tránh những cuộc tranh cãi như vậy và không có cùng mối bận tâm hay sự tập trung Kitô học như được tìm thấy trong Kinh Tin Kính Nicene. Sự ngắn gọn của những lời khẳng định tín điều phản ánh nguồn gốc của kinh này như một tuyên bố về đức tin sẽ được thực hiện tại thời điểm rửa tội của một cá nhân. Có nhiều ví dụ về các tác phẩm Kitô giáo từ thời kỳ giáo phụ cung cấp các bản mở rộng và giải thích về những tuyên bố này, chẳng hạn như các bài giảng giáo lý của Cyril thành Jerusalem.

CÂU HỎI ĐỂ HỌC TẬP

1 Bạn hãy giải thích sự khác biệt về hình thức và nội dung giữa Kinh Tin Kính Nicene và Kinh Tin Kính của các Tông đồ.

2 Tại sao kinh tin kính này ngày càng trở nên quan trọng trong các cuộc thảo luận đại kết giữa các giáo phái KiTô giáo trong những thập niên gần đây?

Tín biểu Nicea, Bản tín điều Nicea hay Kinh tin kính Nicea (tiếng Latinh: Symbolum Nicaenum) là kinh tuyên xưng đức tin của Giáo hội Công giáo. Có hai kinh tin kính mang tên Nicea. Kinh nguyên thủy do Công đồng Nicaea I soạn thảo năm 325 để chống lạc giáo Arius và một kinh thông dụng hơn là Kinh tin kính của công đồng Nicea và Công đồng Constantinopolis I (năm 381).

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Thế kỷ thứ II, xuất hiện nhiều cách giải thích khác nhau về niềm tin Ba Ngôi trong công thức rửa tội: Cha và Con và Thánh Thần. "Ảo thân thuyết" nói Chúa Giêsu có thân xác giả, "Nghĩa tử thuyết" nói Ngài là người thường được Chúa nhận là Con. Quan điểm khác thì cho rằng: Cha ở trong Con và đồng thụ nạn. Những người dựa vào câu trong Tin Mừng Gioan Ga 14,28: "Cha Tôi cao trọng hơn Tôi" lại nói Con thấp hơn và lệ thuộc vào Cha.

Năm 313, các cuộc tranh luận lan nhanh ra khắp đế quốc, trong đó có Linh mục Ario. Ario phụ trách giáo xứ Baucalis thuộc giáo phận Alexandria. Ông cho rằng: Chúa Con có khởi sự được tạo dựng, không đồng bản tính với Chúa Cha; Ngôi Lời bất toàn, đổi thay và chỉ được gọi là Chúa...

Alexander, Giám mục Alexandria không chấp nhận điều đó. Chúa Con, Lời Thiên Chúa phải hiện hữu từ vĩnh cửu như Chúa Cha. Vì nếu Ngài không phải là "Thiên Chúa làm người" thì con người không thể được Thiên Chúa hóa và không được cứu độ.

Năm 318, Ario và một số thân hữu bị vạ tuyệt thông. Nhưng ông không bỏ cuộc, ông thuyết phục nhiều bạn học cũ trong đó có Giám mục Eusebius. Cuộc tranh luận giữa hai phe bùng nổ.

Constantinus I, sau khi thống nhất đế quốc, đã ra lệnh cho đôi bên phải giải hòa nhưng thất bại, hoàng đế nghe Giám mục Osius cố vấn, viết thư mời tất cả các Giám mục về dự công đồng. Ông tin rằng sự hiệp nhất của Giáo hội ảnh hưởng lớn đến sự hiệp nhất của đế quốc.

Công đồng Chung Nicea (325)[sửa | sửa mã nguồn]

Công đồng này là công đồng chung đầu tiên của Giáo hội. Nó đã quy tụ 300 Giám mục Đông phương, 2 linh mục Roma.

Cuộc tranh luận kéo dài một tháng. Nhóm Arius bị kết án. Giám mục Osius đưa ra bản Kinh Tin Kính trong đó khẳng định Chúa Con đồng bản thể (Homoousios) với Chúa Cha, xác định Cha và Con bằng nhau hoàn toàn.

Bản văn Kinh Tin Kính được đưa ra tương đối ngắn, kết thúc bằng câu: "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần", kèm theo đó là bốn lời lên án tuyệt thông lạc giáo Arius. Arius và 2 Giám mục theo ông bị đày qua Ba Tư. Ba Giám mục khác không đồng ý nhưng ký nhận, về sau rút lại, bị phát lưu qua Gallia.

Bản Kinh Tin Kính Nicea (lược dịch)[sửa | sửa mã nguồn]

Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình. Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha; là con một duy nhất; bởi bản thể Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành trên trời đất. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã xuống thế nhập thể và đã làm người. Người chịu khổ hình; ngày thứ ba Người sống lại, lên trời và Người sẽ đến để phán xét kẻ sống và kể chết. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Nhưng bây giờ kẻ nào dám nói: "Đã có lúc Ngôi Lời không hiện hữu", "Người không hiện hữu trước khi được tạo thành", và "Người đã được tạo thành từ hư không", hay "Người là một bản thể khác", hoặc "Con Thiên Chúa đã được tạo thành, bất toàn và thay đổi" - những kẻ này bị lên án bởi Hội Thánh Công giáo thánh thiện và tông truyền.

Công đồng Constantinopoli (381)[sửa | sửa mã nguồn]

Sau công đồng Nicea, nhiều người không đồng ý chữ "Đồng bản thể" (Homoousios) vì không có trong Kinh Thánh. Họ sợ rơi vào lạc giáo không phân biệt Cha với Con.

Năm 381, hoàng đế Theodosius I triệu tập Công đồng Constantinopoli với 181 Giám mục Đông phương, nhưng 36 vị bỏ về.

Công đồng lấy lại Kinh Tin Kính Nicêa và thêm những câu như: "Tôi tin kính...Con Một Thiên Chúa" và "Chịu khổ hình", tuyên xưng về Thánh Thần "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con"...Về Chúa Con, công đồng thêm: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người...".