Tạo điểm khác biệt cho dịch vụ

Cạnh tranh về sự khác biệt không phải phương thức cạnh tranh duy nhất trong việc xây dựng chiến lược thương hiệu

1. Rất nhiều thương hiệu chọn xu hướng khách biệt hóa sản phẩm để xây dựng thương hiệu và định vị chiến lược phát triển. Tuy nhiên, hướng đi này sẽ trở thành bài toán khó cho không ít doanh nghiệp bởi không phải công ty nào cũng dễ dàng tìm ra được điểm khác biệt trong sản phẩm hay thương hiệu của mình.

Nhiều doanh nghiệp đốt đuốc tìm mỏi mắt vẫn không phát hiện ra sản phẩm/dịch vụ của mình có gì khác biệt so với đối thủ trên thị trường. Điều này không phải quá hiếm vì nhiều công ty hiện nay vẫn loay hoay tìm lối thoát như vậy. Nguyên nhân là bởi sự phát triển quá nhanh của công nghệ đã khiến nhiều sản phẩm, dịch vụ đã trở nên tương đồng về chất lượng. Ví dụ như ngành dược, ngân hàng, đồ ăn….

Nhiềm người làm Marketing hoang mang không biết sự khác biệt của sản phẩm có thật sự bền vững và là lối đi duy nhất hay không. Họ hoang mang và họ loay hoay vì mới chỉ hiểu một nửa về bản chất khác biệt hoá thương hiệu: thể hiện cái đã có. Đáng tiếc rằng một nửa này chỉ rơi vào số rất ít trong số đa số thương hiệu đang trong bối cảnh cạnh tranh thời nay.

Có một quan điểm cho rằng, khác biệt chỉ xuất hiện khi thương hiệu/sản phẩm thực sự có ưu thế vượt trội về chất lượng? Quan điểm này đúng nhưng chưa đủ vì chất lượng chỉ mới là nền tảng quan trọng của mọi hoạt động xây dựng thương hiệu.

2. Chúng ta cần hiểu đúng bản chất khái niệm khác biệt hoá thương hiệu (Brand Differentiation) trước khi nghĩ đến việc làm thế nào để thương hiệu của mình trở nên khác biệt. Brand Differentiation theo khái niệm của Brand Channel như sau:

Differentiation is Creation or Demonstration of unique characteristics in a company’s products or brands compared to those of its competitors.

(Tạm dịch: Khác biệt thương hiệu là Tạo ra hoặc Thể hiện tính chất độc đáo của thương hiệu trên cơ sở tham chiếu với đối thủ cạnh tranh.)

Dùng từ rất chuẩn: Tạo ra (Creation) hoặc Thể hiện (Demonstration). Lẽ ra theo đảo thứ tự Thể hiện hoặc Tạo ra sẽ hợp lý hơn.

3. Cách đầu tiên là Thể hiện sự khác biệt: có nghĩa là về nội tại của thương hiệu có cái gì khác với đối thủ, hãy thể hiện nó ra bằng ngôn từ chính xác và dễ hiểu nhất có thể.

Ví dụ hai quán bánh mì cạnh nhau, chất lượng sản phẩm không có sự khác biệt. Khi đó việc cạnh tranh về giá là một điều không nên vì dễ dẫn đến mâu thuẫn với các cửa hàng hiện tại. Nhưng nếu cạnh tranh dựa vào sự khác biệt ‘nội tại’ sản phẩm thì mọi việc có thể dễ dàng được giải quyết. Thay vì cạnh tranh về giá, bạn có thể tặng nước đi kèm, gia tăng giá trị sản phẩm cùng một mức tiền, chứng minh nguyên liệu của mình sạch và có nguồn gốc rõ ràng hơn…

Máy Mac vượt trội các dòng máy PC khác ở thiết kế đẹp và đồ hoạ tuyệt vời. Khác biệt này nổi trội đến nỗi, đố bạn tìm được dân thiết kế đồ hoạ nào không dùng máy Mac (trừ khi họ không đủ tiền mua). Khác biệt của máy Mac là thiết kế đẹp.

Gốm sứ Minh Long vượt trội ở lớp men trắng sáng và sự tinh xảo ở các đường nét trang trí. Khác biệt của Minh Long là men trắng và trang trí tinh xảo.

Gạo Thái Bình có điểm khác biệt rất đặc trưng khác với tất cả các thương hiệu gạo khác: vị ngọt đậm. Khi tổ chức nghiên cứu phỏng vấn chuyên sâu (do Nielsen thực hiện theo dự án của RMA tư vấn) hầu như tất cả các bà các mẹ được hỏi đều thừa nhận điều này.

4. Bạn muốn loại kem đánh răng thơm miệng có hơi thở thơm tho? Close-up sẽ được nhắc đến đầu tiên.

Bạn muốn loại ngừa sâu răng? Colgate xin có mặt.

Và răng bạn nhạy cảm dễ bị đau buốt? Xin mời dùng Sensodyne.

Nội tại ba loại kem đánh răng trên có thực sự khác nhau không nhỉ? Close-up có phải khác biệt về mang lại hơi thở thơm tho? Colgate có khác biệt về khả năng chống sâu răng? Và Sensodyne có chất đặc biệt giúp răng nhạy cảm không buốt khi đánh? Về nội tại chúng không khác nhau nhiều. Chẳng lẽ đánh Colgate thì hơi thở không thơm. Đánh Close-up thì không ngừa sâu răng?

Bạn đã nhận thức được vấn đề ở đâu rồi chứ? Rõ ràng những Close-up, Colgate hay Sensodyne đã nhanh chân chiếm lĩnh (hay Tạo ra cho riêng mình) sự khác biệt (về nhận thức) khi bản thân chúng chẳng có gì khác biệt đủ lớn khi so sánh với nhau. Nói bằng ngôn ngữ chuyên môn, đây là những “khác biệt theo cảm nhận” không phải khác biệt có thật.

Khác biệt này có tác dụng gì không? Tất nhiên là có nếu không các nhãn hàng này không đổ cả đống tiền quay TVCs quảng cáo và không ngừng mua quảng cáo giờ vàng. Trong marketing có câu nói rất phổ dụng là marketing is all about perception – marketing là cuộc chiến về cảm nhận.

Ai đóng đinh được một liên tưởng cảm nhận đắt giá – thương hiệu đó sẽ lấy được tiền của khách hàng. Close-up lấy được tiền nhờ được cảm nhận là mang lại hơi thở thơm tho. Colgate lấy được tiền nhờ được cảm nhận là có tác dụng chống sâu răng. Và Sensodyne lấy được tiền nhờ được cảm nhận là dành cho những người có răng nhạy cảm.

Sẽ có người nói tôi sẽ mua bất cứ loại kem đánh răng nào vì chúng chả có gì khác biệt. Tất nhiên là có rồi. Nhưng kể cả có những người tiêu dùng mua hàng một cách vô thức thương hiệu vẫn cần tìm ra điểm gì đó để định danh họ là ai.

Cái cách những Colgate, Close-up, Sensodyne hay Lavie (nhấn mạnh tự nhiên), Aquafina (nhấn mạnh tinh khiết) chỉ là một trong số rất nhiều cách “tạo ra” khác biệt mà thôi. Nhưng đến một lúc nào đó, các thuộc tính thương hiệu cũng sẽ bị các thương hiệu lớn, thương hiệu đi trước chiếm lĩnh hết. Doanh nghiệp nên lùi lại tìm con đường khác thay vi chỉ biết ngửa cổ lên trời than: trời ơi tôi chả có gì khác đối thủ.

5. Gây chú ý qua Identity (nhận diện, bao bì, màu sắc) cũng là giải pháp khi khác biệt về chất lượng hầu như không thể tìm ra. Tạo ra cảm xúc thương hiệu (emotional branding) là một giải pháp khác.

Ví dụ khá kinh điển là Piaggio đâu có hơn Honda về chất lượng. Nhưng giá bán thì Piaggio gấp đôi Honda các bạn nhé. Giá trị vô hình (intangible value) của thương hiệu chiếm tỷ lệ càng cao, thương hiệu đó càng khó bị bắt chước. Hình mẫu và tính cách thương hiệu nếu biết phát huy sẽ trở thành một vũ khí khác biệt cảm xúc rất có bản sắc riêng.

Nếu không làm khách hàng nhớ được về mình về bất cứ thứ gì, thương hiệu đành chịu số phận mua hàng theo ngẫu hứng (impulsive buying).

6. Và xin nhớ rằng cạnh tranh về sự khác biệt không phải phương thức cạnh tranh duy nhất trong việc xây dựng chiến lược thương hiệu. Một số thương hiệu theo đuổi chiến lược Brand Relevance (sự phù hợp thương hiệu) song song cùng chiến lược Brand Differentiation. Tất cả những điều này đều hướng tới một mục tiêu là để khách hàng nhớ đến trong top 3 cái tên đầu tiên.

Nếu không làm khách hàng nhớ được về mình về bất cứ thứ gì, thương hiệu đành chịu số phận mua hàng theo ngẫu hứng (impussive buying) của người tiêu dùng khi họ bỗng dưng nhìn thấy bạn ở kệ hàng. Hoặc họ mua bạn vì sự tiện lợi khi bạn xuất hiện cửa hàng tạp hoá gần nhà. Hoặc họ mua bạn vì bạn giá rẻ nhất chẳng hạn.

Khi đưa ra khái niệm USP (Unique Selling Proposition), Rosser Reeves cổ suý cho chủ nghĩa hiện thực với ưu tiên khác biệt lý tính của thương hiệu. Ông cho rằng quảng cáo nên nói lý do mua hàng thực tế bằng cách nhấn mạnh một chức năng vật lý nổi bật của thương hiệu. Ví dụ điển hình là kẹo M&M do chính ông viết slogan “Chỉ tan trong miệng không chảy trên tay”. Theo thời gian, cách hiểu và ứng dụng khái niệm USP này đã mở rộng hơn trong thuật ngữ thương hiệu và truyền thông. Khác biệt hoá thương hiệu, do vậy, không chỉ dừng lại tìm một USP (theo nghĩa gốc của từ này).

Và cách tiếp cận về khác biệt của marketers cũng nên mở hơn thay vì đóng khung trong những khái niệm. Các Jargons (thuật ngữ chuyên môn) sinh ra là để chúng ta dễ dàng hơn khi gọi tên các hoạt động khác nhau trong hoạt động xây dựng thương hiệu. Hiểu bản chất quan trọng hơn rất nhiều nhớ các thuật ngữ.

Biên tập theo Trí thức trẻ

TTO -Tương lai của những hàng hóa thông thường có thể tốt đẹp hơn, nếu nhà cung cấp biết cách làm cho hàng hóa của họ trở nên khác biệt trên một cơ sở nào đó. Hãy xem trường hợp của hãng hàng không Southwest Airlines (SA).

Chiến lược giá vé thấp kết hợp với dịch vụ tối ưu đã giúp SA ổn định doanh thu hàng năm liên tục trong ba thập kỷ qua, ngay cả trong những thời điểm mà các đối thủ cạnh tranh của họ buộc phải rút lui. Thành công của SA chủ yếu dựa trên sự điều hành hiệu quả, tận dụng máy bay hợp lý và năng suất làm việc của nhân viên cao. Những yếu tố này kết hợp cùng nhau đã làm Southwest trở thành thương hiệu mạnh nhất trong lĩnh vực hàng không của Mỹ.

Tương tự, Nucor đã thu được nhiều lợi nhuận trong một ngành công nghiệp hàng hóa thông thường và có tính cạnh tranh cao: kinh doanh thép tấm và thép cuộn. Phần lớn thành công của họ là nhờ quy trình đổ khuôn liên tục chế ra tấm thép mỏng với chi phí thấp mà họ đã đi tiên phong và nhờ vào việc quản lý con người một cách sáng tạo cũng như Southwest.

Ngoài hai ví dụ trên thì con đường dẫn đến khả năng sinh lợi và phát triển cho hầu hết các công ty đều là tạo nên sự khác biệt, làm cho hàng hóa của công ty khác với hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh mà không phải bằng giá cả. Việc tạo nên sự khác biệt hiệu quả có liên quan đến khái niệm phát triển thương hiệu. Điều này sẽ được trình bày ở phần sau.

Mặc dù giá cả và các đặc điểm sản phẩm có thể như nhau, nhưng bạn vẫn có thể tạo nên sự khác biệt trên cơ sở dịch vụ. Ngành kinh doanh xi măng là một ví dụ. Xi măng chỉ đơn thuần là xi măng, là một sản phẩm rất bình thường. Đó là thực tế mà công ty CEMEX tại Mexico - nhà cung cấp xi măng lớn thứ ba thế giới - phải đối mặt. Tuy nhiên, CEMEX đã phát triển khả năng giao hàng nhanh chóng và tin cậy khiến sản phẩm của họ trở nên khác biệt rõ ràng so với các sản phẩm của nhiều đối thủ cạnh tranh. CEMEX đã trở thành đối thủ mạnh trong nhiều thị trường vì họ đã áp dụng chiến lược sản phẩm và chiến lược hậu cần công nghệ cao nhằm giao hàng đúng hẹn đến 98% thời gian, so với 34% của hầu hết các đối thủ cạnh tranh. Trong lĩnh vực xây dựng hoạt động theo quy trình chặt chẽ, điều này được đánh giá rất cao, đặc biệt là khi việc giao hàng chậm trễ đồng nghĩa với việc công nhân không có việc làm nhưng vẫn phải trả lương. Trong trường hợp này, uy tín cao đã tạo nên sự khác biệt cho một sản phẩm bình thường. Bạn có thể đạt được điều tương tự bằng cách cung cấp cho khách hàng dịch vụ hỗ trợ hoàn hảo.

Một ví dụ khác liên quan đến các nông dân sản xuất bơ sữa ở bang Vermont, Mỹ. Theo tình hình chung, nông dân làm bơ sữa ở đây phải đối mặt với tình trạng sữa bị rớt giá thê thảm. Tuy nhiên, Peter và Bunny Flint ở vùng Tunbridge, Vermont, đã làm thay đổi điều đó. Năm 1989, hai người chuyển sang sản xuất sản phẩm sữa có bổ sung chất xơ và năm sau thành lập Công ty Organic Cow of Vermont. Ngày nay, 75 hộ nông dân sản xuất loại sữa này có giấy phép quanh vùng Đông Bắc nước Mỹ cung cấp sữa cho Organic Cow và được hưởng mức giá cao hơn so với khi cung cấp cho các cửa hàng tạp hóa và siêu thị.

Nguồn: Các kỹ năng tiếp thị hiệu quả - First News và NXB Tổng hợp TPHCM

LinhThoai