Thủ tiêu hết các thứ quốc trái là gì
(TG)-Là một áng văn lập quốc ngắn gọn, súc tích, Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội tuyên bố trước quốc dân và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ là một văn bản pháp lý hiện đại, khai sinh một nước Việt Nam mới, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam mà còn khẳng định quyền con người - một giá trị phổ quát của nhân loại và quyền công dân đã, đang và sẽ được thực thi ở cả phương diện lý luận cũng như trong thực tiễn.
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP VÀ VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN Thực tế, quyền công dân chỉ là những quyền con người được các nhà nước thừa nhận, áp dụng cho riêng công dân của mình; thể hiện vị thế của mỗi cá nhân trong quan hệ với quốc gia mà cá nhân đó là công dân và có nội hàm hẹp hơn so với quyền con người; đồng thời, chỉ được áp dụng trong lãnh thổ quốc gia và có thể bị thay đổi theo thời gian.
Theo Hồ Chí Minh, đây là những quyền tự nhiên vốn có của con người, là “những lẽ phải không ai chối cãi được”[16] và những quyền chính đáng ấy của con người cũng hoàn toàn chính đáng/được áp dụng đối với mọi người dân Việt Nam, đang sống trên đất nước Việt Nam. Và đã là quyền chính đáng - quyền của con người, thì bất cứ ai, tổ chức nào, quốc gia nào cũng không thể/không có quyền cướp đoạt/tước đoạt nó đi, cũng như không ai/không dân tộc nào lại cam chịu, khuất phục để bị cướp mất. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không chỉ tuyên bố đanh thép: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[17] mà còn đi đến khẳng định rằng, “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[18]…
Theo đó, tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, văn hóa (Điều 6). Công dân Việt Nam đều được bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình (Điều 7). Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện (Điều 9). Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú đi lại trong nước và nước ngoài (Điều 10). Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái luật (Điều 11). Quyền tư hữu của công dân Việt Nam được bảo đảm (Điều 13). Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu (Điều 17). Tất cả công dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người mất quyền công dân. Người ứng cử phải là những người có quyền bầu cử (Điều 18). Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mà mình đã bầu ra (Điều 20). Người dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21)…
Ths. Văn Thị Thanh Hương |