Vợ tú xương là ai

Tiểu sử Trần Tế Xương

  • Tiểu sử nhà thơ Trần Tế Xương
  • Cuộc sống sự nghiệp Tú Xương
  • Tác phẩm Thương vợ

Trần Tế Xương hay còn được biết với tên gọi là Tú Xương, trong bài viết tổng hợp dưới đây VnDoc sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Trần Tế Xương. Bài viết ngoài cung cấp cho các bạn thông tin về nhà thơ Tú Xương còn hỗ trợ các bạn nắm rõ về các tác phẩm, phong cách sáng tác để học tốt môn Ngữ văn.

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Công Trứ

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Edgar Allan Poe

Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng – trữ tình nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Cuộc đời của ông không mấy thuận lợi trong thi cử, trải qua 8 khoa thi đều hỏng thế nhưng ông vẫn lựa chọn kiên trì đến cùng. Sự nghiệp văn học của ông đã để lại cho đất nước nhiều tác phẩm có giá trị đến ngày nay. Trong bài viết này VnDoc xin được giới thiệu chi tiết về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tế Xương, đặc biệt là tác phẩm Thương vợ được giảng dạy trong chương trình Ngữ văn.

Tiểu sử nhà thơ Trần Tế Xương

Trần Tế Xương tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú Xương, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế Xương. Ông sinh ngày 10-8-1871 tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Ðịnh và mất ngày 20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện.

Tú Xương là một người rất thông minh, tính tình thích trào lộng. Có nhiều giai thoại kể về cá tính của ông.

Cuộc đời Tú Xương lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú Xương.

Ông cưới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ. Tiếng có miếng không, gặp hay chăng chớ trở thành bà Tú tần tảo một nắng hai sương. Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Ông Tú vẫn có thể có tiền để ăn chơi nhưng gia cảnh nghèo túng, việc nhà trông cậy vào một tay bà Tú.

Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xương.

Thời đại:

Cuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn nước mất, nhà tan.

Năm Tú Xương ba tuổi [1873] Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công Nam Ðịnh. Năm mười bốn tuổi [1884] triều đình ký hàng ước dâng đất nước ta cho giặc.

Tuổi thơ của Tú Xương trôi qua trong những ngày đen tối và ký ức về những cuộc chiến đấu của các phong trào khởi nghĩa chống Pháp cũng mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa của Phan Ðình Phùng [1896] bị thất bại thì phong trào đấu tranh chống Pháp dường như tắt hẳn.

Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nước, xã hội có nhiều biến động, nhất là ở thành thị. Tú Xương lại sinh ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ chế độ thực dân nửa phong

kiến được xác lập, nền kinh tế tư bản phát triển ở một nước thuộc địa làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà thơ đã ghi lại rất sinh động, trung thành bức tranh xã hội buổi giao thời ấy và thể hiện tâm trạng của mình.

Có thể nói, đứng trước sự tha hoá của xã hội nên nguyên tắc Tam cương ngũ thường của Tú Xương không đậm như Nguyễn Khuyến và càng xa rời Ðồ Chiểu.

Cuộc sống sự nghiệp Tú Xương

Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho "dài lưng tốn vải" như trong bài Hỏi ông trời của ông:

Ta lên ta hỏi ông trời:

Trời sinh ta ở trên đời biết chi?

Biết chăng cũng chẳng biết gì:

Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu

Biết thuốc lá, biết chè tàu

Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi

Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu, điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành

Mắt thời thao láo, mặt thời xanh

Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó

Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh

Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ

Rượu chè trai gái đủ tam khoanh

Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi

Cứ việc ăn chơi chẳng học hành

Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần, đó là các khoa: Bính Tuất [1886]; Mậu Tý [1888]; Tân Mão [1891]; Giáp Ngọ [1894]; Đinh Dậu [1897]; Canh Tý [1900]; Quý Mão [1903] và Bính Ngọ [1906]. Sau 3 lần hỏng thi, mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ [1894] ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ [lấy thêm], sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão [1903] Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cáu lên:

Tế đổi làm cao mà chó thế,

Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!

Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang [tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ], cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.

Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Đúng năm ông đậu tú tài [1894] thì ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu [nay là phố Minh Khai] bị cháy. Cụ Nhuận làm lại xây bằng gạch. Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu - câu thơ đó là Tú Xương nhắc đến sự kiện này - nhưng rồi ngôi nhà đó lại bị bà Hai An chiếm đoạt. Tú Xương đã phải than: Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. Nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó được in đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền.

Tú Xương mất sớm, ông chua đi trọn con đường sáng tác của mình. Nhưng những tác phẩm Tú Xương để lại có tác dụng như một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

Tú Xương sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðường.

Tác phẩm Thương vợ

  • Soạn bài lớp 11: Thương vợ
  • Soạn văn rút gọn lớp 11 bài: Thương vợ
  • Hoàn cảnh ra đời Thương vợ [Trần Tế Xương]
  • Sơ đồ tư duy Thương vợ
  • Vẻ đẹp nhân cách Tú Xương qua bài thơ Thương vợ
  • Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
  • Hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ qua Tự Tình II và Thương vợ
  • Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

Cảm nhận về bài thơ Thương vợ là một dạng đề mà thầy cô có thể thường ra trong các đề kiểm tra 1 tiết hoặc thi cuối kì. Kiến Guru sẽ gợi ý cho các bạn một vài nội dung liên quan đến dạng đề này dựa trên việc đan xen hai phương diện: nội dung và nghệ thuật, các bạn cùng theo dõi nhé!

I. Sơ lược về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả:

Đầu tiên, bài viết hướng dẫn cảm nhận về bài thơ Thương vợ này xin lưu ý với các bạn đôi điều về tác giả Trần Tế Xương. Trần Tế Xương [1870 – 1907] và thường được mọi người gọi là Tú Xương. Ông quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. 


Dù ông ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ – 37 tuổi, nhưng đã để lại cho văn học dân tộc một sự nghiệp thơ ca đáng tự hào về số lượng tác phẩm – trên 100 bài. Những tác phẩm ấy được sáng tác theo nhiều thể loại nhưng phần lớn là thơ.

Những sáng tác của Tú Xương có thể quy về hai mảng, đó là trào phúng và trữ tình. Cho dù là thuộc mảng nào đi chăng nào thì những sáng tác ấy cũng thể hiện nỗi lòng của nhà thơ với đất nước, cuộc đời và con người.

Đặc biệt hơn cả là trong “gia tài” thơ ca của mình, thơ Tế Xương có hẳn một đề tài viết về người vợ của mình bằng tất cả sự biết ơn và trân trọng bởi bà Tú là người đã chấp nhận nhiều gian truân, nhọc nhằn để vun vén cho cuộc sống gia đình. 

2. Bài thơ Thương vợ Tú Xương:

Khi cảm nhận về bài thơ Thương vợ của Tú Xương, ngoài việc giới thiệu về tác giả, các bạn cũng cần chú ý đến những thông tin xoay quanh tác phẩm này nữa nhé!

Bài thơ Thương vợ là tác phẩm nằm trong nhóm những bài thơ Tú Xương viết về bà Tú, cũng là một trong số những bài thơ chân thành và xúc động nhất của tác giả về người vợ thân thương của mình. Được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ đã thay Tú Xương bày tỏ tình yêu thương và sự trân trọng đối với sự hi sinh cao cả của vợ mình.

II. Gợi ý cảm nhận về bài thơ Thương vợ của Tú Xương

Thương vợ Tú Xương thật sự là một bài thơ chân thành và xúc động, điều đó sẽ được minh chứng qua những dòng cảm nhận sau đây.

1. Cảm nhận hai câu đề:

Hai câu thơ đầu đã giới thiệu cho người đọc biết về hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Trong hai câu thơ này, ta có thể cảm nhận được hoàn cảnh lam lũ, nhọc nhằn và hình ảnh tất tả, xuôi ngược của bà Tú qua thời gian và địa điểm được nhắc đến trong thơ. Những điều đó được gợi nên bằng các từ: “quanh năm” và “mom sông”. Trong khi từ “quanh năm” thể hiện sự xuyên suốt, ròng rã từ ngày này qua tháng nọ vì công việc tất bật thì từ “mom sông” lại gợi nên sự bấp bênh của nơi mà bà Tú làm việc, vì đó là phần đất dôi ra phía lòng sông, chông chênh và nguy hiểm. Thế nhưng thời gian và địa điểm làm việc vẫn chưa nói lên tất cả những khó nhọc mà người vợ của Tú Xương phải vượt qua, vì bà còn phải “nuôi đủ” cả “năm con” và “một chồng”. Thông thường, việc nuôi lớn các con cần sự sẻ chia của cả vợ và chồng mà đôi khi cũng còn chật vật. Ở đây, gánh lo của một người phụ nữ như bà lại thêm gấp nhiều lần người bình thường vì bà là trụ cột của gia đình.

1. Cảm nhận hai câu thực:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Đọc hai câu thơ tiếp theo, ta lại thấm thía hơn những gian khó, nhọc nhằn của người vợ. Những cảm nhận ấy được Tú Xương khéo léo gợi lên một lần nữa trong lòng người đọc qua những từ ngữ, hình ảnh mà ông sử dụng: “lặn lội”, “thân cò”, “khi quãng vắng”, “eo sèo”, “buổi đò đông”. 


Hai từ đầu tiên “lặn lội”, “thân cò” dễ giúp người đọc liên tưởng đến chất liệu nghệ thuật của văn học dân gian nên nỗi gian truân, lam lũ của người phụ nữ như bà Tú lại thêm phần được cảm nhận rõ rệt hơn. Những từ còn lại có vai trò khắc họa không gian và thời gian rợn ngợp, nguy hiểm, bấp bênh và chen chúc mà bà Tú phải đối mặt và phải cứng rắn để vượt qua.

Tuy số lượng câu chữ ít ỏi nhưng điều mà hai dòng thơ thể diễn tả lại có biên độ rộng hơn rất nhiều lần. Đó không chỉ là sự bươn chải vất vả của bà Tú mà ẩn sâu trong đó là tấm lòng cảm thương sâu sắc, da diết mà ông Tú dành cho bà.

3. Cảm nhận hai câu luận:

Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cặp câu này đã tô đậm đức hi sinh của bà Tú. Dù có thể cuộc đời đặt bà vào hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thử thách, bà không than phiền hay trách cứ mà chỉ nhẹ nhàng xem đó là “duyên”, “nợ” của cuộc đời mình. Thế nên bà nhận về mình trách nhiệm với gia đình, với chồng con, giữ thái độ chấp nhận “âu đành phận” và cũng chẳng “dám quản công” mà phàn nàn. Ấy là điều đáng quý. Ngược lại, là một người đàn ông nhưng khi thấy gánh nặng trụ cột đè nặng lên vai người vợ, nhận ra những điều này và quan trọng là nói lên trong thơ, ông Tú có lẽ nhận ra rất rõ sự chịu thương chịu khó của bà, đồng thời như trách chính bản thân mình, xem mình là “duyên”, nhưng cũng vừa là “nợ” của bà.


Đặc biệt, trong hai câu thơ này, Trần Tế Xương đã vận dụng sáng tạo và thành công thành ngữ “năm nắng mười mưa” để nói lên đức tính cao quý của bà Tú nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung.

4. Cảm nhận hai câu kết:

Hai câu thơ cuối bộc lộ rất rõ tình cảm và thái độ của tác giả trong bài thơ, đó dường như là tiếng lòng, là nỗi niềm mà nhà thơ muốn gửi gắm sau tất cả:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, 
Có chồng hờ hững cũng như không.

Cụm từ “cha mẹ thói đời” thể hiện thái độ có phần gay gắt của Tú Xương đối với nếp xấu chung của xã hội và người đời, dù hữu ý hay vô tình cũng đã ít nhiều tác động đến những nhọc nhằn, lam lũ mà bà Tú gánh chịu. 

Hơn hết, ông Tú cũng nghiêm khắc phê bình bản thân mình, điều đó thể hiện rất rõ nét trong câu thơ cuối: “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông nhận khiếm khuyết của mình, có thể xem mình là nguyên nhân sâu xa nhất khiến bà Tú phải khổ. Nhìn nhận một cách công bằng, dù cách đánh giá của ông Tú về chính mình có mức độ khách quan như thế nào thì việc ông nghiêm nghị xem xét mình đã là một biểu hiện của một nhân cách cao đẹp của một người đàn ông trượng nghĩa.

Với những gợi ý để cảm nhận về bài thơ Thương vợ, hi vọng rằng các bạn học sinh sẽ có thể làm tốt bài viết của mình nếu thầy cô có ra dạng đề này. Và quan trọng nhất là cảm nhận được cái hay của bài thơ Thương vợ, các bạn nhé!

Video liên quan

Chủ Đề