học truyền thống cổ điển và dựa vào phẩm chất của các quá trình trừu tượnghóa.Đơn vị cơ bản của từ vựng là từ. Từ là chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩađược dùng độc lập để cấu tạo câu nói. Từ vốn có ý nghĩa và năng lực gọi tên,biểu thị các sự vật, hiện tượng, trong phạm vi định danh và có năng lựctham gia vào các mối liên hệ từ vựng trong ngữ đoạn. Thoả mãn những đòihỏi của phạm vi định danh và phạm vi ngữ đoạn của hoạt động ngôn ngữ, từcó tất cả những đặc trưng tuyệt đối lẫn những đặc trưng tương đối. Chính đặcđiểm này đã biến từ trở thành một loại đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, nằm trêngiao điểm của hai trục cơ bản trong cấu trúc của ngôn ngữ - trục đối vị (trụcdọc) và trục nối tiếp (trục ngang).Bên cạnh các từ, trong thành phần từ vựng của mỗi ngôn ngữ còn tồntại rất nhiều các cụm từ cố định, thường được gọi là các thành ngữ. Cụm từ cốđịnh có nhiều điểm giống với từ: Chúng cũng có khả năng tái hiện trong lờinói như các từ; Về mặt ngữ pháp, chúng cũng có thể là thành phần của câu,cũng có thể là cơ sở để cấu tạo từ; Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu thịnhững hiện tượng của thực tế khách quan gắn liền với những kiểu hoạt độngkhác nhau của con người. Chính vì vậy, các cụm từ cố định cũng nằm trongthành phần từ vựng của ngôn ngữ, cũng được hệ thống hoá trong các từ điển.Từ và cụm từ cố định được gọi là những đơn vị định danh cơ bản củangôn ngữ, thực hiện chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng của thực tế.Tuy nhiên, cụm từ cố định không phải là đơn vị từ vựng cơ bản, bởi vì chúngdo các từ cấu tạo nên: muốn có các cụm từ cố định trước hết phải có các từ.Từ chẳng những là đơn vị cơ bản của từ vựng mà còn là đơn vị cơ bảncủa ngôn ngữ nói chung.Trong các đơn vị ngôn ngữ, từ là đơn vị có thể đảm nhiệm nhiều chứcnăng nhất. Chức năng cơ bản của từ là chức năng định danh, nhưng trong dãyngữ đoạn, từ còn mang chức năng phân biệt nghĩa, làm bộc lộ ý nghĩa nàyhay ý nghĩa khác của những từ nhiều nghĩa. Tuỳ theo tính chất của mình, từ17có thể đảm nhiệm những chức năng khác nhau trong cấu trúc ngôn ngữ.Thuộc tính nhiều chức năng của từ cho phép nó trở thành một đơn vị chiếm vịtrí trung tâm trong cấu trúc của ngôn ngữ.Cấu trúc ý nghĩa của từ rất phức tạp, trong đó có cả nhân tố từ vựng lẫnnhân tố ngữ pháp: Những ý nghĩa chung cho toàn bộ lớp từ không tương quanvới loạt sự vật, được gọi là những ý nghĩa ngữ pháp; Đặc trưng khái quáthóa về phương diện phạm trù của một từ do nó tham gia vào một nhóm ýnghĩa nào đó mà có được; Ý nghĩa từ vựng vốn có đối với một từ cụ thể,tương quan với một loạt sự vật và là sự phản ánh của các sự vật và các quanhệ của chúng trong hiện thực.1.3.2 Đặc điểm của từ và từ vựng tiếng Việt1.3.2.1 Từ tiếng ViệtTừ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mangnhững đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhấtđịnh, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt vànhỏ nhất để tạo câu [3, tr. 16]. Các thành phần ngữ âm, thành phần ngữpháp, thành phần cấu tạo, thành phần ý nghĩa không độc lập đối nhau màthống nhất với nhau thành một hợp thể gọi là từ. Trong đó, ngoài thành phầnngữ âm thì các thành phần còn lại không phải là của riêng mỗi từ, chúng cóthể xuất hiện trong từ này cũng có thể xuất hiện trong từ kia.Về đặc điểm ngữ âm thì hình thức âm thanh của từ tiếng Việt cố định,bất biến ở mọi vị trí, mọi quan hệ và chức năng trong câu. Tính bất biến, tínhcố định về âm thanh là điều kiện hết sức thuận lợi giúp chúng ta nhận diệnđược từ khá dễ dàng. Chúng có quan hệ mật thiết tính độc lập tương đối caocủa từ tiếng Việt đối với câu, với ngôn cảnh.Về đặc điểm ngữ pháp thì tính chất chung nhất của các đặc điểm ngữpháp là tính đồng loạt, điều đó có nghĩa là những đặc điểm ngữ pháp tìm rađược không phải là của riêng một từ mà còn là của chung một số từ. Nhờ tínhđồng loạt đó mà từ vựng của một ngôn ngữ mới chia ra được thành các từ18loại. Ở tiếng Việt, đặc điểm ngữ pháp của từ không biểu hiện trong nội bộ từmà biểu hiện chủ yếu ở ngoài từ, trong tương quan của nó với các từ kháctrong câu [3, tr. 22]. Đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt là tổng thể củanhững đặc điểm kết hợp, khả năng làm thành phần cụm từ, thành phần câu.Về đặc điểm cấu tạo của từ tiếng Việt bao gồm yếu tố cấu tạo từ, đơn vịcấu tạo từ và phương thức cấu tạo từ.Xét theo khả năng sản sinh ra các từ cho từ vựng tiếng Việt thì yếu tốcấu tạo từ là những yếu tố mà tiếng Việt sử dụng để cấu tạo ra các từ cho từvựng. Trong tiếng Việt các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm cónghĩa nhỏ nhất tức là những yếu tố không thể phân chia nhỏ hơn nữa màcũng có nghĩa được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương thức cấu tạotừ của tiếng Việt. Chúng ta gọi các yếu tố có đặc điểm và chức năng như trênbằng thuật ngữ có tính quốc tế: hình vị [3, tr.28].Phương thức cấu tạo từ là cách thức mà ngôn ngữ tác động vào hình vịđể cho ta các từ. Tiếng Việt sử dụng ba phương thức sau đây để tạo từ, đó làphương thức từ hóa hình vị, ghép hình vị và láy hình vị.Từ hóa hình vị là phương thức tác động vào bản thân một hình vị, làmcho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từmà không thêm bớt gì cả vào hình thức của nó. Phương thức này chủ yếu chỉtác động vào các hình thức ngữ âm mô phỏng âm thanh và các yếu tố vaymượn.Ví dụ: gac đờ bu, mỳ chính, ti vi, cát sét, radio,Ghép là phương thức tác động vào hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa,kết hợp chúng với nhau để sản sinh ra một từ mới mang đặc điểm ngữ phápvà ngữ nghĩa của từ).Ví dụ: bàn học, bàn ăn, bố mẹ, thầy trò, xe máy, máy cày, hợp tác xã,sách vở19Láy là phương thức tác động và một hình vị cơ sở làm xuất hiện mộthình vị láy giống nó toàn bộ hay bộ phận về âm thanh. Cả hình vị cơ sở vàhình vị láy tạo thành một từ mang đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của từ.Ví dụ: ầm ầm, ào ào, xanh xanh, đo đỏ, rì rầm, rì rào, lênh khênh, khúckhuỷu, róc rách, líu lo, Ngoài ra, trong tiếng Việt còn có phương thức tạo từ theo lối chuyểnnghĩa một từ đã có sẵn.Ví dụ: từ ốc để chỉ sinh vật (con ốc, ốc sên) chuyển nghĩa cho ra từốc để chỉ đồ vật (ốc vít, đinh ốc); từ ruột để chỉ một bộ phận sinh vật(ruột con gà) chuyển nghĩa cho ra từ ruột để chỉ một bộ phận của đồ vật(ruột bút).Xét về mặt cấu tạo, có thể phân chia từ tiếng Việt thành ba loại lớn nhưsau:- Từ đơn: là những từ có một hình vị , về mặt ngữ nghĩa chúng khônglập thành những hệ thống có một kiểu ngữ nghĩa chung. Chúng ta lĩnh hội vàghi nhớ nghĩa của từng từ một riêng rẽ. Kiểu cấu tạo không đóng vai trò gìđáng kể trong việc lĩnh hội ý nghĩa của từ [3, tr.40].Ví dụ: bố, mẹ, ghế, bàn, cô, thầy, cháu, chó, mèo cây, hoa,- Từ ghép: là những từ được sản sinh do sự kết hợp của hai hoặc một sốhình vị (hay đơn vị cấu tạo) tách biệt, riêng rẽ,độc lập đối với nhau. Phươngthức ghép có các cách thức cụ thể khác nhau, do đó sản sinh ra các loại từghép không giống nhau về ngữ nghĩa. Phân loại các từ ghép tiếng Việt thựcchất là phát hiện ra các cách thức cụ thể mà phương thức ghép đã vận dụng đểsản sinh ra các từ ghép cho tiếng Việt. Tiếng Việt có một số loại từ ghép như:từ ghép phân nghĩa, từ ghép hợp nghĩa, từ ghép biệt lập, từ phức Hán Việt,theo Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng, ngữ nghĩa tiếng Việt. Nhưng nhìnchung, để dễ hiểu hơn, chúng ta có thể sử dụng cách thức phân chia từ ghéptiếng Việt thành hai loại lớn là từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.20Từ ghép đẳng lập là từ ghép mà giữa các tiếng có quan hệ bình đẳng,độc lập ngang hàng nhau, không có tiếng chính, tiếng phụ. Nói cách khác, từghép đẳng lập là từ được ghép từ những tiếng bình đẳng với nhau cả về ngữpháp lẫn ngữ nghĩa.Ví dụ: bạn bè, áo quần, xây dựng, anh chị,....Từ ghép chính phụ là từ ghép mà giữa các tiếng có quan hệ tiếng chính,tiếng phụ. Nói cách khác, từ ghép chính phụ là từ ghép mà giữa các tiếngđược ghép lại không bình đẳng với nhau về ngữ pháp, ngữ nghĩa.Ví dụ: xe cộ, đường sá, chợ búa, viết lách, máy móc, hội hè, trôngnom,Từ ghép đẳng lập thường được dùng để chỉ lớp khái quát sự vật, hiệntượng, con người. Còn từ ghép chính phụ để chỉ lớp đối tượng, sự vật, hànhđộng, cụ thể, tách biệt.- Từ láy: là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phươngthức lặp lại toàn bộ hay bộ phận của âm tiết (hình vị). Các từ láy có thể phânthành từng kiểu khác nhau. Trước hết, từ láy được phân chia thành từ láy đôivà từ láy ba, láy tư.Sở dĩ chúng ta tách kiểu láy đôi ra khỏi kiểu láy ba, láy tư là vì chúngta dựa vào thành tố cấu tạo. Kiểu láy đôi là kiểu từ láy có hai âm tiết. Kiểu láyba là kiểu láy có ba âm tiết và láy tư là kiểu láy có bốn âm tiết. Kiểu láy bađược cấu tạo nên trên cơ sở kiểu lặp hoàn toàn; kiểu láy tư có thể được cấutạo nên trên cơ sở kiểu láy bộ phận hoặc láy hoàn toàn.+ Loại láy đôi có thể phân chia thành hai kiểu láy là láy toàn bộ và láybộ phận.Láy toàn bộ là các tiếng lặp lại nhau hoàn toàn, nhưng cũng có một sốtrường hợp, tiếng (âm tiết) đứng trước biến đổi thanh điệu hoặc phụ âm cuốiđể tạo ra sự hài hòa về âm thanh .Ví dụ: xanh xanh, đo đỏ, thăm thẳm, nghiêng nghiêng, tim tím, ào ào,ầm ầm, chuồn chuồn.21Láy bộ phận là kiểu từ láy mà giữa các tiếng có sự giống nhau về phụâm đầu hoặc phần vần.Ví dụ: mập mạp, gọn gàng, phờ phạc, líu lo, róc rách,liêu xiêu, trậptrùng, phập phồng, co ro, lác đác, lúng túng, cập rập, lơ thơ, bồng bềnh, lụpsụp+ Từ láy ba, láy tưTừ láy ba trong tiếng Việt không nhiều lắm về mặt số lượng, vớikhoảng 40 từ theo thống kê của Nguyễn Thiện Giáp [2, tr.128]. Nếu xétphương pháp cấu tạo từ láy ba trên cơ sở từ láy đôi thì có các khả năng: thêmmột yếu tố vào trước láy đôi (X + AB); thêm một yếu tố vào sau từ láy đôi(AB + X); thêm một yếu tố vào giữa láy đôi (A + X + B).Ví dụ: cỏn còn con, sạch sành sanh, lơ tơ mơ, dửng dừng dưng, cuốngcuồng cuồng,Cũng như từ láy ba, từ láy tư cũng là loại từ láy xây dựng trên cơ sở từláy đôi. Nhưng từ láy tư chủ yếu xây dựng trên cơ sở láy đôi bộ phận.Ví dụ: róc ra róc rách, lôi thôi lếch thếch, hì hà hì hục, lênh kha lênhkhênh, lủng cà lủng củng, lững thà lững thững, hớt hơ hớt hải, tần ngẩn tầnngần, lảm nha lảm nhảm, lơ thơ lẩn thẩn,1.3.2.2 Từ vựng tiếng ViệtTừ vựng không chỉ bao gồm các từ mà còn bao gồm cả các ngữ, tức lànhững cụm từ sẵn có tương đương với từ (như các cụm từ cố định, thành ngữ,tục ngữ...). Tuy nhiên, "trong các đơn vị từ vựng, từ là đơn vị cơ bản. Ngữkhông phải là đơn vị từ vựng cơ bản vì nó do các từ cấu tạo nên, muốn có cácngữ, trước hết phải có các từ" [13, tr.191].Đơn vị từ vựng là đơn vị mà nội dung cơ bản của nó có tính chất vậtchất (tức là có tính chất sự vật chứ không phải có tính chất ngữ pháp), còn sựtương ứng với những nguyên tắc định hình của các từ riêng biệt vốn có đốivới ngôn ngữ đó. Từ là đơn vị cơ bản của từ vựng. Bên cạnh từ, trong thành22phần từ vựng của mỗi ngôn ngữ còn tồn tại nhiều đơn vị từ vựng là các cụmtừ, những đơn vị này thường được gọi là thành ngữ, quán ngữ.Thành ngữ là những cụm từ mà trong cơ cấu cú pháp và ngữ nghĩacủa chúng có những thuộc tính đặc biệt, chỉ có ở cụm từ đó. Nói cách khác,thành ngữ là một cụm từ mà ý nghĩa của nó không được tạo thành từ ý nghĩacủa các từ cấu tạo nên nó [13, tr.209]. Ác giả ác báo, Ếch ngồi đáygiếng, Há miệng chờ sung, Lá lành đùm lá rách, là những thành ngữtrong tiếng Việt, bởi vì ý nghĩa của chúng không phải là ý nghĩa của các thànhtố hợp lại theo quy tắc cú pháp. Thành ngữ có tính hoàn chỉnh về nghĩanhưng lại có tính chất tách biệt của các thành tố trong kết cấu, do đó nó hoạtđộng trong câu với tư cách tương đương với một từ cá biệt.Quán ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại vănbản để liên kết hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. thiết nghĩ,nói cách khác, nói tóm lại, trước hết, sau cùng, là các quán ngữtrong tiếng Việt. Về ý nghĩa cũng như về hình thức, các quán ngữ giống nhưcác cụm từ tự do nhưng chúng được dùng lặp đi lặp lại như một đơn vị có sẵn.Do đó, quán ngữ chiếm vị trí trung gian giữa cụm từ tự do và cụm từ cố định.Từ vựng là một trong ba bộ phận chủ yếu cấu thành nên toàn bộ cơ cấumột ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Do đó, trong quá trình dạy và họcmột ngôn ngữ, việc cung cấp và thực hành từ vựng đóng vai trò hết sức quantrọng; nó thường được tiến hành ở ngay bài học đầu tiên và hầu như quyếtđịnh đối với quá trình hiểu và giao tiếp của người học. "Thụ đắc từ là mộtnhiệm vụ quan trọng nhất và to lớn nhất đối với người học một ngôn ngữ..."Tiểu kết:Trên cơ sở lí thuyết về từ vựng và đơn vị của từ vựng, chúng ta nhậnthấy cái dễ và khó trong việc sử dụng từ trong giao tiếp, đặc biệt là đối vớingười bắt đầu học. Vì vậy, việc dạy về cấu tạo từ phải thực hiện theo nguyên23tắc từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, cung cấp cho người học một lượng từ vừaphải ở những mức độ khác nhau trong những giai đoạn học khác nhau.Độ khó trong việc hiểu từ, nắm bắt và sử dụng từ lệ thuộc vào nhiềunhân tố, trong đó nhân tố cấu trúc, nhữ nghĩa và ngữ pháp của từ đều có tầmquan trọng và khó khăn của nó.Nói tới tiếng Việt là nói tới cả ba mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp củanó, nhưng so với ngữ âm và ngữ pháp thì từ vựng có tầm quan trọng hàng đầubởi vì chính từ vựng mới trực tiếp phản ánh đời sống xã hội. Mọi diễn biếntrong đời sống xã hội đều được ghi nhận trước hết trong từ vựng; ngữ âm vàngữ pháp chỉ quan hệ với đời sống xã hội một cách gián tiếp thông qua từvựng. Do đó, trong quá trình học và dạy tiếng Việt cũng như học và dạy mộtthứ tiếng bất kì nào khác, từ vựng đóng một vai trò quan trọng, cần yếu đầutiên. Việc tích luỹ từ vựng là quá trình vết dầu loang,có nghĩa là sự tích luỹdần và tuỳ theo đối tượng, mục đích việc tích luỹ từ vựng cũng khác nhau. Dovậy, việc biên soạn giáo trình không thể đáp ứng đồng đều theo yêu cầu củamỗi người mà chỉ cần đáp ứng yêu cầu của mẫu số chung.Để đáp ứng yêu cầu cung cấp vốn từ hữu ích cho học viên một cáchnhanh và hiệu quả nhất, giúp học viên nhận diện từ và ghi nhớ từ một cách dễdàng thì trong khi biên soạn giáo trình, bên cạnh hệ thống bài học được xácđịnh, các tác giả cũng cần chú ý xác định hệ thống chủ điểm (chủ đề) mộtcách hệ thống nhằm đảm bảo tính tương thích, cập nhật của vốn từ.24CHƯƠNG 2PHÂN TÍCH NGUỒN NGỮ LIỆU ĐƯỢC KHẢO SÁTTHEO ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG NGỮ PHÁP CỦA VỐN TỪ2.1. DẪN NHẬP2.1.1 Theo cách hiểu truyền thống, phạm trù từ vựng - ngữ pháp củamột ngôn ngữ là hệ thống từ loại của ngôn ngữ đó. Điều này có nghĩa rằngmỗi phạm trù từ vựng ngữ pháp còn được gọi là một từ loại (theo cách nhìncủa ngữ pháp học).25Vấn đề từ loại là một vấn đề xa xưa và cổ truyền bậc nhất của ngữpháp học, đúng hơn là của ngữ pháp học truyền thống. Học thuyết về từ loạira đời từ thời cổ Hy Lạp, gắn với tên tuổi của nhà triết học Aristot . Thuở ấytừ loại đã được đặt trong quan hệ với lo - gic, song Aristot đã không gắn từloại với chín phạm trù mà ông đề xuất [10, tr. 14]. Và một học thuyết trọnvẹn về từ loại đã được hình thành vào thời kì Alexandria (thế kỉ 3 - 1 trướcCông nguyên).Về nguyên tắc phân định từ loại, các nguyên tắc được sử dụng lànguyên tắc hình thái học và ngữ nghĩa, hoặc là chỉ dùng nguyên tắc hình tháihọc, hoặc là sử dụng pha trộn cả hai nguyên tắc này.Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, không biến đổi vềhình thái, do đó không có biểu hiện về hình thái của từ loại. Trên thực tế, cácbảng phân định từ loại của tiếng Việt cho đến nay vẫn căn cứ vào phươngpháp và kết quả nghiên cứu về từ loại của các ngôn ngữ châu Âu, có nguồngốc từ thời Alexandria và được hiệu chỉnh vào thế kỉ 17 trong Ngữ pháp duylí và phổ quát của Port Royal, cộng với những điều chỉnh cho thích hợp hơnvới tiếng Việt.Các từ loại của ngôn ngữ là những lớp từ nhất định của ngôn ngữ ấyxét ở đặc trưng ngữ pháp. Cho đến nay có cách phân loại khá phổ biến trongphân định từ loại là phân định vốn từ của một ngôn ngữ thành hai lớp kháiquát là thực từ và hư từ, và tiếp đó là phân chia ra nhiều lớp cụ thể hơn vớinhững đặc trưng xác định hơn.2.1.2 Bàn về vấn đề từ loại, từ trước đến nay vẫn có nhiều quan điểmvà có ý kiến còn hồ nghi, đặt câu hỏi rằng, trong tiếng Việt có tồn tại kháiniệm về từ loại hay không? Trong các ngôn ngữ biến hình từ loại được phânđịnh dựa vào tiêu chí hình thức, còn đối với tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập,đã có những ứng xử không giống nhau về từ loại. Trong lịch sử nghiên cứutiếng Việt có những ý kiến cho rằng từ tiếng Việt không định loại được vìchúng không có một dấu hiệu hình thức nào cả, nói cách khác là tiếng Việt26không có cái gọi là từ loại. Tuy nhiên số đông các nhà nghiên cứu thì chorằng tiếng Việt vẫn có từ loại và họ đã ra công tìm tòi các dấu hiệu kháchquan để định loại.Phủ nhận sự tồn tại của từ loại là nhóm tác giả: Lê Quang Trinh,Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường. Theo Lê Quang Trinh Trong tiếng Việt,không có quán từ, danh từ, cũng không có đại từ , động từ không có giống,không có số: chỉ có tính từ không thôi, những từ đó nhất loạy là đơn âm tiết,nói chung không biến hình và ý nghĩa của chúng là do những từ đặt trước hayđặt sau, nghĩa là do tác dụng và vị trí của chúng ở trong câu làm cho biến đổiđi và rõ ra.... (Dẫn theo[12, tr.189]).Đến năm 1949, Hồ Hữu Tường đề cập lại vấn đề này. Ông viết: TiếngViệt cơ cấu theo một lối khác hẳn so với các ngôn ngữ phương Tây (không cósự biến đổi hình thái), do đó không có từ loại, mà, tùy thuộc vào vị trí trongcâu mà có tính chất (thuộc tính) nhất định, mỗi từ có thể có nhiều thuộc tínhkhác nhau (Dẫn theo[13, tr.189]).Với những người khẳng định tiếng Việt có từ loại thì từ loại tiếng Việtđược phân định thành thực từ với hư từ và tiếp đó, phân định thành những lớptừ loại cụ thể.Khi phân định từ loại tiếng Việt thành có xu hướng khá thống nhất làcăn cứ vào ba tiêu chuẩn sau đây:- Ý nghĩa khái quát (còn được gọi là ý nghĩa phạm trù chung)- Khả năng kết hợp (Với tư cách là một tiêu chuẩn thuộc mặt biểu hiệnhình thức)- Khả năng giữ một hay một số chức vụ cú pháp chủ yếu (tức là khảnăng làm thành phần câu, tiêu chuẩn về chức năng).Ba tiêu chuẩn này sẽ được vận dụng theo những cách và những mức độthích hợp trong quá trình định loại các lớp từ tiếng Việt. Tuy không trực tiếpnhưng phạm trù từ loại cũng là một tiêu chí đáng được phân tích khi khảo sáttừ vựng trong các giáo trình dạy tiếng.27